Mình là
người không có năng khiếu giao tiếp với người khác. Chính vì thế nên hay đi tìm
những bài học hay nhằm tiếp thu, khắc phục. Kết quả là chả cải thiện được gì. Ấy,
biết đâu với người khác thì lại hiệu quả cũng nên.
Dưới đây
là vài gợi ý của ngài Quỷ Cốc Tử (một chính
trị gia, nhà ngoại giao, âm dương gia, nhà tiên tri và nhà giáo dục có ảnh hưởng
lớn trong giai đoạn giữa thời Chiến Quốc. Ông được xem là ông tổ của Tung Hoành
gia và là một trong những "bách gia chư tử".)
1. Giao tiếp với người giàu: bắt đầu
bằng sự thanh lịch
Khi giao
tiếp với người giàu có, chúng ta nên bắt đầu bằng những chủ đề tao nhã. Người
giàu thường trải qua những thăng trầm của cuộc sống và họ khao khát sự thỏa mãn
về mặt tinh thần. Bằng cách nói về những chủ đề cao cả như nghệ thuật, hội hoạ,
âm nhạc..., đặc biệt là đối với những người giàu mới nổi, chúng ta có thể thu
hút sự quan tâm của họ và xây dựng mối quan hệ sâu sắc hơn.
2. Giao tiếp với người nghèo: Bắt đầu
với những mối quan tâm cơ bản của họ
Khi giao
tiếp với người nghèo, điều quan trọng là phải bắt đầu từ mối quan tâm cơ bản của
họ. Có nhiều loại người nghèo, bao gồm cả những người trí thức đột nhiên rơi
vào cảnh nghèo đói và những người thiếu văn hóa và năng lực. Bất kể người nghèo
là người như thế nào, vấn đề cuối cùng đều liên quan đến sự an toàn cơ bản
trong cuộc sống. Vì vậy, chúng ta cần bắt đầu từ góc độ sở thích, những đề tài
bình thường trong cuộc sống hơn là lý tưởng và ước mơ để giao tiếp khả thi hơn.
3. Giao tiếp với người thông minh:
Hãy cố gắng để tỏ ra thông minh hơn
Khi giao
tiếp với những người thông minh, chúng ta nên rèn luyện bản thân để trở nên
thông minh hơn. Người thông minh có xu hướng nhìn thấu mọi việc và có phần
khinh thường những người kém cỏi hơn mình. Bằng cách nâng cao chiều sâu kiến thức
và sự minh mẫn của trí óc, chúng ta có thể giành được sự tôn trọng của người
khác và thiết lập các mối quan hệ giao tiếp tốt hơn.
4. Giao tiếp với những người thiếu hiểu
biết: Hãy giữ cho cuộc nói chuyện đơn giản và trực tiếp
Khi nói
chuyện với những người thiếu hiểu biết hơn mình, hãy nói một cách đơn giản và
trực tiếp. Những người như vậy có khả năng hiểu hạn chế, và những từ ngữ quá phức
tạp hoặc cách nói lòng vòng có thể khiến họ mất kiên nhẫn. Ngoài ra, bạn nên thể
hiện thái độ cứng rắn của mình để đối phương có cảm giác e dè tự nhiên, giúp cuộc
giao tiếp trở nên trôi chảy hơn.
5. Giao tiếp với những người có năng
lực: Đừng vòng vo
Khi giao
tiếp với những người có năng lực cao, bạn đừng bao giờ vòng vo. Những người này
thường ngay thẳng và không thích những lời nịnh hót. Vì vậy, hãy thẳng thắn khi
giao tiếp và đừng né tránh vấn đề. Sự trung thực như vậy sẽ giành được sự tôn
trọng của đối phương và thiết lập một mối quan hệ thực tế hơn.
Bằng cách học năm mẹo ghi nhớ của Quỷ
Cốc Tử, chúng ta có thể ứng xử tốt hơn với nhiều kiểu người khác nhau và đạt được
kết quả tốt hơn trong các mối quan hệ và mang lại cho bạn nhiều cơ hội hơn.
Cà phê
là một trong những món ẩm thực được du nhập theo sự có mặt của người Pháp vào
Việt Nam. Và cũng giống như phở, cà phê bắt đầu len lỏi và đi sâu bám rễ vào cuộc
sống người dân Hà thành từ những gánh hàng rong. Thủa ban đầu (vào cuối thế kỷ XIX) cà phê là thức uống
chỉ dành cho người Pháp và châu Âu ở Việt Nam. Nhưng đến đầu thế kỷ XX, cà phê
đã được “xã hội hóa” và trở thành đồ
uống dành cho giới tư sản và tiểu tư sản (nhất
là giới trí thức cấp tiến) ở thành thị. Các tầng lớp này có thể tìm uống cà
phê từ các gánh cà phê dạo quanh khu vực hồ Hoàn Kiếm.
Khi đó
cà phê được bán cùng với nước chanh, nước vối đặt trên những bộ gánh cải biên từ
gánh bán phở, mì vằn thắn. Cà phê thường được pha sẵn trong chai, hâm nóng và
pha thêm đường rồi rót ra chén cho thực khách tùy theo sở thích và thời tiết.
Dưới đây xin giới thiệu một vài hình ảnh (do bố con Người viết Sử sưu tầm và lưu trữ) về thú thưởng thức cà phê ở Hà Nội thời thuộc Pháp:
Kiốt
giải khát bên bờ Hồ Gươm: Trong thời kỳ tạm chiếm 1947-1954, Hà Nội
không còn vẻ kiêu kỳ và quý tộc nữa nên thú uống cà phê cũng đã trở nên
“dân dã” hơn với người dân Hà thành.
Hàng
cà phê rong Hà Nội: Trong bức ảnh này có thể thấy rõ Đền Ngọc Sơn, cầu
Thê Húc cùng gánh cà phê đặt ngay trên Bờ Hồ, nơi trái tim của Hà Nội.
Khách có thể vừa uống cà phê bên vỉa hè, trong vườn hoa (mới được xây
dựng) vừa ngắm cảnh Hồ Gươm thơ mộng và đôi khi cũng sẽ gặp những tà áo
dài thanh lịch lướt qua.
Tiệm
cà phê bên Hồ Gươm: Những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XIX, người Pháp
đã biến Hồ Gươm thành một lẵng hoa quý tộc giữa lòng thành phố mà những
tiệm cà phê nhỏ xen giữa các vườn hoa mới trồng như những con búp bê
nhỏ trong lẵng hoa của các tiểu thư đài các châu Âu.
Cà
phê Hà Nội năm 1902: Đây là 1 trong những tiệm cà phê lớn đầu tiên ở HN
đã được sửa sang nâng cấp để phục vụ cho nhiều du khách, thương gia từ
các nước trên thế giới đến Hà Nội dự hội chợ thương mại quốc tế tại khu
Đấu xảo (nay là khu Cung văn hóa Hữu nghị). Các tiệm cà phê này tập
trung nhiều ở phố Hàng Khảm (nay là phố Tràng Thi) với các thương hiệu
nổi tiếng như Café du Commerce, Café de Paris, Café Albin, Café de la
Place, Café Block và Café de Marseille.
Tiệm
cà phê Phố Tràng Tiền (Paul Bert): Một trong những tiệm cà phê cùng với
khách sạn tồn tại lâu nhất ở Hà Nội với một phong cách uống bên vỉa hè
“rất châu Âu” mà ngày nay lại bị gọi là cà phê “bình dân”.
Tụ
tập và uống cà phê trên sảnh Nhà hát Bờ Hồ: Tiệm cà phê ngay ở sảnh của
Nhà hát nhạc kịch châu Âu đầu tiên ở Hà Nội – Hội hiếu nhạc Hà Nội
(Société Philharmonique d’Hanoi nay là vị trí Nhà hát múa rối Thăng
Long) khiến người ta lầm tưởng như đang đứng ở giữa Paris cuối thế kỷ
XIX.
Bài này tôi dùng nhiều nguồn tư liệu và được dẫn giải có đường link minh chứngđi kèm (chữ đổi màu dấu bàn tay tên công trình).
Theo Warres Smith trong cuốn sách nổi tiếng
của ông nghiên cứu về dân châu Âu ở Viễn Đông xuất bản năm 1900
“European Settlements in the Far East”, “Dân số Hà Nội vào năm 1897 là
102.700 người, trong đó có 950 người châu Âu, 100.000 người An Nam,
1.697 người Trung Hoa, và 42 người Ấn Độ”. Mô tả chi tiết về Hà Nội lúc
đó, Warres Smith viết:
“Hà Nội thủ đô của Bắc Kỳ, và nay là thủ
phủ của chính quyền Đông Dương, tọa lạc trên sông Cái, hay sông Hồng,
cách cửa sông gần 180km. Thành phố được xây dựng gần con sông, ở đây
chiều ngang sông rộng gần đến một dặm, và nhờ các hồ nước và cây cối rải
rác, nó phô bày một vẻ đẹp khá ngoạn mục. Thành cổ chiếm giữ điểm cao
nhất và được bao quanh bởi một bức tường bằng gạch cao gần 3,7m và một
hào nước. Nó gồm các doanh trại dành cho binh sĩ, kho vũ khí, đạn dược,
v.v… và một ngôi chùa hoàng gia nằm bên trong tường thành. Phố cổ nằm ở
giữa tòa thành và sông, và các đường phố của nó có một dáng vẻ khác lạ
nhờ kiến trúc độc đáo của các ngôi nhà..."
Những địa danh du lịch có tiếng của Hà Nội hiện
nay như Nhà Kèn, Nhà Hát Lớn, nhà tù Hoả Lò, Ga Hàng Cỏ, Cầu Long Biên,
Nhà thờ lớn Hà Nội, Chợ Đồng Xuân… đều là những di sản có giá trị vật
thể bên cạnh các giá trị văn hóa phi vật thể mang dấu ấn văn hóa Pháp góp phần làm nên một bản sắc một Hà Nội như hiện đại.
Không thể hiểu được bản sắc Hà Nội, nếu
không nói đến những nét văn hóa – văn minh Pháp còn đọng lại ở đời sống
đô thị vùng đất này.
Bắc bộ phủ - Nay là Nhà khách Chính phủ (12 phố Ngô Quyền, Hà Nội)
Tòa nhà được xây dựng vào năm 1918, là một công trình tiêu biểu của
phong cách kiến trúc cổ điển Pháp, với tổ hợp mặt bằng, mặt đứng rất cân
xứng cùng với những chi tiết kiến trúc thuần túy châu Âu.
Tòa nhà được khởi công xây dựng năm 1901 và hoàn thành năm 1906, do
kiến trúc sư Auguste Henri Vildieu và Charles Lichtenfelder thiết kế, mang đậm nét kiến trúc Phục hưng Ý.
Tòa nhà là một trong những dinh thự lớn nhất được Pháp xây ở Đông
Dương gồm 30 phòng, mỗi phòng có một phong cách trang trí khác nhau.
Mặc dù được xây dựng vào thời Pháp thuộc
nhưng tòa nhà này lại có kiến trúc phương Đông với hệ mái ngói nhiều
lớp kiểu, đặc biệt là mái lớn ở khối trung tâm mặt đứng chính cùng với
lớp mái phân tầng, che cửa sổ và mái tiền sảnh. Do có kiến trúc độc đáo
với nhiều mái nên công trình này còn được gọi là "tòa nhà trăm mái".
Tòa nhà do kiến trúc sư người Pháp Ernest Hébrard thiết kế năm 1924, khởi công xây dựng năm 1925 và hoàn thành năm 1928 theo Đồ án Quy hoạch chi tiết khu trung tâm hành chính, chính trị Đông Dương. Ban đầu, đây là trụ sở của Sở Tài chính Đông Dương. Ngày 3/10/1945, tòa nhà được Chủ tịch Hồ Chí Minh giao làm trụ sở của Bộ Ngoại giao cho đến nay.
Do các kiến trúc sư C.Batteur và E.Hébrard thiết kế năm 1925 có thể
được coi là một đại diện lớn của phong cách Kiến trúc Đông Dương, một
phong cách nỗ lực kết hợp các giá trị của nền kiến trúc Pháp với các giá
trị kiến trúc bản địa.
Công trình được khởi công năm 1926 và hoàn thành năm 1932 trên khu
đất phía sau Nhà hát lớn, chạy dọc theo bờ đê sông Hồng và là điểm kết
thúc của tuyến phố Trần Quang Khải ngày nay, một vị trí có thể tạo ra
điểm nhấn kiến trúc cho tuyến đường bờ đê.
Năm 1901, Nhà hát Lớn Hà Nội được khởi công xây dựng và khánh thành năm 1911. Tuyệt tác nghệ thuật này được thiết kế theo mô hình nhà hát Opéra
Garnier ở Paris. Vì thế, Nhà hát Lớn thành phố Hà Nội mang đậm dấu ấn
kiến trúc châu Âu cổ điển với sự hoàn hảo đến từng chi tiết, đem lại một
không gian nghệ thuật hàn lâm, sang trọng bậc nhất Đông Dương thời bấy
giờ.
Nhà thờ Lớn được mệnh danh là nhà thờ có thiết kế kiến trúc đẹp nhất tại
Hà Nội. Nhà thờ được xây dựng từ thời Pháp thuộc, là công trình tiêu
biểu cho phong cách Gothic Châu Âu, mô phỏng theo kiến trúc nhà thờ Đức
Bà Paris. Chiều rộng 21m, chiều dài 65m, có 2 tháp chuông cao gần 32m và
được cố định bằng những trụ đá lớn.
Trường Đại học Đông dương - Nay là trường ĐH Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN (19 phố Lê Thánh Tông, Hà Nội)
Trường Đại học Đông Dương, nay là một phần của Đại học Quốc gia Hà Nội, có kiến trúc mang phong cách Đông Dương, kết hợp giữa kiến trúc phương Tây và phương Đông.Công
trình này được thiết kế bởi kiến trúc sư người Pháp Ernest Hébrard, và
nổi bật với sự hài hòa giữa các yếu tố kiến trúc cổ điển Pháp và các chi
tiết trang trí mang đậm nét Á Đông.
Bưu điện Hà Nội (Bờ Hồ)
Công trình này mang phong
cách kiến trúc Pháp cổ điển kết hợp với Art Deco, bao gồm nhiều tòa nhà
nằm trên các phố Đinh Tiên Hoàng, Lê Thạch và Đinh Lễ.
Tòa
án nhân dân tối cao (Palais des Justices) là công trình kiến trúc tiêu
biểu cho phong cách kiến trúc Pháp, do kiến trúc sư A.Henri
Vildieu thiết kế năm 1906, được xây dựng trên một khu đất rộng, giới hạn
bởi 4 tuyến phố, trong đó có hai đại lộ lớn lúc bấy giờ là Boulevard
Carreau (phố Lý Thường Kiệt), Boulevard Rollandes (phố Hai Bà Trưng) và
hai điểm giới hạn tuyến phố Rue Jean Soler (phố Thợ Nhuộm), Rue Lambert
(phố Dã Tượng). Các bộ phận cấu thành di tích bao gồm: cổng, sân, đường
đi, tòa kiến trúc chính và các công trình phụ trợ.
Khách sạn Grand Métropole Hotel - Nay là KS Sofitel Legend Metropole Hanoi (15 phố Ngô Quyền, Hà Nội).
Được xây dựng năm 1901 bởi 2 nhà đầu tư người Pháp, Sofitel Legend
Metropole Hanoi là khách sạn 5 sao đầu tiên và đồng thời là khách sạn
lâu đời nhất ở Hà Nội. Khách sạn mang đậm phong cách kiến trúc Pháp thuộc địa, với thiết kế tinh tế và sang trọng
Cầu (Pont de) Paul Doumer - Nay là cầu Long Biên
Cầu được xây dựng từ
năm 1898 đến 1902, hoàn thành và đưa vào sử dụng năm 1903. Cầu được làm
hoàn toàn bằng thép, với 19 nhịp dầm thép và 20 trụ cao, tạo nên một tổng thể
vững chãi và hài hòa.
Cầu mang phong cách kiến trúc Pháp, với những đường nét thanh thoát, tinh
tế, và được ví như "Tháp Eiffel nằm ngang" của Hà Nội.Cầu mang phong
cách kiến trúc Pháp, với những đường nét thanh thoát, tinh tế, và được ví như
"Tháp Eiffel nằm ngang" của Hà Nội.
Trong các bản vẽ thiết kế cầu Long Biên của Daydé & Pillé hiện được
lưu giữ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I có các chữ ký gốc của các kỹ sư của
Daydé & Pillé và chữ ký gốc phê duyệt bản vẽ của Toàn quyền Đông Dương Paul
Doumer, không có chữ ký nào là của Eiffel Do vậy, Eiffel và công ty
của ông không phải là tác giả thiết kế và cũng không tham gia xây dựng cầu Long
Biên.
Như
lời ngài GS.TS Hồ Sỹ Quý: Nói đến
bản sắc Hà Nội, do vậy, cần thiết phải nói đến sự pha trộn hài hòa, sự đan xen
khó tách biệt, sự thẩm thấu tưởng như khiên cưỡng nhưng qua thời gian lại trở
thành phù hợp… giữa những nét “kinh điển, hoa lệ” của châu Âu với những giá trị
lịch sử đã được bảo tồn qua năm tháng của con người và văn hóa Hà Nội.
Văn hóa – văn minh Pháp một thành phần
đáng kể của bản sắc Hà Nội. Thậm chí trong một chừng mực nhất định còn là hồn
cốt của một đô thị có lịch sử hơn nửa thế kỷ được xây dựng và trực tiếp “sống”
với văn hóa – văn minh Pháp.