05/10/2025

Tô hủ tiếu

 Đoàn Xuân Thu

 


Cuốn “L’histoire culturelle de la Chine” nói rằng người Tàu thuở hồng hoang (tức là trước khi Tần Thủy Hoàng gọt đầu cả nước) còn ăn… bốc.

Tây thì chơi dao, nĩa, muỗng, còn mình – con cháu Lạc Hồng, làm ruộng, trồng lúa – có hột gạo để nấu cơm ăn thì phải dùng đũa.

Một số “học giả tự phong” bèn giải thích: đũa có cặp là biểu tượng âm dương, đực cái, trời đất hòa hợp… Xin lỗi nha! Tôi thấy đũa là để gắp đồ ăn. Phải có hai cây, chớ một cây thì chỉ xỉa… lỗ mũi! Bởi vậy mới có câu:

“Đũa vàng dộng xuống mâm son,

Thấy em có nghĩa, anh thương mặn nồng!”

Nói tới đũa là nói tới tre. Mà nói tới tre là nói tới xứ mình. Tre mỡ, tre gai, tre tàu… miễn tre già, lóng thẳng, là mình làm đũa được tuốt! Xứ khác có tiền cũng khó kiếm đũa tre như mình. Lóng tre được chẻ, chuốt, vót thành những chiếc đũa đều đặn, tay cầm lớn đầu dễ cầm, đầu nhỏ vót nhọn dễ gắp. Bữa cơm dọn ra, lựa hai chiếc đũa bằng nhau mới chịu ăn. Lỡ gãy một cây, phải chụm luôn cây kia vô bếp cho vợ chồng tụi nó không… bỏ nhau.

Nói tới ăn uống, tui nhớ có ông bạn già hay gây lộn chuyện… chính tả! Ổng cãi hoài: “Hủ tiếu” hay “Hủ tíu,” Cái nào đúng?

Trước 1954, người miền Nam mình viết là “hủ tiếu.” Sau 54, sách vở miền Bắc vô Nam, cũng viết “hủ tiếu,” có dấu “ê” nghe nó nhẹ nhàng văn vẻ hơn. Nhưng tui thì thấy: “ê” hay không “ê” cũng là chuyện nhỏ như con thỏ đang ăn cỏ. Có sao đâu? Miễn tô hủ tiếu ngon, có xá xíu, có xương, có nước lèo ngọt đậm đà là tui hẩu xực liền! Nhưng ổng thì nói: “Chữ cũng như người, Chim khác Chiêm chớ bộ!”

Ổng còn kể chuyện cô nọ mới lấy chồng. Tối qua đêm động phòng hoa chúc. Sáng ra đi làm giấy hôn thú, cán bộ hộ tịch hỏi:

– Em tên gì?

– Dạ, Chim ạ.

– Chim có ê không?

– Dạ… cũng hơi ê ê!

Người mình kêu mấy ông Tàu là Chú Ba, Chú Chín. Mấy bà thì Thím Ba, Thím Bảy. Gặp ông chủ tiệm hủ tiếu tên Phánh thì tiệm của chú là “Phánh Ký.” “Ký” là tiệm. Tiệm của chú Phánh.

Ở miền Nam, người Hoa chia ra 5 bang: Quảng Đông, Phúc Kiến, Triều Châu (Tiều), Hẹ (Khách Gia) và Hải Nam. Lục tỉnh Nam Kỳ, miền Đông nhiều người Quảng, miền Tây nhiều người Tiều. Ở Mỹ Tho, tiệm hủ tiếu đầy đường. Dân Quảng gọi hủ tiếu là “phảnh.” “Dách cô phảnh” là một tô hủ tiếu. Còn mì là “mìn.” Vậy “phảnh mìn” là tô hủ tiếu có thêm mì! Có chỗ gọi là “xực phảnh mìn xí quách.” Nghe đã bụng ghê.

Quảng Đông gọi bánh sợi gạo trắng là “hồ phảnh” (河粉), tức là “hà phấn.” Khi xắt to ra để xào thì gọi là “tài phảnh,” chính là món hủ tiếu xào. Còn sợi nhỏ nấu nước thì gọi là hồ phảnh, tức là món hủ tiếu nước mình ăn đó!

Còn dân Tiều, quê gốc Mạc Cửu Hà Tiên, lại kêu là “củi tiếu” là cọng bánh bột nhỏ. Nấu kiểu Tiều thì có tôm, gan, bao tử, chả cá… gọi là “phá lấu.” Nếu có thêm thịt gà thì gọi là “củi tiếu cá gà,” có heo thì là “củi tiếu thịt.” Vậy mà khi sang Việt Nam, món nầy cải biên thành “hủ tiếu Nam Vang,” rồi “hủ tiếu Mỹ Tho.” Nghe cũng sang!

Tới thời Tây, mấy ông bà đầm gọi món này là “Soupe Chinoise” (súp Tàu). Ở Úc thì dân Kangaroo gọi là “Chinese soup.” Nhưng tui thì kêu cho gọn: Hủ tiếu là vua của món nước Nam Kỳ! Mà vua này… không có ngai, chỉ có giá sống!

Hồi nhỏ, tui mê xe hủ tiếu gõ, chạy bằng ba bánh, bốn bánh, có xe đẩy lòng vòng, có xe đậu góc đường. Mỗi xe vẽ tích Tàu lên kiếng: nào là Quan Công phò nhị tẩu, nào là Khổng Minh tọa lầu, nào là Trường Bản đương dương… mà nội dung tui không hiểu gì ráo! Trong xe có thùng hai ngăn: một để trụng bánh, một đựng nước lèo. Bên cạnh là rổ hủ tiếu, mì, hoành thánh, dầu cháo quẩy. Chén đũa tre, muỗng sành, chai xì dầu, keo giấm đỏ, hủ tỏi ngâm. Ngồi xuống là có ăn!

Tàu chỉ có mì, làm bằng bột mì. Qua Việt Nam, trồng lúa nước, không có lúa mì, bèn chế ra hủ tiếu bằng bột gạo. Vậy là món hủ tiếu ra đời, vừa dân dã, vừa Việt hóa, vừa thơm mùi… nước mắm Phú Quốc!

Hủ tiếu có nước, có khô, có xí quách riêng, có xá xíu, có hoành thánh. Có người ăn kèm rau xà lách, hẹ, giá sống, rắc tiêu, thêm ớt sừng… Có người phải có nước mắm thì mới chịu ăn. Không nước mắm là giận lẫy, nhịn đói!

Hủ tiếu nay biến tấu nhiều loại: hủ tiếu gõ, hủ tiếu bò viên, hủ tiếu khô, hủ tiếu nước, hủ tiếu Sa Đéc, hủ tiếu Mỹ Tho, hủ tiếu Nam Vang, hủ tiếu thập cẩm, hủ tiếu vịt quay, hủ tiếu xương, hủ tiếu gà ác, hủ tiếu cua, hủ tiếu chay, hủ tiếu chiên, hủ tiếu hồ, hủ tiếu phá lấu…

Nhưng nổi tiếng nhứt vẫn là ba anh em: Hủ tiếu Nam Vang, hủ tiếu Mỹ Tho, hủ tiếu Sa Đéc. Mỗi tô là một bản hòa tấu của nước lèo ngọt thanh, bánh gạo dai mềm, thịt thà đủ loại, hẹ rẫy mát miệng!

Hủ tiếu Mỹ Tho nấu bằng gạo Gò Cát. Bánh hủ tiếu sợi nhỏ, dai, có mùi thơm gạo quê. Nước lèo hầm xương ống, thêm tôm khô, mực khô, củ cải trắng.

Có thêm trứng cút, con tôm chẻ đôi, miếng xá xíu mỏng. Ăn với rau hẹ, giá sống, xà lách, nặn miếng chanh, xịt chút nước mắm, rắc thêm tiêu xay… Quá đã!

Tô hủ tiếu không chỉ là món ăn. Nó là một phần văn hóa. Một gánh hủ tiếu gõ giữa đêm khuya canh vắng là hình ảnh quê hương. Một quán hủ tiếu đầu chợ sáng là chốn họp mặt bình dân. Một tô hủ tiếu ngon là nhớ nhà, nhớ Má, nhớ thời tuổi nhỏ.

Tô hủ tiếu ơi! Mi là tánh độ lượng của người Miền Nam không chống dân nhập cư. Tới đây thì ở lại đây. Tô hủ tiếu của nị tui cũng hẩu xực tuốt luốt vì nó ngon mùi á xẩm!

 

 

HỦ TIẾU GÕ TÁ LẢ thuộc top địa điểm vàng trong làng mì gõ chỉ 35k/tô

Hẻm 577 Trần Hưng Đạo, Quận 1, Sài Gòn - tp HCM.

 

04/10/2025

Tu Phật đâu cứ cần tượng Phật, Kinh sách, chùa chiền,

 


Hẳn các Phật tử đều biết, khoảng hơn 2500 năm trước đây, sau khi giác ngộ, Phật Thích Ca vì mong muốn giải thoát chúng sinh khỏi bể khổ mà bắt đầu truyền giảng Phật Pháp. Thời bấy giờ ở Ấn Độ cổ, người ta thậm chí không biết xưng hiệu của Đức Phật, không có từ Phật, càng không có tượng Phật, chùa chiền hay kinh sách. Phật Pháp mà Đức Phật chứng ngộ được trong chân lý vô biên của vũ trụ cũng vì thế mà không xoay quanh những điều này.

Thời bấy giờ, Phật Thích Ca chủ yếu truyền dạy đạo của Ngài trong các hang đá, trong rừng hay ngoài thiên nhiên. Các đệ tử đi theo Đức Phật ngoài chuyện đi xin ăn, hóa duyên ra, thì sinh hoạt chủ yếu tại đó, và ngoài việc nghe Đức Phật giảng dạy thì phần lớn thời gian đều dành cho việc ngồi thiền.

Chi Viên tịnh xá và Trúc Lâm tịnh xá ở nước Xá Vệ được xem là những nơi sinh hoạt đầu tiên được xây cất phục vụ việc truyền đạo của Đức Phật. Trúc Lâm tịnh xá là do vua Bimbisāra, đệ tử đầu tiên của Đức Phật thuộc hàng Vua chúa, xây dựng để cung cấp một nơi an cư thuận tiện cho Đức Phật và đệ tử của Ngài.

Tuy nhiên vô luận là hang đá hay tịnh xá, mục đích chủ yếu của chúng là để những người tu hành sinh sống và có được một không gian biệt lập phục vụ mục đích tu hành. Điều này khác xa so với mục đích của chùa chiền ngày nay (thờ cúng tượng Phật, đón khách viếng thăm, v.v..).

Thời đó khi Đức Phật truyền giảng chân lý mà Ngài chứng ngộ được thì đều là truyền miệng, không có ai ghi chép lại. Các đệ tử chỉ là nghe, hỏi và ghi nhớ mà thôi. Kinh sách là do các đệ tử đời sau chỉnh lý lại trong quá trình truyền thừa. Cũng vì thế mà kinh sách này không thể hiện đầy đủ hoàn cảnh mà Đức Phật truyền dạy, thậm chí còn phát sinh sự mâu thuẫn, dẫn đến các môn phái khác nhau bên trong Phật giáo sau này.

Ngoài ra, thời bấy giờ Đức Phật cũng không dạy người ta các hình thức cúng bái.

Sau khi Đức Phật nhập niết bàn thì xảy ra một loạt các biến đổi. Một là liên quan đến việc phân chia chi phái như đã nói ở trên, mặt khác cũng xuất hiện việc thờ phụng xá lợi.

Bấy giờ sau khi nhục thân của Đức Phật được hỏa táng thì xuất hiện xá lợi. Tám vị quốc vương ở Ấn Độ cổ phái sứ giả đến nơi hỏa táng, yêu cầu được chia xá lợi Phật, nên phân thành 8 phần. Hai quốc vương nữa đến sau không nhận được xá lợi Phật, nên một người lấy chiếc bình đựng xá lợi, một người lấy tro cốt của Đức Phật về.

Cho nên toàn thể Ấn Độ cổ thời ấy đã kiến tạo 10 tòa tháp, bao gồm 8 tòa tháp an táng xá lợi Phật, 1 tòa tháp an táng chiếc bình đựng xá lợi Phật và 1 tòa tháp an táng tro cốt Phật.

Vào thời kỳ vua Ashoka, khoảng thế kỉ thứ 3 TCN, Phật giáo trở thành quốc giáo ở Ấn Độ. Vì muốn mở rộng và làm hưng thịnh Phật giáo, vua Ashoka đã hạ lệnh khai quật các xá lợi tháp. Nhưng trong đó có các tòa tháp bởi vì kiến tạo quá chắc chắn nên không thể khai quật được. Toàn bộ phần xá lợi Phật có thể lấy ra một lần nữa được chia làm nhiều phần, phân chia khắp nơi.

Nghệ thuật tạc tượng xuất hiện tại Ấn Độ khá muộn, có thể là được lưu truyền từ Hy Lạp tới, cũng vào khoảng thời gian vua Ashoka. Các tượng Phật bắt đầu xuất hiện, và dần có sự chuyển đổi từ thờ phụng xá lợi sang thờ phụng tượng Phật.

Tượng Phật vào thế kỷ thứ 2-3, được tìm thấy tại Pakistan (thuộc Ấn Độ cổ), đã đạt đến trình độ khá tinh xảo. (Ảnh: Metropolitan Museum of Art, Public Domain

 

Sau khi xuất hiện việc thờ phụng tượng Phật, người ta bắt đầu phải xây dựng nơi để đặt tượng Phật. Trong các kiến trúc chùa chiền ngày nay thì tượng Phật chiếm một vị trí rất quan trọng.

 

Đại tháp giác ngộ tại Bồ Đề Đạo Tràng - nơi Đức Phật Thích ca mâu ni đắc đạo khi ngồi dưới cội bồ đề

  

Trên thực tế, bất luận là tượng Phật, kinh sách hay chùa chiền thì đều không phải là điều mà Đức Phật để lại. Thời bấy giờ khi Đức Phật chuẩn bị niết bàn, chúng đệ tử có hỏi Ngài về việc dựa vào điều gì để tiếp tục tu hành, Đức Phật đã để lại giới luật. Giới luật này trong quá trình truyền thừa tới Phật giáo Đại Thừa đã tăng thêm rất nhiều, nhưng về cơ bản là đã bảo lưu lại được, chỉ là lẫn thêm vào giới luật nghiêm khắc hơn mà thôi. Như vậy có thể thấy trong Phật giáo ngày nay, điều chân chính được truyền thừa lại chỉ có giới luật.

Kinh Phật không hoàn chỉnh và ngày càng sai khác trong quá trình truyền thừa, phiên dịch. Thêm vào đó, người đời sau đọc hiểu không được cổ ngữ, nên rất nhiều điều đã trở nên sai lệch, thậm chí méo mó. Người đời sau lại còn đề xướng “Phật học”, viết sách giải thích, đưa ra định nghĩa, nhưng cảnh giới của người viết có phải là Phật chăng? Cũng giống như học sinh cấp 1 muốn giải thích sách đại học vậy, làm cho người đọc đều hiểu sai cả. Đây là nguyên nhân cơ bản khiến Phật giáo suy vi, thật giống như Đức Phật đã tiên tri về thời “mạt Pháp” khi Pháp của Ngài không còn hiệu nghiệm nữa.

Đức Phật niết bàn. (Tranh: Metropolitan Museum of Art, Public Domain)

 

 Con người luôn mong muốn dùng những hình thức vật chất để biểu đạt tín ngưỡng. Tuy vậy điều này lại dẫn tới sự lầm lẫn giữa chân chính tu Phật với các hoạt động tôn giáo như tìm hiểu nghiên cứu kinh sách, cúng bái tượng Phật, xây dựng chùa chiền. 

Người mang tâm tu Phật, nhưng lại chỉ chú trọng đến chuyện đọc vài quyển kinh, cúng bái tượng Phật, xây dựng chùa chiền, cúng dường, v.v.. kỳ thực chỉ giống như “mò trăng đáy nước” mà thôi.

Do đó, người thực tâm tín Phật, chân chính tìm kiếm sự giác ngộ và ý nghĩa của sự giải thoát, thì phần lớn đã không còn ở trong chùa chiền đạo quán nữa rồi.

Vì tu Phật đến Giác ngộ để giải thoát khỏi Khổ cần Trí tuệ - Từ bi và Nghị lực

Các vị Chân tu nhiều đời nay muốn hoằng dương Phập Pháp trở lại Thế gian nhưng đành bất lực.

 

03/10/2025

Sapa giai đoạn 1920-1930

 ST

 

    Hình ảnh về Sapa giai đoạn 1920-1930 được phục dựng lại màu từ ảnh đen trắng do các nhiếp ảnh gia người Pháp chụp.