Trần Quang Minh
Tiếp theo bài trước: https://tuanhuusac.blogspot.com/2020/11/pho-bo-mon-qua-can-ban.html, tôi xin giới thiệu bài này để tỏ tường hơn về món Phở.
Kể từ đầu thế kỷ 20 đến nay đã có nhiều tranh cãi nguồn gốc ra đời của Phở. Tuy vẫn còn bất đồng về nơi xuất xứ thực sự hay thời điểm ra đời nhưng hầu hết cùng chung quan điểm là Phở được khai sinh trong thời Pháp thuộc, ở giai đoạn người Pháp bắt đầu đẩy mạnh khai thác thuộc địa ở Việt Nam.
Theo lời kể của ông Võ Văn Côn – Nguyên là Chef Bếp Việt của Vua Bảo Đại,
có một giai thoại khá thú vị về nguồn gốc của món Phở.
Mình (Tuấn Long) đồng ý với giả thuyết này.
Trong Tự điển tiếng
Việt – Bồ đào Nha – La tinh của Alexandre de Rhodes xuất bản năm 1651 không có
từ “Phở”. Trong Tự điển Huỳnh Tịnh Của (biên soạn năm 1895) và Tự điển Genibrel
(biên soạn 1898) cũng không có từ Phở. Danh từ Phở được chính thức ấn hành lần
đầu trong cuốn Việt Nam tự điển (1930) do Hội Khai Trí Tiến Đức khởi thảo và
giảng nghĩa: “Món ăn nấu bằng bánh bột gạo thái nhỏ với nước dùng bằng thịt bò
hầm”.
Nhà Văn Nguyễn Công
Hoan từng viết: “Năm 1913… tôi trọ số 8 Hàng Hài… thỉnh thoảng, được ăn phở
(hàng Phở gánh rong). Mỗi bát 2 xu (có bát 3 xu, 5 xu)”. Phở rong bắt đầu thịnh
hành nên bị chính quyền đánh thuế: “… Họ phải mua hai hào tem thuế mỗi ngày.
Như vậy có thể xem Phở xuất hiện khoảng giữa những năm 1900 đến 1913”.
Người Việt
ngày xưa 99% là nông dân, họ coi bò là loài gia súc thân thương và hữu ích (sức
kéo) nên không ăn thịt bò! Thậm chí còn bị xử tội nếu không chứng minh được bò
già hoặc ốm chết (tuanlong).
Vì thế nói
quê hương phở bò ở Nam Định là không hợp lý.
Chuyện là:
Năm 1910, nhiều thanh niên Việt Nam cả miền Bắc lẫn miền Nam đi lính cho Pháp. Họ phải sang mẫu quốc để phục vụ một thời gian, trong số đó có một người từng làm phụ bếp cho Toàn quyền Sài Gòn tên Huỳnh.
Đơn vị ông Huỳnh đóng quân ở Marseille và ông được giữ chức bếp trưởng của binh đoàn toàn lính người An Nam. Sáng nào ông Huỳnh cũng ra lệnh đốt bếp lò thật sớm bằng cách hô to: “Feu! Feu!” có nghĩa là “Nổi lửa lên!” (feu = ngọn lửa - tiếng Pháp) để nấu súp thịt bò cho binh sĩ ăn điểm tâm với bánh mì khô. Thấy binh sĩ người Việt bỏ ăn sáng hơi nhiều, ông Huỳnh bèn nghĩ ra một món mới, hy vọng anh em binh sĩ An Nam sẽ cảm thấy dễ nuốt hơn.
Sau khi được các
“Sếp Tây ” cho phép, ông bèn lấy nước súp bò của Tây… cho hầm chung với quế,
hồi, gừng. Riêng “ánh tài phảnh” mua của người Tàu bán ở Khu Chinois rồi ông
Huỳnh nêm thêm nước mắm vào súp cùng với hành, ngò rí, hành tây… cho hợp khẩu
vị Việt Nam. Tuyệt vời thay, ở xứ lạ quê người, buổi sáng trời lạnh như cắt da,
mà lại được ăn một bát súp nóng hổi ngào ngạt đậm mùi quê hương thay vì ăn bánh
mì Tây quá ư nhạt nhẽo!
Binh sĩ An
Nam ủng hộ Chef Huỳnh hết mình. Nấu bao nhiêu cũng hết! Các sĩ quan Pháp thấy
vậy đòi ăn thử, ai cũng tấm tắc khen ngon rồi thắc mắc: “Tên món này là món gì
mà sáng nào Monsieur Huỳnh cũng ra lệnh Feu Feu vậy?”
Không chần
chừ ông Huỳnh trả lời: Thưa Sếp, tên nó là Phở (Feu) đấy!
Phở ra đời
năm ấy – năm 1910, được Tây lẫn Ta yêu thích và chết tên “Feu” từ đó. Khi muốn
ăn, sĩ quan Tây chỉ cần nói “Feu Feu” là có tô phở bò hầm kiểu An Nam nóng hổi
khói bốc nghi ngút theo gió thơm lừng cả doanh trại.
Nhiều binh
lính An Nam nhà ở Hà Nội sau khi giải ngũ về đã lấy Phở gánh với tiếng rao:
Feu….ớ… làm kế sinh nhai, thực khách là lính Tây và kiều dân Pháp. Dân Hà Nội
cũng ăn thử và “mê tít” món “Feu” (Phở) từ đó!
Ở Đà Lạt năm
1930 có phở Gare xe lửa là tiệm Phở Bò đầu tiên do con ông Huỳnh làm chủ. Chữ
Tô Xe lửa (Tô lớn) từ đây mà ra. Phở Gare Dalat sau 1960 dời vế Phú Nhuận (Sài
Gòn) lấy tên là Phở Bắc Huỳnh.
Ở Sài Gòn
trước năm 1940 có tiệm Phở Turc là tiệm Phở đầu tiên. Chủ tiệm cũng là dân đi
lính Tây giải ngũ về, ông này nói tiếng Pháp giỏi nên có nhiều khách Tây đến
ăn.
Ngày nay, món
Phở đã theo chân người Việt đến khắp nơi trên thế giới và trở thành món ăn
“thương hiệu” của Việt Nam. Dù nguồn gốc của món ăn còn gây nhiều tranh cãi
nhưng những giai thoại về Phở vẫn rất đáng để tham khảo.
Ngoài ra,
cũng có thể xem Phở là một trong những ví dụ đặc trưng cho khái niệm Bricolage
(lai ghép) mà các nhà nghiên cứu văn hóa ẩm thực dùng để chỉ món ăn thiên hướng
lai ghép (kết hợp, biến tấu từ nhiều nguồn thức ăn ngoại lai) hơn là tự thân
sáng tạo.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét