30/04/2022

Hình ảnh Giải phóng quân trong cuộc kháng chiến chống Mỹ

Nhân đến ngày Thống nhất đất nước, mình đăng lại bài này (đã đăng năm 2016) để thêm biết một vài thông tin chân thật về cuộc đấu tranh gian khổ và ác liệt ngày xưa của cha ông ta.

Sưu tầm hình ảnh trong kho dữ liệu ảnh của các phóng viên quốc tế thời chiến tranh Việt Nam.


Cảnh sinh hoạt đời thường của các chiến sĩ Giải phóng tại căn cứ Củ Chi, 1967. Cạnh chiếc lều lá có lối dẫn xuống địa đạo.
Bữa ăn trong hầm ở Củ Chi, 1967.
Vượt sông bằng thuyền, 1967.
Kiểm tra các loại súng đạn tịch thu được từ quân Mỹ, 1967.
Các chiến sĩ du kích đứng trên xác một khí tài quân sự Mỹ trong rừng, 1967.
Nghỉ ngơi bên xác xe bọc thép Mỹ, 1967.
Lực lượng Giải phóng đang mở những con đường mới để tiến sát tới quân địch ở miền Nam Việt Nam, tháng 5/1967.
Một loại bẫy chông treo dùng để thả từ trên cây xuống của quân đội Giải phóng, 1964.
Bẫy chông treo dạng quả cầu gai thả theo phương ngang, 1964.
Các mẫu "dây thép gai" tự chế của quân Giải phóng, 1964.
Chiến sĩ du kích vượt sông, 1964.
Lực lượng Giải phóng biểu dương lực lượng với các vũ khí thu được từ đối phương tại một căn cứ trong rừng, 1964.

Hủ tiếu Mỹ Tho

Đi chơi miền Tây Nam bộ, đã được nếm nhiều món ngon ở từng vùng cuả đồng bào Kinh, Hoa (Tiều châu), Khme, Chăm… Mỗi nơi mỗi vị nhưng lưu lại trong tâm trí mình những ấn tượng rất thú vị. Một trong những món mình đã từng thưởng thức là hủ tiếu Mỹ Tho. Nhưng khả năng diễn đạt kém nên mượn bài của bác Nam Sơn Trần Văn Chi viết để giới thiệu tới các bạn vậy.


Hὐ tiếu là mόn ᾰn gốc cὐa người Triều Châu, mang vào Ðàng Trong được người mὶnh Việt hόa. Hὐ tiếu là mόn ᾰn bao gồm nước sύp, thịt và bάnh bột, sợi nhὀ như sợi bύn cὐa ta. Người Tiều phάt âm là “cὐi tiểu” hay “cὐi thiểu” và người mὶnh đọc trᾳi ra là “hὐ tίu” rồi “hὐ tiếu” như ngày nay.

Không ai biết hὐ tiếu cό mặt ở Việt Nam vào lύc nào, nhưng chắc một điều là nό cό mặt sau khi người Hoa được các chύa Nguyễn cho vào định cư ở phίa Nam. Ðặc biệt là kể từ khi Thống Soái Nguyễn Hữu Cảnh vào lập xứ Ðông Phố, cho người Tàu cư ngụ ở Trấn Biên (Biên Hὸa) lập ra xã Thanh Hà, và người Tàu ở Phiên Trấn (Saigon & Gia Ðịnh) lập ra xã Minh Hưσng.

Thuở xưa, hὐ tiếu ở Saigon cό cái tên là hὐ tiếu Tiều, thὶ giá chỉ cό 6 xu (0.06 đồng) một tô. Hὐ tiếu lύc đό cό ba loại, là “hὐ tiếu phά lấu”, “hὐ tiếu cά gà” và “hὐ tiếu thịt”. Phá lấu là thịt ram như gan, bao tử heo; cá là chả cá; thịt là thịt ram chớ không dὺng thịt tưσi như ngày nay.


Nước sύp hὐ tiếu người mὶnh kêu là nước lѐo. Bάnh bột hὐ tiếu Tiều là bάnh tưσi, sợi dẹp hσi to, cό mὺi chua. Tô đựng hὐ tiếu Tiều là tô sành, miệng rộng, rất trẹt, nên nhὶn tô hὐ tiếu bề thế nhưng chẳng là bao. Hὐ tiếu tưσi được trụng sσ cho nόng, cho vào tô, trἀi lên trên mặt vài lάt thịt, một lά cἀi xà lάch, rồi chan đầy nước lѐo vào. Hῦ ớt chua, chai nước tưσng, chai giấm Tiều, bày sẵn trên bàn cho khάch tὺy nghi sử dụng. Ðό là hὐ tiếu Tiều chάnh hiệu

Ðến thập niên 60 thὶ giά hὐ tiếu là 3 đồng một tô, hὐ tiếu mὶ là 5 đồng. Lύc đό hὐ tiếu đᾶ phάt triển với nhiều tên khάc như: Hὐ tiếu mὶ, hὐ tiếu tôm thịt, tôm cua, hὐ tiếu gà, hὐ tiếu bὸ viên, hὐ tiếu xά xίu, hὐ tiếu bὸ kho, v.v…

Nhưng nhὶn chung cό hai dὸng hὐ tiếu: Hὐ tiếu Tiều và hὐ tiếu Việt.

Hὐ tiếu sau khi vào miền Nam được người mὶnh đόn nhận, biến cἀi để hợp với cάi mў vị, nghệ thuật ᾰn uống cὐa con người ở đây. Hὐ tiếu Tiều cό mặt ở Ðàng Trong theo như lịch sử cὐa Saigon thὶ đᾶ trên 300 nᾰm, không ngừng cἀi tiến, phục vụ cάi tật thίch ᾰn ngon cὐa người địa phưσng, dần dà hὐ tiếu Tiều trở thành hὐ tiếu Việt; mà tiếng tᾰm vang lừng như: Hὐ tiếu Nam Vang, hὐ tiếu Sa Ðе́c và nhứt là hὐ tiếu Mў Tho.

Hὐ tiếu Mў Tho

Tên hὐ tiếu Mў Tho xuất hiện vào đầu thập niên 60, khởi đầu từ cάc xe, cάc quάn hὐ tiếu bên đường, ở bến xe với cάc tên nghe rặc Tàu như là: Phάnh Kу́, Vῖnh Kу́, Hưng Kу́, Nam Sσn, Diệu Kу́, Quang Kу́, Oai Kу́, Gia Kу́, Tuyền Kу́… trἀi rộng từ Mў Tho đến Gὸ Công vào tận cάc quận Chợ Gạo, Cái Bѐ, Cai Lậy…

Chὐ nhσn cάc tiệm hὐ tiếu Mў Tho lύc này hầu hết là người Việt gốc Hoa, nhưng chὐ lὸ sἀn xuất bάnh hὐ tiếu lᾳi là người Việt chάnh gốc. Bάnh hὐ tiếu Mў Tho là loᾳi bάnh khô, được chế từ gᾳo thσm địa phưσng như gᾳo Nàng Hưσng, gᾳo Nanh Chồn, gᾳo Nàng Út và cό lὸ dὺng gᾳo Nàng Thσm Chợ Ðào (gᾳo ngon số một). Hiện nay cό hai trung tâm sἀn xuất bάnh hὐ tiếu khô nổi tiếng (loᾳi hὐ tiếu Mў Tho): Một ở thị trấn Mў Tho và một ở Gὸ Công, sἀn xuất hầu hết hὐ tiếu khô Mў Tho cung cấp cho cἀ nước.


Sợi hὐ tiếu Mў Tho do vậy cό mὺi thσm cὐa gᾳo, trụng nước sôi thὶ mềm nhưng không bở, nhai nghe dai dai, nên gọi là hὐ tiếu dai, ᾰn không cό mὺi chua. Sau khi trụng, cho vào tô, trộn với ίt mỡ hành phi, nhὶn sợi hὐ tiếu trong bόng, ẩn đục bên trong thấy bắt thѐm.

Sợi hὐ tiếu Mў Tho không bἀ như hὐ tiếu Tiều, làm nên hưσng vị riêng cho cάi tên hὐ tiếu Mў Tho; và nước lѐo cῦng gόp phần làm cho danh tiếng hὐ tiếu Mў Tho vang lừng, nίu kе́o người ᾰn phἀi ghiền. Nước lѐo ở đây nấu bằng thịt ống nguyên chất, đặc biệt là cό thêm tôm khô, khô mực nướng và cὐ cải trắng, cὐ cải đὀ.

Ӑn hết tô hὐ tiếu, hύp cạn hết nước lѐo, nếu chưa thấy đᾶ, thực khάch cό thể kêu thêm một chе́n nước lѐo nữa và luôn được chὐ chiều lὸng, không cό hề gὶ.

Các mόn phụ gia gόp phần làm nên danh hiệu hὐ tiếu Mў Tho là giá sống, chanh, ớt, hẹ, nước tưσng (sau này cὸn cό thêm rau cần). Ӑn hὐ tiếu dai Mў Tho với giά sống, chύt hẹ cắt khύc, nặn miếng chanh, thêm chύt nước tưσng và nhớ cắn trάi ớt hiểm thὶ mới “tới chỉ”, mới gọi là biết ăn hὐ tiếu Mў Tho. Hὐ tiếu Mў Tho nấu với thịt heo bầm, cό điểm con tôm thẻ, lột xẻ đôi, cό người đὸi thêm đồ lὸng heo, sườn heo và trứng cύt nữa. Hὐ tiếu Mў Tho như vậy quἀ không thấy hσi hám gὶ cὐa người Tàu cả, mà rặc là hủ tiếu Việt Nam.

Ghе́ Mў Tho, phἀi tὶm đến mấy quán hὐ tiếu trên đường Trưng Trắc, dọc bờ sông thὶ mới đύng là hὐ tiếu Mў Tho chánh gốc.


Kêu một tô hὐ tiếu Mў Tho, ngồi nhὶn người chὐ trổ tài, thao tάc thành thᾳo mà thấy đᾶ. Ngắt một nhύm hὐ tiếu khô, chỉ một lần không thêm không bớt, nhе́t sâu vào cái vợt cán tre, trụng vào nồi nước sôi, dạo lên dạo xuống mấy lượt. Xốc lên xốc xuống, cho vào tô, cho ίt mỡ hành phi, trộn nhẹ cho đều, rồi cho lên mặt nào thịt, tôm, sườn… Mύc một vá nước lѐo sôi bόc khόi, rưới đều vào ngập đầy tô hὐ tiếu… Nhὶn theo động tác, thực khách phải ba lượt nuốt nước miếng để dằn cσn thѐm muốn trần tục.

Tô hủ tiếu Mў Tho bự hσn hủ tiếu Tiều, nên vừa cό phẩm vừa cό lượng. Ӑn một tô là vừa đὐ không cần ᾰn thêm gὶ nữa. Sau khi ᾰn hủ tiếu, giἀi khát bằng trà nόng, trà đά hoặc cà phê đá thὶ đã miệng và đã khát.

Dọc đường Trưng Trắc đến vườn bông Lạc Hồng, ngược qua cầu Quay vào Chợ Cῦ, nσi nào cό hὐ tiếu Mў Tho thὶ khάch ra vào “nườm nượp”, không cό ghế ngồi. Mỗi nσi, mỗi tiệm chὐ thêm bớt gia giảm khác nhau tὺy theo “ngόn nghề gia truyền”. Sự khác nhau chỉ là một chίn, một mười và người ăn khό phân biệt.

Hủ tiếu Mў Tho với tên gọi đến nay trên 50 nᾰm đᾶ làm nên danh hiệu. Nay hὐ tiếu Mў Tho trở thành thưσng hiệu làm cho người Mў Tho hᾶnh diện. Cái làm cho hủ tiếu Mў Tho trở thành danh tiếng là nước lѐo và hὐ tiếu khô. Chίnh điều đό làm cho hὐ tiếu Mў Tho khάc hὐ tiếu Tiều và giờ đây trở thành một mόn ăn dân tộc, mà người Mў Tho đã cống hiến cho ẩm thực Việt Nam.


29/04/2022

Tập làm thơ Haiku

Mưa Đông

     Tạch...tạch - tạch
               Giọt mưa gõ lên lá
                      Mùa Đông lạnh hơn với người nghèo.

10.1.2015

 


Vội

       Tik tắk - tik tắk đều

                            Kéo tôi đi
                                 Tới những nơi tôi chưa muốn đến.


TuanLong

Ca dao về tướng mạo con người



(Bài này mình đăng lần đầu năm 2016, nay biên tập bổ sung)

Từ xa xưa, người Việt ta quan sát, tích lũy, đúc rút cách nhìn về con người qua các hình thể, hành vi... và dùng tục ngữ, ca dao để truyền khẩu (hình thức thông tin hiệu quả thuở xưa). 


Tất nhiên, cách nhìn nhận ấy sẽ có đúng và có sai. Bởi đã nói là “đúc kết kinh nghiệm” thì không thể nào hoàn hảo được, dù những kinh nghiệm đó xuất phát từ thực tế cuộc sống đi nữa.

Mượn góc nhìn của văn hoá dân gian, mình xin được điểm sơ qua những kinh nghiệm ấy của người bình dân Việt Nam.

1. Nhìn người qua diện mạo, hình dung

1.1. Qua “răng” và “tóc”

Đầu tiên, điều người bình dân quan tâm nhất là hai bộ phận răng và tóc. Bởi lẽ, theo họ “cái răng, cái tóc là góc con người”!

So sánh với kinh nghiệm dân gian của những bà nội trợ khi chọn cá, diện mạo con người cũng được nhìn nhận, xét trong nội hàm câu ca, chúng tôi cho rằng đây dành cho người phụ nữ:

Cá tươi xem lấy đôi mang

Người khôn xem lấy đôi hàng tóc mai

Tương tự như vậy, có câu:

Tóc mai dài xuống mang tai

Là người khó tánh ít ai vừa lòng.

Một tướng mạo khả ái danh cho khách má hồng:

Tóc thưa, dài, mướt, trắng da

Ở hàng lầu các, dung hòa phu nhân

Ngược lại, đây là hình ảnh lý tưởng:

Tóc đen, thưa, rộng mà dài

Vuông tròn sắc mặt là trai anh hùng

Nhìn tướng của cả hai: đàn ông lẫn đàn bà:

Đàn ông ít tóc: an nhàn

Đàn bà ít tóc: dở dang duyên tình

Tương tự, và ở chiều người lại, ca dao có câu:

Đàn bà nhiều tóc thì sang

Đàn ông nhiều tóc thì mang nặng đầu

Như vậy, có thể thấy rằng dân gian quan niệm đàn bà nhiều tóc là tốt tướng. Ngược lại, đàn ông ít tóc mới hay, trừ trường hợp:

Cái sọ trọc như không có tóc

Kém công danh lao lực về sau

Hàm răng cũng là nơi để người bình dân đánh giá chân dung con người.

Những lời dành cho phái mạnh:

Trai mà có cặp răng nanh

Gan dạ , chịu đựng, khôn lanh đủ điều

Dành cho thiếu phụ:

Răng cao, miệng nhỏ: điêu ngoa

Răng thấp môi kín: thương cha nhớ chồng

Một câu khác cũng gần tương tự, nhưng có kết hợp với những yếu tố “da trắng” và “mặt sẫm”:

Răng thưa, da trắng: gái hay

Răng thưa, mặt sẫm: đổi thay chuyện tình

1.2. Mặt, trán, má, mày

Trông mặt mà bắt hình dong, từ quan niệm ấy, nên trong kho tàng ca dao Việt Nam không ít lần người bình dân bày tỏ cách nhận diện con người qua mặt, mày:

Mặt dài tuy nhỏ: vui chơi

Tai to mặt ngắn: chịu lời đắng cay

Ở trán, một bộ phận nằm trên khuôn mặt cũng là nơi thể hiện tính cách, đối với phái nam, dân gian nhận xét:

- Đàn ông gân trán nổi cao

Tánh tình nóng nảy, dạt dào ái ân

- Trán cao có cái đầu vuông

Văn chương, khoa bảng có nhường ai đâu

Còn đây, là lời đúc kết dành cho phận gái:

Gò má mà chẳng cân phân

Cuộc đời cam chịu lắm phần lao đao

Đúng là “má hồng – bạc mệnh”!

Má hồng, trán bóng có duyên

Lương tâm dẫu tốt, đừng hòng tuổi cao

Cái nhìn dành cho cả hai đối tượng:

Đàn ông trán dựng có tài

Đàn bà trán dựng lâu đài soi gương

Môi, miệng cũng là nơi có thể đoán tính người:

Môi mỏng nói điều sai ngoa

Mai sau sinh nở con ra hoang đàng

Mồm mép cũng là những bộ phận không kém phần quan trọng để người ta trông vào:

Môi dày, miệng rộng cân phân

Nhơn trung sâu rộng, tánh chơn khoan hòa

Theo sách nhân tướng xưa, thì điểm giữa môi trên và đầu mũi được gọi là nhân trung

Một câu ca quen thuộc:

Đàn ông miệng rộng thì sang

Đàn bà miệng rộng tan hoang cửa nhà

Xét nội dung ngữ nghĩa, ta có hiểu cả về dáng hình của miệng rộng, lớn, cũng có thể xem xét ở nghĩa khái quát hơn nói miệng rộng tức là chỉ những người nhiều chuyện, lắm lời!

Nếu như câu ca trên dành cho phụ nữ, thì câu ca dưới đây không có chủ thể hiểu ở cả nữ lẫn nam đều có thể chấp nhận:

Hai môi không giữ kín răng

Là người yểu tướng, nói năng hỗn hào

Chân tướng những người khôn ngoan:

– Những người râu mép ngoảnh ra

Mép dày môi mỏng, ấy là tinh khôn

– Những người thành thật môi dày

Lại thêm ít nói lòng đầy nghĩa nhân

Cũng có khi phải kết hợp nhiều bộ phận từ dáng người đến tóc, môi, …

Người đen mà ốm lại cao

Tóc quăn, môi lớn, lao đao tháng ngày

Đến râu, lông cũng bộc lộ nhân cách.

Râu rìa, lông ngực đôi bên

Chẳng phường phản bạn, cũng tên nịnh thần

Họ không ngần ngại kết luận:

Đàn ông mà kém bộ râu

Văn chương cũng dở, công hầu đừng mong

Nếu râu là bộ phận không thể thiếu cho bậc nam nhi, thì ngược lại nhũ hoa là bộ phận quan trọng không kém của người phụ nữ, bởi thiên chức của nó:

Đàn ông không râu bất nghì

Đàn bà không vú lấy gì nuôi con

Nơi cửa sổ của tâm hồn là đôi mắt, người bình dân cũng dành những nhận định xác đáng:

Người khôn con mắt đen sì

Người dại con mắt nửa chì nửa than

Một câu ca khác gần tương tự về nội dung như thế:

Người khôn con mắt dịu hiền

Người dại con mắt láo liên nhìn trời!

Câu ca dành để xem nam tướng:

Trán cao, mắt sáng phân minh

Là người học rộng, công danh tuyệt vời

Con mắt của kẻ vô nghì, ham mê tửu sắc:

Mắt tròn dưới mí láng sưng

Là tên tửu bác, không ngừng chơi đêm

Mũi cũng thể hiện được tính cách chủ nhân của nó:

Lỗ mũi mỏng, đầu cong, nhọn hoắc

Ắc lòng tham, hiểm độc gian phi

Tướng này đức đã suy vi

Nếu không tu thiện, hậu thì khó toan

Hay:

Lỗ mũi mà hỉnh ngửa lên

Bạc tiền chồng chất một bên chẳng còn

1.3. Ngoài những sắc diện đã giới thiệu, chúng ta còn thấy dân gian nhìn nhận ở các bộ phận khác trên cơ thể con người:

Một câu ca chỉ đơn thuần nói về hình thể:

Hàm rộng, miệng cọp: anh hùng

Hàm rắn, miệng chuột: bất trung vô nghì

Nhìn thân hình cũng có thể biết:

– Những người béo trục béo tròn

Ăn vụng như chớp đánh con cả ngày

– Ngồi khòm đầu gối quá tai

Là người cực khổ chẳng sai chút nào

Ở phụ nữ, dáng vẻ không thể chê vào đâu được:

Những người thắt đáy lưng ong

Vừa khéo chiều chồng, lại khéo nuôi con.

Bộ phận dưới của tai, theo dân gian cũng bộc lộ nhân cách:

Dái tai như hột châu thòng

Có thành, có quách, dày, hồng sắc tươi

Thiệt người phú quý thảnh thơi

Phong lưu tao nhã trên đời chẳng sai

Đến nốt ruồi cũng quyết định ít nhiều, …

Mụt ruồi màng tang cả làng ăn thép.

Mụt ruồi bên mép, ăn thép cả làng,

Ngón tay, bàn chân cũng là những bộ phận khác trong cơ thể của con người, góp phần hình thành tính cách.

Những người có tướng mạo tốt:

– Ngón tay thon thỏn búp măng

Tánh tình khoan nhã, thơ văn đủ mùi

– Bàn tay đỏ ửng như son

Không người danh tướng cũng con học hành

– Thông minh, học giỏi, anh tài

Ngón (tay) nhỏ mà dài tựa đọt hành non

Những con người không ra gì, thể hiện ở tay, chân:

– Bàn tay ngang lại lắm lông

Là người nhục dục ắt không phải vừa

– Móng tay mỏng, nhọn: cơ cầu

Tâm tư hiểm độc, hay xâu của người

– Đàn bà chân thẳng ống đồng

Khó con mà lại sát chồng, nguy nan

Dân gian cảnh báo hãy tránh xa!

2. Đoán tính cách con người qua hành động đi đứng, ăn uống, tiếng nói, giọng cười

Những người khôn ngoan bộc lộ qua lời nói:

Chim khôn kêu tiếng rảnh rang

Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe.

Bên cạnh đó, chân tướng của những người mà dân gian cho là “không ra gì” biểu hiên qua hành động đi đứng, chưa nói đã cười của họ:

Những cô chưa nói đã cười

Chưa đi đã chạy là người vô duyên

Một câu khác tương tự:

Vô duyên chưa nói đã cười

Chưa đi đã chạy là người vô duyên

Đến khi có chồng rồi, tính cách kia không sửa đổi, điều chỉnh thì chẳng những “vô duyên” mà tác hại còn nặng nề hơn:

Đàn bà chưa nói đã cười

Lương duyên vất vả, cuộc đời truân chuyên

To tiếng cũng là chân dung những phụ nữ không ra gì ở mai hậu:

Vai ngang, mặt lớn, tiếng to

Nhiều chồng mà lúc về già vẫn không

Cùng trong hành động đi, đứng, ta còn gặp hàng loạt câu ca khác:

– Ra đi chân bước nhẹ nhàng

Là người hiếu khách, rõ ràng yên vui

– Bước chân thình thịch, cúi đầu

Bôn ba đây đó, dãi dầu nắng mưa

Cùng một dáng đi, nhưng nam xấu, nữ tốt:

Tướng đi chân bước hai hàng

Nàng thì rộng lượng, còn chàng tiểu tâm

Kết hợp diện mạo, ăn nói, hành động:

Lưng dài vai mập ba gang,

Ăn nhai nửa miệng: khô khan chai lười

Dáng một “hiền nhân”

Mắt ngước, chân bước nhẹ nhàng

Tướng đi khang nhã, rõ ràng hiền nhân

Nhút nhát bộc lộ sự thiệt thòi:

Chưa nói mà đã thẹn thò

Phải chịu thiệt thòi trong việc làm ăn

Hay nhẹ hơn, đây là những hành động chỉ những người luôn luôn sầu tư, ảo não:

Những người chép miệng thở dài

Chỉ là sầu khổ bằng ai bao giờ

Kết hợp cả diện mạo và lời nói, chân tướng của kẻ khôn ngoan:

Khao khao giọng thổ tiếng đồng,

Quăn quăn tóc trán là dòng khôn ngoan.

Giọng nói của người hiểm độc:

– Tiếng nói rít qua kẽ răng

Là người nham hiểm sánh bằng hổ lang

– Những người, lẩm bẩm một mình

Giàu sang chẳng được, lại sinh kém tài

Cũng có khi cùng một gam “giọng nói” nhưng nam thì tốt, mà nữ thì bị xã hội phê phán:

Giọng nói răm rắp tiếng dư

Trai thì can đảm, gái ư gan lỳ

Và “tiếng nói” để nhận diện phụ nữ:

Đàn bà lanh lãnh tiếng đồng

Một là sát chồng, hai là hại con

Hoặc những nam nhân mà mang nhiều “nữ tính”:

Trai mà nói giọng đàn bà

Tánh tình nhu nhược, còn là long đong

Ăn trông nồi, ngồi trông hướng, dân gian đã căn dặn hậu sinh như thế. Qua đó, có thể thấy rằng không chỉ trong “ăn nói” mà ngay trong hành động ăn uống cũng góp phần thể hiện tính cách.

Ăn uống khoan thai là người thanh cao

Ăn uống nhồm nhoàm là người thô tục

Một người có tài “mồm mép”!:

Trán cao, miệng rộng, mũi dài

Có khoa ăn nói, ít ai sánh bằng

3. Nhìn tướng người và thể hiện thái độ bằng những quan hệ ứng xử

Từ tướng mạo, người bình dân đưa ra hướng ứng xử trong giao tiếp. Tuỳ theo đối tượng, khen chê, trọng khinh được đưa ra.

Đối với với người dịu dàng dễ thương mến

Chẳng tham nhà ngói rung rinh

Tham vì một nỗi anh xinh miệng cười

Miệng cười em đáng mấy mươi

Chân đi đáng nén miệng cười đáng trăm

Những người con mắt lá răm

Lông mày lá liễu đáng trăm quan tiền

Lối so sánh vừa khéo léo, tế nhị đã bộc lộ được tất cả những gì người nói muốn nói! Nhưng người có “cao” tướng, ắt hẳn sẽ có hạnh phúc

Đàn ông gối dụm, chân chàn

Chẳng cô gái đẹp cũng nàng nết na

Còn đây, nhưng người mà theo dân gian phải tránh xa:

– Chim sa, cá nhảy chớ nuôi

Những người lông bụng chớ chơi bạn cùng

– Mắt trắng, môi thâm, da thiết bì

Người nhiều lông bụng: vô nghì chớ thân

Hay:

Những người tai mỏng mà mềm

Là phường xấc láo, lại thêm gian tà

Dáng mạo cũng báo trước cho biết những người khó thuỷ chung

Mi nhỏ như sợi chỉ mành

Tình trong chưa thắm, ngoại tình đã giao

Tính cách không ra gì:

- Những người béo trục béo tròn

Ăn vụng như chớp đánh con cả ngày

Những người mặt nạc đóm dầy

Mo nang trôi sấp, biết ngày nào khôn.

– Đàn bà vú lép, to hông

Đít teo bụng ỏng, cho không chẳng cầu

– Những người ti hí mắt lươn

Trai thì trộm cướp, gái buôn chồng người

– Những người mặt nặng như mo

Chân đi bậm bịch, có cho chẳng thèm

Những kẻ bảo thủ, không có ý cầu tiến:

Những người tai ngửa ra sau

Tướng hèn mà lại cứng đầu, chậm nghe

Trên diện mạo đôi lúc chỉ cần đảo vị trí, tính tình cũng quay ngược hẳn ở hai chiều khác nhau:

Mắt dài, mày ngắn: bất bình

Mày dài, mắt ngắn: đệ huynh vẹn toàn

Xem ánh mắt, dân gian không ngần ngại bày tỏ với những cô gái “vô duyên”:

– Con lợn mắt trắng thì nuôi

Những người mắt trắng đánh rồi đuổi đi

– Miệng rộng, môi mỏng, liếc ngang

Con gái như thế chẳng màng làm chi

Dành cho kẻ “sáng say, chiều xỉn”

Lờ đờ như người say rượu

Mắt đỏ hoe, phải liệu mà chơi

Cũng có người mà ngay trong tướng mạo như đã báo trước những điều bất hạnh:

Kẻ nào trống giữa bàn chân

Hông không đụng đất thì đừng chơi xa

4. Nhìn nhận con người qua công việc

Ở một cấp độ khác, người bình dân thể hiện thái độ của mình qua việc nhìn nhận đánh giá về công việc thường nhật.

Dân gian cho rằng người phụ nữ chu đáo, đáng trọng là người biết tảo tần, đảm đang, có chồng phải “gánh giang san nhà chồng”, nên họ khẳng khái dành cho những kẻ “ngồi lê đôi mách”

Đàn bà yếu chân mềm tay

Làm ăn chẳng được lại hay nỏ mồm

Họ quả quyết chắc chắn rằng:

Đàn bà không biết nuôi heo là đàn bà nhác

Đàn ông không biết buộc lạt là đàn ông hư

Và nặng lời chế giễu:

Làm trai cho đáng thân trai

Khom lưng cố sức gánh hai hạt vừng

Ăn no rồi lại nằm khoèo

Nghe giục trống chèo bế bụng đi xem

Chân dung của những con người vô dụng:

Chú tôi hay tửu hay tăm

Hay nước chè đặc hay nằm ngủ trưa

Ngày thì khấn những ngày mưa

Đêm thì ước những đêm thừa trống canh

Hay:

– Chồng người cưỡi ngựa bắn cung

Chồng em thì lấy dây thung bắn ruồi

– Chồng người đi ngược về xuôi

Chồng em ngồi bếp sờ đuôi con mèo, …

5. Kết luận

Qua các cung bậc nhìn nhận đánh giá con người qua tướng mạo chúng ta thấy đời sống tinh thần của người bình dân hết sức đa dạng, phong phú.

Từ đó, mở rộng vấn đề chúng ta nhận thấy chức năng của thể loại ca dao – dân ca không chỉ dừng lại ở cấp độ nghi lễ hay trữ tình, nó còn phản ánh đầy đủ các biểu hiện, các khía cạnh trong đời sống tâm hồn người bình dân. Mảng ca dao tướng mạo – tính cách vừa là kinh nghiệm sống, kinh nghiệm ứng xử trong các mối quan hệ ở cánh đồng thửa ruộng, thôn quê tự ngày xưa ấy!

Đã nói là đoán và xem tướng mạo, như mình đã đề cập ngay trong phần đầu bài viết, nó có thể đúng, cũng có thể sai, song đúng hay sai gì thì những lời ca ấy vẫn tồn tại, vẫn có sức sống lâu bền, sống bằng cách của riêng nó. Tự trong lòng ca dao, dân gian cũng tự nhận định và đánh giá nội dung này:

Sông sâu sào vắn dễ dò

Đố ai lấy thước mà đo lòng người

Hay:

Vẻ cọp chẳng vẻ được xương

Hoạ chăng chỉ thấy mấy đường ngoài da

(Họa hổ, họa bì nan họa cốt

Tri nhân, tri diện bất tri tâm)

   Mình xin mượn lời hát đối đáp sau đây để thay lời kết luận với hàm ý muốn nhắc lại những cách đánh giá, nhận định về tướng mạo không ít nội dung bị tư tưởng chủ quan của người trong cuộc quyết định!

– Má bánh bầu xem lâu muốn chửi

Mặt chữ điền tiền rưỡi muốn mua

– Má miếng bầu coi lâu càng thắm

Mặt chữ điền xấu lắm ai ơi!./.