16/01/2021

Kiến trúc đình làng Bắc Bộ

Tạp chí Kiến trúc số 11-2017

Giản dị và trang nhã, mộc mạc song không kém phần tinh tế, đình làng được ấp ủ dưới những bóng cây, không phô trương, trấn áp mà bình dị, lạc quan… Kiến trúc, mỹ thuật đình làng mang các yếu tố thuần Việt riêng biệt, thể hiện sự trở về, tiếp nối truyền thống văn hóa Đông Sơn, là biểu tượng sống động, chân thực, thành quả nghệ thuật kết tinh hàng ngàn năm của người Việt.

Đình Chu Quyến

Tư duy văn hóa thần linh ở gần cõi người, truyền thống canh tác nông nghiệp lâu đời gắn chặt với đất, với trời nên người Việt ngay từ khi hình thành ý tưởng xây dựng đã luôn có một ý thức sâu sắc về sự hòa hợp với thiên nhiên. Trong môi trường khí hậu có sự thay đổi lớn và thất thường (bão lụt, hạn hán, nắng nóng, lạnh giá…) thì sự cân bằng, ổn định là yếu tố được đề cao. Các loại hình kiến trúc dân gian truyền thống của người Việt đều có xu hướng phát triển theo chiều ngang, bám chặt xuống đất để tạo thế cân bằng và ổn định. Kiến trúc đình làng cũng vậy, nó là thành quả tuyệt vời, thể hiện cách ứng xử khéo léo của cha ông ta đối với môi trường sống, vừa chế ngự, hạn chế sự khắc nghiệt của thiên nhiên, vừa linh hoạt khôn khéo tận dụng những điều kiện thuận lợi để tồn tại và phát triển.

Tầm thước và giản dị, kích thước đình làng thể hiện tỉ lệ tương quan hợp lý với cảnh quan thiên nhiên, giữa các bộ phận của từng cấu kiện, tạo hiệu quả thẩm mỹ cao. Kỹ thuật lợp ngói hai lớp làm cho mái đình dầy và nặng, có thể chống được các cơn gió giật, đồng thời có tác dụng điều hòa nhiệt độ bên trong. Mái đình sà xuống thấp để tránh mưa hắt, chung quanh không cần tường bao che, thông thoáng tứ bề. Về sau, mái đình cao lên và nhẹ đi thì phần phía trước thường có cánh cửa theo kiểu “thượng song hạ bản”, rất thoáng mát. Mô thức nhà sàn và các đầu đao uốn cong là yếu tố đặc sắc có tính bản địa của kiến trúc đình làng ở đồng bằng Bắc Bộ. Nó giúp ta phân biệt với các kiến trúc khác ở Việt Nam và khu vực.

Người Việt tư duy thực tế, đình làng được hình thành như một thiết chế tổng hợp, đa chức năng, vừa có sự linh thiêng của tín ngưỡng, vừa có uy lực thế tục của chính thể quân chủ, đồng thời lại hòa đồng gần gũi với đời sống dân dã. Ngôi đình đặt ở đâu, thì tạo ra trung tâm làng ở đó. Vị trí dựng đình được chọn lựa rất kỹ theo thuyết phong thủy vì người ta cho rằng nó liên quan đến sinh mệnh cả làng. Đình to lớn, bề thế, nhưng không gây cảm giác trấn áp, kiến trúc không nặng nề, rườm rà nhưng vẫn có vẻ oai nghiêm nhất định.

Đình Bảng

Mái là yếu tố đặc sắc nhất của đình. Khi xây dựng, những người thợ đã làm cho 4 góc mái đình kéo cong về 4 phía tạo thành các đầu đao duyên dáng làm cho kiến trúc trở nên nhẹ đi, như bay bổng trong không gian. Nghệ thuật lợp mái và lát sàn theo chiều ngang hòa nhập vào cảnh quan, các thành phần của kiến trúc được thực hiện một cách tinh xảo. Những cột, kèo và những chi tiết cấu thành khác luôn luôn được khéo léo phô ra trong sự đơn giản tự nhiên của nó. Những đường mái thẳng hơi võng xuống, những bình đồ không cân đối giao hòa bằng nhịp điệu tinh tế theo độ cao thấp tự nhiên của mặt đất. Dưới bộ mái trùm rộng ra, ngôi đình thể hiện sức khái quát lớn, khiến ta liên tưởng về một sự che chở, ôm ấp, vỗ về…


Đình Đồng Ngạc

Hình thái không gian đình không cố định, thích ứng với địa thế, địa cảnh cụ thể. Mái đình che gần hết không gian bên trong, ở đây không có tín hiệu thị giác nào điều khiển tâm thức theo một nghi lễ định sẵn trừ khi làng có việc. Cơ chế tồn tại của làng phản ánh rõ ở không gian của đình. Nó nặng tính thích ứng hơn chinh phục, linh hoạt do luôn có “độ lơi” trong cấu trúc, dễ dung hợp bởi đa năng, tự điều chỉnh hơn phải can thiệp là những giá trị của văn hóa ở mà người làng tạo ra cho không gian đình.

Trong tinh thần ấy, đình làng không phải là vật để ngắm nhìn mà là thực thể để thực hành. Bản thân nó là một không gian văn hóa đa tầng, nhiều ngữ nghĩa. Không gian đình là không gian “đời” của làng. “Ở đó có nước mắt và lọn tóc của ả làng bị bắt vạ, có niềm thâm nghiêm và hư hãnh khi rước sắc phong, có vết lằn của chiếu chèo, chiếu cỗ trên mặt đất nện hay sân gạch. Tiếng to, tiếng nhỏ khi ăn chia, giọng lễ, giọng vặt khi đón bạn hát ngày xuân, đến đình người ta sống thật, cởi mở và chân tình với nhau hơn…” – KTS Nguyễn Luận.



Đình Hương Lộc

“Nhà kiến trúc trước hết là một người thợ mộc” (M.Gonse). Những người thợ của làng quê Việt Nam đã nâng tình yêu đối với thiên nhiên cây cỏ lên tới đỉnh cao bằng việc đẽo gọt, vuốt ve từng thớ gỗ trên cấu kiện của đình. Cái đẹp của gỗ còn quý hơn cái vĩnh cửu của công trình làm nên. Từ tầm thước quy định của cây gỗ, người thợ áp vào đó một kích cỡ vừa phải, tương ứng với đầu óc chừng mực của họ. Từ bàn tay mềm mại, tạo tác nhanh chóng của họ, từng chất liệu, kết cấu được hiện ra, thời gian phủ lên lớp rêu phong khiến đình hiện lên một cách tự nhiên, chân thật và tôn quý.

Mái đình cong hình thuyền, sống nhà cong, cấu trúc sàn còn lưu lại theo truyền thống văn hóa Đông Sơn, kỹ thuật ghép mộng, phân lực lên các chân cột làm cho kiến trúc linh hoạt, động và biến hóa. Trong khuôn khổ có hạn của các khuôn gỗ, các chi tiết vẫn hiện lên duyên dáng, đầy ấn tượng với cái nhìn từ hai góc. Kiến trúc đình mở, thông thoáng, thoải mái, dân tự góp, tự làm khuyến khích tùy hứng sáng tạo, các thủ pháp điêu khắc đa dạng, không phân biệt đẳng cấp, mang hơi thở của tinh thần dân chủ, khoan dung từ rất sớm (thờ nhiều thần, hỗn dung tôn giáo, không có cực quyền, cuồng tín…).

Mỹ thuật đình làng chứa đựng nhiều giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc, độc đáo mà trong lịch sử mỹ thuật Việt Nam, chưa từng có một di sản văn hóa nào. Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc đình làng có giá trị nghệ thuật độc đáo, không có sự lặp lại ở các nền mỹ thuật khác. Nó là tác phẩm của những nghệ nhân dân gian. Nghệ thuật xuất phát từ đời sống, từ cái nhìn có tính bản năng thuần phác của người nông dân. Khi sáng tạo, người nghệ sĩ – nông dân không bị câu thúc bởi bất cứ quy chuẩn tạo hình nào. Họ tự do bộc lộ cái cảm tự thân về hiện thực, bằng bất kỳ thủ pháp nào mà người nông dân cho là phù hợp với bản năng nguyên phác của họ. Trong họ đồng thời có hai con người: Người nghệ nhân với kỹ thuật chạm khắc điêu luyện và người nghệ sĩ với sự tự do trong tưởng tượng, phản ánh, thể hiện và miêu tả hiện thực. Nhiều thủ pháp tạo hình được sử dụng để sáng tạo ra các bức chạm khắc, thể hiện cái nhìn hồn nhiên, mộc mạc, hóm hỉnh, đầy sức sống như cái nhìn của trẻ thơ.

Điều làm cho các nhà nghiên cứu nghệ thuật nước ngoài ngạc nhiên, thú vị là các tác phẩm điêu khắc đình làng có những nét rất hiện đại, có sự gặp gỡ với những tác phẩm điêu khắc hiện đại phương Tây. Bức đánh cờ ở đình Ngọc Canh có con mắt viễn – cận ngược chiều, từ trong tỏa ra, từ trên nhìn xuống, mỗi nhân vật được vặn theo một không gian riêng, như trong hội họa hiện đại. Ta nhận thấy ở đây cái cảm xúc chân thật, ý muốn giãi bày một hiện thực toàn diện. Con mèo ngoạm cá ở đình Bình Lục lại được vạc đẽo bằng những nhát đục thô gãy, bẳn gắt, như hội họa biểu hiện. Một nét độc đáo của mỹ thuật đình làng là sự xử lý rất thông minh mối quan hệ giữa kiến trúc và điêu khắc trang trí. Các bức phù điêu trang trí với số lượng lớn được gắn vào khung gỗ chịu lực, lấp các khoảng trống của kiến trúc. Điêu khắc không lấn át kiến trúc, mà tôn trọng và tô điểm cho kiến trúc. Ngôi đình trở nên đẹp đẽ và thiêng liêng hơn.



Đình Tây Đằng (Ba Vì, Hà Nội)

Như một quy luật, kiến trúc dân gian truyền thống Việt Nam nói chung và kiến trúc đình làng nói riêng đều tuân theo nguyên tắc tính đăng đối. Tính đăng đối là một thuộc tính của tự nhiên và nghệ thuật. Thật ra, trong nghệ thuật truyền thống Việt Nam, với tính dân gian đậm đặc, tính đăng đối không đạt tới sự đối xứng tuyệt đối của toán học. Bản chất của nó là sự lặp lại có quy luật, tạo nhịp điệu, làm cho kiến trúc trở nên sinh động, giàu tính trang trí, tác động đến thị giác tạo ấn tượng thẩm mỹ. Nó cũng tác động đến cảm giác, tạo sự ổn định, bền vững, thể hiện nhu cầu thường hằng của cư dân nông nghiệp.

Cũng đăng đối nhưng nếu như kiến trúc truyền thống Trung Hoa nổi bật với màu đỏ rực rỡ của sơn ở cấu kiện gỗ, màu men vàng, xanh của ngói ống, nét duyên dáng, uyển nhã, có xu hướng nổi bật, hướng ngoại, cầu kỳ, thì đình làng Việt mang màu sắc tự nhiên, chân thực của vật liệu, nét rêu phong cổ kính của mái ngói, cái mộc mạc, nguyên sơ của gỗ. Công trình có xu hướng trầm, hướng nội như bị hút xuống đất và lẫn vào không gian cảnh quan… Đình chủ yếu là gỗ, gạch, đá tham gia không đáng kể. Do có sàn, nên thềm và nền đình ít được chú trọng chăm chút, kiến trúc mở, để thoáng xung quanh, công trình gần gũi với con người, chạm khắc của đình nhiều và phong phú làm cho các kết cấu gỗ trở nên mềm mại, uyển chuyển, không gian trở nên sinh động hơn.

Đồng bằng Bắc Bộ phì nhiêu màu mỡ là cái nôi của nền văn hóa Việt Nam. Kiến trúc và mỹ thuật đình làng Bắc Bộ (từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19 đầu 20) đánh dấu đỉnh cao trong nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc Việt Nam, chứa đựng những giá trị nhiều mặt về văn hóa, lịch sử, nghệ thuật vô cùng quý báu, chứa đựng nhiều yếu tố thuần Việt, nguyên bản, không thấy lặp lại ở các nền văn hóa khác. Bản sắc văn hóa dân tộc Việt được bộc lộ qua tư duy thẩm mỹ, thể hiện qua thức kiến trúc, mối quan hệ giữa kiến trúc và môi trường, qua các thủ pháp nghệ thuật, các môtíp, họa tiết, hình khối, đường nét, màu sắc…đặc biệt là “hồn cốt” của dân tộc toát lên từ những mái đình đơn sơ và bình dị.

 


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét