31/07/2014

Hòa thượng Thích Thanh Từ giải đáp một số thắc mắc trong Phật Pháp và tu hành


Cùng cư sỹ Chanhnguyen bên trang Học thuật phương Đông, tôi xin giới thiệu tới các đồng đạo.




VỀ TỘI  SÁT SANH
Hỏi: 
Đạo Phật cấm sát sanh, nhưng sâu rầy phá lúa mạ hoa màu, nên các nhà khoa học chế biến thuốc sát trùng, người chủ ruộng mua thuốc sát trùng, người làm công xịt thuốc sát trùng. Ba người làm như vậy  có phạm tội sát sanh không ? Nếu phạm, ai tội nặng hơn ?
Đáp:
Phật tử qui y thọ năm giới, giới sát sanh là giới đầu. Khi truyền giới, các Thầy thường giảng không sát sanh là không được giết hại từ loài nguời cho tới loài vật. Giảng như thế, Phật tử thọ Tam qui ngũ giới, mỗi khi làm điều gì có phương hại đến sinh vật nhỏ như côn trùng lòng rất hoang mang.
Điều này tôi nghiên cứu trong Luật thấy không phải như vậy. Luật Phật dạy nguời Phật tử tại gia không được giết nguời và không được giết những con vật lớn như trâu, bò, ngựa… Con nguời là chính yếu, những con vật lớn là thứ yếu, Phật không nói tới côn trùng như sâu, rầy, kiến… Đối với nguời xuất gia Phật mới đề cập tới các con vật nhỏ. Nhưng nếu có phạm chỉ là tội nhẹ. Hiểu như vậy quí Phật tử mới giữ giới được. Ngày xưa có những nguời chài lưới thọ Tam qui giữ năm giới. Nếu không sát sanh là không giết hại côn trùng như sâu kiến thì những người chài lưới làm sao tu? Giới không sát sanh chủ yếu là không giết nguời.
Giết nguời có ba cách: Một là mình tự giết bằng đao bằng gậy hay bằng thuốc độc… Hai là bảo nguời khác giết thế cho mình. Ba là thấy nguời khác giết mình vui mừng theo. Như thế là phạm tội sát sanh đối với loài nguời, còn những loài nhỏ thì chưa bàn tới. Ngày nay chúng ta giảng quá tổng quát khiến cho Phật tử lúng túng không dám làm gì hết.
Nếu không dám giết sâu bọ thì làm sao làm ruộng làm rẫy? Không làm ruộng làm rẫy thì lấy gì ăn và mọi nguời sẽ ra sao? Nguời nông dân không làm ruộng, làm rẫy thì nguời nông dân đói, nguời thành thị cũng đói theo. Nguời thành thị đói thì mấy nguời tu cũng đói luôn. Như vậy là cùng chết đói với nhau. Đó là cái lẽ không hợp pháp.
Phật nói không sát sanh là không giết nguời để ngăn chận tâm ác. Giết nguời thì phạm tội sát, còn những loài kia thì nhẹ, chớ không phải là chính.
Hiểu như vậy thì quí vị qui y giữ giới không lúng túng khi làm việc.
Câu hỏi này đối với nguời xuất gia mới bị kẹt. Vì nguời xuất gia Phật cấm không được giết cả côn trùng. Nếu nguời tại gia mà cấm không được giết những loại nhỏ như côn trùng, thì những người làm thầy thuốc làm sao trị bệnh? Chẳng hạn bệnh nhân mắc bệnh lao, trong nguời có vô số vi trùng lao, thầy thuốc chích thuốc những vi trùng đó chết hết, bệnh nhân mới lành bệnh. Thấy có tội làm cứu cho nguời hết bệnh?
Ngày xưa khi Phật còn tại thế, có một Tỳ kheo đi đường qua một bãi sa mạc, trời nóng Ngài khát nước cháy cổ, gặp vũng nước có nhiều vi trùng không dám uống. Ngài đến bạch với đức Phật:
- Bạch Thế Tôn, con rất khát nước, con dùng thiên nhãn thấy vũng nước bên đường có vô số vi trùng nên con không uống được.
Phật bảo:
- Sao ông không dùng nhục nhãn mà nhìn?
Qua câu chuyện, quí vị thấy Phật đặt nặng cái gì?
Có phải Phật đặt nặng con nguời, cứu con nguời là trên hết không?
Những vi trùng vi tế sống thời gian rất ngắn rồi chết, nếu đặt nó nặng để nó phá hại con nguời thì việc làm nào đúng? Ngay trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta hít thở không khí cũng có vô số vi trùng. Như vậy vi trùng ở đầy khắp, mà bảo tránh làm sao tránh?
Còn làm ruộng làm rẩy xịt thuốc trừ sâu, tâm niệm mình chỉ nghĩ cho có cơm để mình và mọi nguời ăn, chớ đâu có oán thù nó. Nghĩ đến mạng sống con nguời là việc lớn, sâu rầy là cái nhỏ. Vì việc lớn mà chịu tội nhỏ đâu có thiệt thòi bao nhiêu! Vậy giữa cuộc sống tương đối này, phải có cái nhìn cho tường tận, vì việc lớn mà chấp nhận lỗi nhỏ, đòi hoàn hảo tuyệt đối hết thì không thể được. Vì sự sống cho gia đình, cho mọi nguời có bát cơm ăn là cái phước lớn, thì phải chịu tội nhỏ đối với loài sâu bọ.
Giả sử có nguời này ỷ thế lực giết hại nguời kia, chúng ta vì thương nguời bị giết nên ra tay cứu. Khi cứu nguời kia nên bị nguời này chửi mắng.
Lúc bị chửi mắng chúng ta cam chịu một chút có sao đâu! Cứu được nguời khỏi chết là quan trọng. Đó là việc làm tốt cho nguời, phần mình phải nhận chút thiệt thòi. Nếu đòi hỏi hoàn toàn tốt hết thì khó lắm. Hiểu như vậy thì chúng ta tùy duyên làm lợi ích cho chúng sanh, chúng sanh lớn biết kêu la than khóc thì lo trước, còn chúng sanh nhỏ thì lo sau
**************
Cầu Siêu cho người mới chết
Hỏi:
Cầu Siêu cho người mới chết và người chết lâu, người chết có lợi ích gì ? và phóng sanh loài thú, loài thú nó đi ăn nuốt bao nhiêu con khác. Như vậy có nên phóng sanh không ?
Đáp:
Cầu siêu cho nguời mới chết thì hợp lý. Còn nguời chết đã lâu mấy chục năm thì đã sanh nới khác, đâu còn lẩn quẩn quanh đây mà cầu siêu. Cầu như thế thấy như không có lợi. Tuy nhiên, Phật dạy khởi tâm lành thì được hai cái lợi.
Cầu siêu cho cha mẹ lợi cho cha mẹ, mà cũng lợi cho chúng ta. Vì nếu cha mẹ sanh trong ngạ quỉ, mà kiếp ngạ quỉ sống cả ngàn năm rất là khổ, nên rất cần sức chú nguyện của nguời chân chính tu hành, để có chút sức mạnh giúp cho họ dễ tỉnh thức thoát kiếp ngạ quỉ, đó là có lợi.
Còn nếu cha mẹ sanh ở cõi trời hay ở cõi nguời đang hoạt động sinh sống, chúng ta có cầu cũng không tỉnh thức. Nhưng vì lòng hiếu thảo cung kính Tam Bảo chúng ta cầu đó là phước của chúng ta. Như vậy cầu siêu không có thiệt thòi bên nào cũng có lợi.
Còn vấn đề phóng sanh phát nguồn từ lòng từ bi. Ví dụ như chúng ta thấy con cá lớn bị bắt lên cạn, sắp bị đập đầu nó giãy giụa, động lòng thương chúng ta mua nó về thả xuống sông. Được sống lại ở dưới nước, con cá đó ăn những con cá nhỏ để sống. Cứu sống con cá lớn để rồi cá lớn ăn cá nhỏ, như vậy chúng ta có chịu chung tội với nó không? Nếu có tội thì lúc tiền thân Phật hành hạnh Bố tát bố thí thân cho cọp đói ăn, cọp nhờ ăn thịt tiền thân Phật mà được sống, sau đó nó bắt heo rừng, bắt nai ăn thì Phật cùng có tội với nó sao? 
Chúng ta nên hiểu việc phóng sanh là do lòng từ của chúng ta phát khởi, khi thấy con vật sắp chết bị khổ mà làm, chớ không nghĩ mai kia con vật đó nó làm cái gì. Chúng ta cứu nó là vì lòng từ bi là được phước, còn chuyện mai kia nó làm gì là chuyện của nó, chúng ta đừng có lo xa quá. 
Vì lo xa quá nên không dám làm gì hết, rốt cuộc chẳng làm lợi ích cho ai.
Chẳng hạn thấy nguời ăn xin, nghĩ có thể nguời này xin tiền về cờ bạc ăn chơi xa xỉ… Nếu cho tiền họ là nuôi dưỡng họ tạo tội thêm, nên không cho. Cứ nghĩ như vậy thì lòng từ của mình dần dần tiêu mất. Thấy cái gì cũng suy lý hết, nên không làm được việc gì có ích. 
Tu theo đạo Phật thấy nguời, vật khổ, liền khởi lòng từ bi cứu giúp cho lòng từ được phát triển, còn chuyện về sau là của nguời, của vật, không phải là chuyện của mình.
**************

VỀ VIỆC CÚNG BÁI BÀ

Hỏi:

Trong gia đình con, ba mẹ chồng đều có thờ Phật, thờ bà độ mạng, thờ ông bà … Cung kính đều đặn mỗi ngày, cúng kính  vào ngày rằm, mồng một hàng tháng và cũng sống tốt. Hay giúp đỡ mọi người, sống lương thiện. Nhưng không chịu đọc kinh sách Phật. Cả hai, năm nào cũng đi cầu Bà chúa Xứ, bà Tây Ninh, cúng đình, xin xăm và rất tin vào cái xăm. Năm nào cũng cúng sao giải hạn, hễ cần việc gì thì vẫn vái tứ phương, cũng tạ lễ … Nói chung là mê tín. Cúng kiến như dân gian  và xem tivi suốt ngày … 
Con không thể làm gì khác được, chỉ cố gắng tu tập để đừng ngã theo và giữ tâm, giữ khẩu để đừng đụng chạm đến tín ngưỡng của cha mẹ chồng … 
Vậy con phải làm sao để cho đúng với vai trò của người con Phật và người con dâu? 
Đáp:
Tín ngưỡng là những gì thuộc về lòng tin, thuộc về tâm linh. Thuộc về tâm linh thì nó không có biên giới rõ ràng như một món đồ trong cuộc sống. Thấy xấu thì không mua, thấy tốt thì mua…
Xin đưa một ví dụ cho dễ hiểu: Cầu tự ở Bà Chúa Xứ về, ông bà liền được đáp ứng một việc nào đó. Việc đó thực ra không phải do cầu tự mà được, không phải do Bà Chúa Xứ ban cho, mà do chính những việc phước thiện ông bà đã làm hằng ngày, cộng với lòng thành của ông bà mà được.
Nhưng vì là vấn đề thuộc tâm linh, lại chưa đủ trí tuệ và Phật nhãn để thấy được nhân nào cho ra quả nào, nên có sự nhầm lẫn. Cứ nghĩ Bà Chúa Xứ ban cho những điều đó. 
Đương nhiên, không phải khi nào cầu, “Bà Chúa Xứ cũng cho”. Có điều, khi được thì ông bà nhớ, khi không được thì ông bà đổ tại thế này thế nọ mà Bà Chúa Xứ không ban v.v… Tức lấy một lần được đáp ứng đó, che hết những lần không được đáp ứng và cho là Bà Chúa Xứ có thần lực ban phát, chứ không đặt câu hỏi vì sao có lúc được, lúc không v.v…. Lòng tin một khi đã được trợ ứng bằng một vài kết quả (dù kết quả đó do lầm nhân lộn quả mà ra), thì muốn thay đổi lòng tin đó không phải dễ. Nó đã trở thành một định kiến, một quan niệm sống. Đã là định kiến thì ... như Einstein từng nói: “Thời nay phá vỡ một kiến chấp còn khó hơn phá vỡ một hạt nhân nguyên tử”. Đó là cái khó mà chúng ta gặp phải khi muốn giúp một ai đó thay đổi đi quan niệm của mình. 
Thứ hai, thế giới này là thế giới duyên khởi. Nghĩa là làm gì cũng phải có nhân duyên với nhau. Có nhân duyên với nhau, đây muốn nói thuận duyên, thì mọi việc dễ đưa đến kết quả tốt. Duyên nghịch thì ít đưa đến kết quả tốt. Không có nhân duyên thì mọi thứ như nước đổ đầu vịt …
Không có nhân duyên với nhau thì dù là đức Phật, cũng không độ được bà già quản gia của ngài Cấp Cô Độc. Có nhân duyên thì mọi thứ đều xong như bà quản gia có nhân duyên với ngài La Hầu La. Ngài nói gì bà cũng nghe, cũng thuận. Đây là việc rất cần thiết và quan trọng trong việc lợi tha.
Cô cần coi xem, duyên giữa cô với cha mẹ chồng có thuận không?
Thuận, nghĩa là cha mẹ chồng thương, cha mẹ chồng dễ nghe lời cô v.v… Nếu chưa đủ những nhân tố để thấy là thuận, thì mình cần thời gian để làm cho mối nhân duyên giữa cha mẹ chồng và mình thuận trước, rồi các việc khác tính sau. Một định kiến, có khi cần phải đến vài kiếp mới có thể thay đổi được, chứ không đơn giản. Không phải chỉ mình mình có thể giúp họ phá bỏ, mà phải có sự hộ trì của Tam bảo, cộng với lực thiện căn của chính người đó. Vì thế, với việc lợi tha, chư vị Bồ tát có vô lượng a tăng kỳ kiếp để tự lợi và lợi tha. Nhưng dù lâu xa bao nhiêu thì : Không có gì là không thay đổi được một khi nhân duyên đã đủ, đạo lực của mình vững mạnh. 
Tóm lại, xin đưa ra những ý kiến sau :
1. Coi xem nhân duyên giữa cha mẹ chồng và mình có thuận không. Nếu không, thì đừng quan tâm đến những điều đó là tốt nhất. Nếu có, thì thuận được đến mức nào? Nhưng thuận đến mức nào chăng nữa thì cũng không nên khuyên ông bà bỏ, mà chỉ nên khuyên, hoặc tạo điều kiện, hoặc giúp đỡ ông bà tăng cường việc phước thiện, giữ 5 giới của người tại gia … Đó mới là điểm chính. Thiện căn một khi tăng trưởng thì tự nó có lực giúp ông bà phá bỏ những mê tín dị đoan của chính mình. 
2. Nếu thuận duyên thì cũng chỉ nên : Lâu lâu nêu ra một vài mâu thuẫn nào đó để khởi cái nghi cho ông bà trong vấn đề cúng kiến không đúng chánh pháp. Nghi một khi đã xuất hiện, thì niềm tin từ từ sẽ phai lạt. Không nên đụng đến tín ngưỡng mà ông bà đang theo. Việc này đòi hỏi sự khéo léo và nhẫn lực. Rất cần sự khéo léo và nhẫn lực. Không phải là việc dễ làm. Thấy không xong thì nên tránh …
3. Cố gắng tu tập : Đây là phần quan trọng nhất. Giữ giới mình đã thọ và giữ tâm càng bình tỉnh càng an định càng tốt. Tâm an thì trí mới phát. Trí phát thì mình sẽ biết phải làm gì để sự việc tốt hơn, không nên làm gì để sự việc xấu thêm. Mọi công đức có được trong đời đều hồi hướng cho tất cả chúng sinh, trong đó nhấn mạnh đến cha mẹ chồng, nguyện ông bà thay đổi đi những quan niệm sai lầm … Với lòng nhiệt thành và sự tu tập kiên trì của mình, dù cô không có nhân duyên với cha mẹ chồng để giúp ông bà thay đổi những tư kiến sai lầm, thì cũng sẽ có các duyên khác giúp ông bà thay đổi. Cứ yên lòng mà tu tập. Kinh nói: “Tâm tịnh thì cõi Phật tịnh”. 
Tuổi già thì biết làm gì ngoài việc xem … tivi. Ông bà vui vẻ, mạnh khoẻ, sống lương thiện, nếu giữ được thêm 5 giới của người tại gia nữa, thì quá tốt rồi. Không sao đâu, thưa cô! 
Chúc cô thân tâm thường an lạc, thành công trong việc lợi mình và lợi người.
**************

SÁU CĂN DUYÊN HỢP


     HỎI: 

Sáu căn là duyên hợp hư giả. 6 trần cũng là duyên hợp hư giả. Vậy làm sao 6 căn dính với 6 trần được ? Có phải nó chỉ duyên hợp chạm nhau không ? 
ĐÁP: 
 Sáu căn là:  Mắt, Tai, Mũi , Lưỡi , Thân và Ý.
       Sáu trần là:  Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp.
      Theo ngài Hiền Thủ, Tổ thứ ba tông Hoa Nghiêm, thì với nghiệp thức của con người, khi mắt thấy sắc không phải chỉ có mắt và sắc, mà là duyên hợp của 10 thứ :
1. Bản thức.
2. Chủng tử nhãn thức.
3. Mạt na.
4. Ý thức.
5. Nhãn thức.
6. Nhãn căn không hoại.
7. Tác ý muốn thấy.
8. Có cảnh làm sở duyên để duyên (Chỉ cho trần).
9. Khoảng giữa không chướng ngại.
10. Trong vùng có thể thấy.
Tuy là duyên hợp của 10 thứ, nhưng thường thì kinh luận chỉ nói gọn còn ba là Căn - trần - thức. Vì duyên hợp mới có, duyên tan liền không, không có thư nào có tự tánh riêng, nên nói hư giả. Đó là nói về phần DUYÊN HỢP giữa căn và trần.
Khi nói đến việc 6 căn DÍNH với 6 trần, thì vấn đề không còn nằm trong phạm vi duyên hợp như đã phân tích trên, mà đã bước sang lãnh vực khác như sau :
Khi mắt thấy sắc hay tai nghe tiếng, nếu chỉ nghe hay thấy mà trong lòng không khởi lên bất cứ thứ gì, nghĩa là tâm ở vị trí tâm, cảnh ở vị trí cảnh, thì lúc đó tuy mắt vẫn thấy sắc, tai vẫn nghe tiếng nhưng mắt không dính sắc, tai không dính thanh. Nếu khi mắt thấy sắc hay tai nghe tiếng mà lòng thấy chộn rộn v.v…, tức mình đang để cho đối tượng sắc thanh chi phối tâm thức của mình, thì lúc đó mới gọi là mắt dính sắc, tai dính thanh. Đó là do mình đang để cho phần ý thức phân biệt chi phối. 
Như vậy, khi mắt thấy sắc hay tai nghe tiếng, có hai trường hợp xảy ra : Hoặc là dính mắc hoặc là không dính mắc. Nhưng dù là dính mắc hay không dính mắc thì khi mắt thấy sắc, tai nghe tiếng v.v… vẫn phải hội đủ 10 duyên đã nêu. Chỉ khác nhau ở phần Ý THỨC. Nếu là phần Ý THỨC HIỆN LƯỢNG thì không có sự dính mắc. Nếu là phần Ý THỨC PHÂN BIỆT thì có sự dính mắc. 
Như vậy, dính mắc là do mê mà có, không phải do căn trần hư giả hay không hư giả. 
Căn trần duyên hợp nên bản chất của chúng là hư giả, nhưng do vô minh, mình cho chúng là thật, từ đó mà sinh vui, buồn, mặn, ngọt, chua, cay v.v… nên gọi là dính mắc. Do dính mắc mà tạo nghiệp. 
**************
ÔNG BÀ MẤT ĐÃ LÂU
Hỏi:
Ông bà con mất đã lâu nhưng đến giờ gia đình con vẫn còn đốt giấy tiền vàng mã. Con khuyên hoài mà không được. Vi con nghe nói trong vòng 49 ngày tụng kinh và cúng trai tăng để cầu cho vong linh được siêu thoát rồi thi đâu còn ở đây đâu mà xài. Vậy đốt như thế có ích lợi gi không ? Theo con nghĩ đốt như vậy vừa phí tiền mà Ông, Bà mình cũng không xài được đúng không. Xin quí Thầy từ bi giải thích rõ giùm con.
Đáp:
Người chết tùy theo nghiệp nặng hay nhẹ mà đầu thai vào sáu đường, không dứt khoát trong vòng 49 ngày là phải đầu thai. Trong kinh Địa Tạng, chỉ thấy khuyên : Gia đình người chết nên gìn giữ trai giới thanh tịnh, cúng dường cho chư Tăng Ni, hồi hướng cho người chết. Không thấy nói đến việc đốt giấy tiền vàng mã v.v… Tuy nhiên, đó là một tập tục được truyền thừa đã lâu đời. Vì thế rất khó bỏ. 
Có những tập tục, dù không lợi ích cho ai, thậm chí là có hại chăng nữa, (như một số tập tục mê tín của dân tộc thiểu số ta thấy hiện nay), nhưng một khi nó đã thành thói quen, lại là thói quen đánh trúng vào tâm lý sợ người thân của mình đói khổ, thì ta cũng khó mà khuyên gia đình bỏ liền.
Vì thế, cần phải có thời gian. Nó đòi hỏi ta sự khéo léo, nhẫn nại và … đúng thời cơ, mà nhà Phật hay nói là “đủ duyên” đó. 
Nguyện Tam bảo phò trợ cho lòng thành của bạn. Kiến tha lâu cũng có ngày đầy tổ.
**************
ĐỌC KINH BÁT NHÃ
Hỏi:
Ngày nào con cũng tụng đọc bài kinh Bát Nhã sau mỗi thời ngồi thiền.  Con cũng hiểu được đôi chút ý nghĩa bài kinh nhưng chưa được thấm. Con kính mong quí Thầy, Cô cho con bài giảng về bài kinh Bát Nhã để con được thâm nhập sâu hơn. Kinh tri ân qúy Thầy Cô - Diệu Trí.
Đáp:
Mở đầu, Tâm kinh có nói : “Bồ tát Quán tự tại hành sâu bát Nhã ba la mật đa, soi thấy năm uẩn đều không …”. Khi nào Diệu Trí thấy được 5 uần : Sắc, thọ, tưởng, hành, thức của mình đều không, đó là lúc Diệu Trí thâm nhập được tâm kinh đúng nghĩa nhất”. 
Hiện tại, nên tham khảo các tài liệu sau: 
1. Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh do Hòa thượng Trúc Lâm giảng.
2. Bát Nhã Trực Giải của thiền sư Minh Chánh, do thiền sinh thiền viện Thường Chiếu dịch.
3. Bát nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh của Chân Hiền Tâm, có trong phần Pháp Lữ của trang: www.Thuongchieu.net.
**************
TU THIỀN TẠI GIA
Hỏi:
Cho đệ hỏi: Nhà đệ ở Nha Trang nhưng đệ lại quy y ở Thường Chiếu. Công việc không cho phép đệ ở lâu, chỉ ở được vài ngày sau khi quy y. Bây giờ đệ muốn tiếp tục tu thiền, vậy mong sư phụ và các huynh chỉ cho đệ cách tu thiền ở tại gia, và khi đệ muốn vào thiền viện trong dịp hè (vì đệ chỉ rãnh lúc hè) thì có cần giấy tạm vắng không ạ ? Chân thành cảm ơn ban biên tập.
Đáp:
Đệ không nêu rõ hiện nay Đệ đang làm gì, việc tu hành của Đệ hiện nay ra sao, nên đây chỉ nêu chung chung. Đệ cứ tùy duyên tùy lực của mình mà làm. 
I. Việc tu thiền tại gia :
1. Giữ gìn 5 giới của người tại gia.
2. Việc ác không làm. Vâng giữ điều thiện.
Hai việc này tuy thấy tầm thuờng không có vẻ gì là thiền, nhưng là nền tảng rất cần cho việc tu thiền. Đó là mặt GIỚI mà một người tu thiền cần phải giữ. Nó góp phần không nhỏ cho việc giúp tâm an ĐỊNH. Nhờ ĐỊNH mà có TUỆ. 
3. Tránh bàn chuyện thị phi. 
4. Hoàn tất tốt đẹp công việc hằng ngày.
5. Cố gắng giữ thời khóa ngồi thiền cho điều đặn. Quan trọng nhất là vào giấc sớm mai, khoảng từ 3 giờ đến 5 giờ sáng. Dù ngồi ít hay nhiều, thì việc ĐIỀU ĐẶN và TRƯƠNG VIỄN là cần thiết. Còn ngồi thế nào và thiền ra sao, thì cần phải được hướng dẫn trực tiếp và rõ ràng. 
6. Nếu có thể, Đệ nên tập thiền ngay cả khi làm việc. Làm việc gì chỉ BIẾT việc đó. Khi đi, biết mình đang đi, khi ngồi biết mình đang ngồi v.v… . Đang đi mà đầu nghĩ đâu đâu thì đừng nghĩ nữa mà nên chú tâm vào việc đang đi của mình. Những việc còn lại cứ theo đó mà làm.
Tu hành, dù là tu pháp môn nào, thì kết quả của nó cũng là giúp ta trừ bỏ Tham, Sân, Si. Nói theo nhà thiền là “Không dính mắc với ngoại cảnh” hay “Đối cảnh vô tâm”. 
Tùy việc tu hành nhiều hay ít mà việc trừ bỏ Tham, Sân, Si có cạn hay sâu. Vì thế, cứ lấy việc giảm Tham, Sân, Si làm thước đo cho việc tu hành. Thiền đúng thì Tham, Sân, Si ngày càng phải giảm. 
II. Vào thiền viện tập tu:  Đệ cần mang theo giấy tạm vắng. 

**************
KHUYÊN CON CỐ GẮNG
Hỏi :
Là một bậc phụ huynh, chúng con hay nói với con cái của mình như sau để khuyến khích các con học hành: “Con phải cố gắng học cho bằng bạn hay hơn bạn” và con cũng nghĩ là phải ganh đua  thì mới cố gắng hơn. Như vậy có phải vô tình con đã dạy cho con của con phải hơn thua, tranh dành với bạn bè không? Kính mong quí Thầy  chỉ con cách làm sao để khuyến khích các con học tập mà không làm các con bị ảnh hưởng xấu sau này.
Đáp:
Trước hết, chúng ta phải xác định mục tiêu học tập của con cái mình là gì? Kế là phải hiểu về sức học, trí tuệ, tình cảm v.v... của chúng. Nói  theo  "Phật pháp" là phải biết căn nghiệp của con mình thế nào? Xác định được hai câu hỏi đó là mình có câu trả lời cho việc mình cần làm.
1. Mục tiêu của việc học tập : Hiện tại, là để chúng không có thời gian nhàn rỗi mà sinh những chuyện không hay. Tương lai, là để chúng có thể tự nuôi lấy bản thân, gia đình và có điều kiện giúp đỡ mọi người chung quanh. Đó là mục tiêu chính của việc học hành, không phải hơn bạn bè là mục tiêu của việc học hành. 
Vì thế, chúng ta có thể nêu thẳng mục tiêu đó ra để khuyến khích chúng, hơn là lấy bạn bè ra làm chỗ ganh đua. Còn nếu muốn dùng  hình thức ganh đua giữa bạn bè để khuyến khích con cái, thì phải tập cho con ganh đua trong tinh thần vui vẻ, không đố kỵ. Nhưng nhớ đây là con dao hai lưỡi, chúng ta phải khéo léo và cẩn thận.
2. Cha mẹ nào cũng muốn con mình học giỏi hơn người, nhưng không phải cứ muốn là được. Mọi thứ còn tùy thuộc vào căn nghiệp của chúng.
Có đứa dạy một biết mười. Có đứa dạy mười biết chỉ ba thậm chí là  một ... Vì thế, khuyến khích con là một chuyện, mà kết quả ra sao còn tùy vào căn nghiệp của chúng. Cho nên, con mình có hơn hay thua bạn, không quan trọng bằng nó đã làm hết sức của nó. Hiểu được vậy, mình sẽ tránh được nhiều điều đáng tiếc xảy ra như hiện nay: Tự gây áp lực cho mình và con trẻ. Con trẻ chịu không được áp lực đó thì tự tử v.v...
3. Thực tế trong cuộc đời cho thấy, có những người học giỏi nhưng lại không có đất để dụng võ. Có người học không giỏi nhưng tiền vẫn đầy túi, chức vụ vẫn ngon lành. Điều đó cho thấy, tài học chưa hẳn là thứ quyết định được hạnh phúc cho con người, mà nó còn một mặt khác nữa. Chính là cái phước (có thể từ quá khứ, có thể trong hiện tại).
Vì thế khuyến khích con trẻ phát triển tài năng là tốt, nhưng khuyên con củng cố cái đức hoặc làm những việc phước thiện cũng không kém quan trọng. 
Nếu đời này, cái nhân phước thiện ấy chưa trỗ quả, thì đó cũng là cái nhân cho những cái quả tốt đẹp cho những kiếp về sau. 
Khuyên con giúp đỡ, hòa nhập với bạn bè v.v... chính là đang củng cố cái đức cho nó.  
**************
MUỐN XUẤT GIA
Hỏi :
Con ở tại gia mà lòng con vẫn mong cầu một ngày nào đó đủ duyên để con được xuất gia tu tập. Con có thể dứt bỏ gia đình đi, hay con phải có thời gian sắp xếp an ổn cho các con rồi mới đi được?
Đáp :
 Xuất gia là một ý nguyện rất tốt. Còn việc dứt bỏ hay không dứt bỏ thì vấn đề  chủ  yếu vẫn là tu hành.
+ Giữ tốt 5 giới của người tại gia, chính là đang tu.
+ Bất cứ điều gì khiến mình khởi lên tâm tham hay tâm sân, thì cố gắng định tỉnh, đừng để tâm tham hay tâm sân ấy phát triển. Đó là đang tu. Sống với tâm định tỉnh như thế, mình sẽ nhận định được vấn đề sáng suốt và quyết định đường đi của mình được đúng đắn.
Với tâm định tỉnh như thế, mới có thể góp phần vào cái gọi là "sắp xếp cho con cái". Nếu không định tỉnh được thì nên tìm cách tránh cảnh để việc tu hành được tốt đẹp.
Tránh cảnh mà tu  được cũng là đang góp phần vào cái gọi là "sắp xếp cho con cái".   
**************
TU LÀ CHUYỂN NGHIỆP
Hỏi :
Đối với nghiệp ác, thân tâm đã phạm, bây giờ mình biết là sai, mình có thể tu tập để chuyển nghiệp được không ?
Đáp :
Nghiệp có hai thứ : Bất định nghiệp và định nghiệp. 
- Nếu là bất định nghiệp thì có thể chuyển được. Như mình phải chịu cái quả là bị xe đụng chết. Nhưng nhờ tu hành, mình có thể biến nó thành nhẹ hơn như vẫn bị đụng xe mà chỉ gãy chân, nhẹ nữa thì trầy sướt, nhẹ nữa thì tai nạn không xảy ra.
- Nếu là định nghiệp thì hình tướng nghiệp báo không thể chuyển. Nhưng nhờ tu hành hiểu đạo, nên khi nạn tai xảy ra mình không buồn khổ như khi không biết đạo. Nếu tu hành mà có thể "Soi thấy 5 uẩn đều không", thì khổ não không còn. Vì thế, tuy là có nghiệp báo để trả, nhưng trả mà như ... không.
Nói tóm lại, bất định nghiệp hay định nghiệp gì, nếu mình chịu tu thì đều chuyển được. Tùy theo mức độ tu hành mà việc chuyển nghiệp có cạn hay sâu v.v... như đã phân tích ở trên.
Cần nhớ, một trong các việc tu hành là cần biết rõ thứ gì thuộc nhân ác thì không nên gây tạo nữa.
**************
SỐNG TRONG PHIỀN MUỘN
Hỏi:
Con đang sống trong phiền muộn, nếu xuất gia để quên phiền muồn thì con không đủ can đảm để làm. Vậy thực tại con phải sống như thế nào để bớt ưu phiền ?
Đáp:
Phật tử này rất thực tế, tâm có sao nói vậy. Đạo hữu đang phiền muộn, nếu có xuất gia cũng không chắc hết phiền muộn. Ở ngoài đời thì bất mãn phiền muộn chuyện ngoài đời, xuất gia vào chùa cũng có chuyện trong chùa khiến cho đạo hữu bất mãn phiền muộn.
Đừng hiểu lầm xuất gia là hết phiền muộn, mà phải ngay bây giờ buông hết phiền muộn, đó mới thật tu.
Nhìn nguời nghiền rượu, biết uống rượu là tốn tiền, sanh bệnh, mất trí tuệ, thiếu nhân cách. Bây giờ muốn hết nghiền rượu, nguời khác có làm thế mình được không? Chắc chắn là không được, mà chính bản thân nguời nghiền rượu phải gan dạ không uống rượu. Cũng như đạo hữu đang phiền muộn, đạo hữu phải gan dạ vất cái phiền muộn đó đi, bằng cách nhìn nguời, vật bên ngoài cũng như trong bản thân mình, thấy tất cả đều là tướng duyên hợp không thật, đã không thật thì có cái gì để phiền muộn?
Cái gì xảy đến đều thấy nó không thật, cười chơi với nó. Mai kia mình nhắm mắt nó cũng hoại có gì mà phiền muộn? Cứ như vậy mà quán rồi khéo xả bỏ thì hết phiền muộn.

**************
BỆNH VẪN TU ĐƯỢC
Hỏi:
Trong kinh Pháp Bảo Đàn Lục Tổ có nói: Chúng sanh bị ba chướng là nghiệp chướng, báo chướng, phiền não chướng. Khi  nào tâm thanh tịnh thì ba chướng mới hết. Thân tứ đại này tuy rằng giả tạm nhưng bị bệnh (báo chướng) thì khó tu. Vậy làm sao thân bệnh mà tu vẫn đựợc.
Đáp:
Với tâm phàm phu yếu đuối, khi thân bệnh là một cái chướng lớn khó tu, thông thường ai cũng vậy. Nhưng với nguời gan dạ thì chính khi đau là cơ hội dễ tu nhất. Đừng nghĩ ngồi thiền, tụng kinh, niệm Phật mới gọi là tu.
Tu là dùng trí thấy các pháp đúng như thật. Lúc trí huệ hằng tỉnh giác thấy đúng lẽ thật đó là tu. Bây giờ quí vị bệnh, không ngồi thiền được, không tụng kinh được, quí vị quán thấy rõ thân này là tướng hư dối sắp bại hoại. Luôn luôn thấy rõ thân này là tướng hư dối sắp bại hoại, không quí trọng nó, đau không sợ hãi đó là tu rồi.
Đâu đợi phải ngồi thiền tụng kinh mới tu! Vì quí vị thấy mình ngồi thiền không được, tụng kinh không được, nên cho rằng bệnh làm chướng ngại không tu được, không phải như vậy. 
Dù tụng kinh hay không tụng kinh, ngồi thiền hay không ngồi thiền, tâm hằng tỉnh hằng giác, nằm mà vẫn thấy rõ thân này là tướng hư dối sắp bại hoại, không ngờ vực không sợ sệt, lúc nào cũng thấy như thế, đó là đang tu. Như vậy đau đâu có gì chướng ?

30/07/2014

HẠNH HIẾU CỦA NGƯỜI XUẤT GIA


Hôm nay nhân ngày Đại lễ Vu lan tức là ngày báo hiếu, quí Phật tử tụ hội về chùa dự lễ, đồng thời nghe nhắc nhở đến công ơn sinh thành dưỡng dục nặng nhọc của cha mẹ. Công ơn đó đối với chúng ta rất đậm đà, thắm thiết. Ai không biết, không nhớ đến công ơn ấy thì không giá trị gì trong cuộc sống làm người nữa. Tại sao chúng ta phải biết ơn và đền ơn? Bởi vì biết ơn và đền ơn là nền tảng đạo đức của con người mà cũng là của đạo Phật.
Ở đây tôi nói không chỉ Phật tử tại gia mới hiếu thảo cha mẹ, mà kể cả hàng xuất gia cũng vậy. Trường hợp không có anh em nuôi dưỡng cha mẹ, thì người xuất gia phải lo phụng dưỡng song thân. Trong Ngũ phần luật kể lại: thời Phật còn tại thế có thầy Tỳ kheo tên là Tất-lan-già-bà-sa, Ngài chứng quả A la hán rồi, mà cha mẹ già không có anh em phụng dưỡng. Ngài đi khất thực được, cơm được áo nhưng không dám phụng dưỡng cha mẹ, sợ tội. Một hôm Ngài thưa với Phật:
-Bạch Thế Tôn, con còn cha mẹ già không có người phụng dưỡng, giờ đây con khất thực được cơm, được áo muốn dâng cho cha mẹ, không biết có tội chăng. Thế tôn có cho phép không?
Phật nghe vậy, liền triệu tập hết chúng Tăng lại, rồi dạy:
-Nếu người xuất gia có cha mẹ già không ai phụng dưỡng. Phật cho phép đi khất thực được đem về cúng dường cho cha mẹ, đó là điều hợp pháp.
Từ đó về sau ngài Tất-lan-già-bà-sa y theo đó mà phụng dưỡng cha mẹ. Chúng ta thấy chẳng những Phật không ngăn cấm mà còn rất trọng hiếu thảo. Đến chư vị Tổ sư ở Trung Hoa cũng như Việt Nam, các Ngài vẫn đặt hiếu thảo lên trên.
Ở Trung hoa, Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn có mẹ mà không có cha. Khi ngộ đạo nơi Tứ Tổ Đạo Tín rồi, Ngài lãnh y bát lập chùa Huỳnh Mai giáo hóa độ sanh. Khi gặp Lục Tổ xứng đáng là người được truyền y bát, Ngài liền giao hết Chùa  và chúng còn lại sắp xếp cho chư Tăng quản lý, Ngài về cất am tu và nuôi mẹ. Một vị Tổ mà còn nuôi mẹ, huống là người thường. 
Ngài Trần Tôn Túc ngộ đạo ở Tổ Hoàng Bá rồi, mẹ già không ai nuôi, Ngài về cất một am tranh, kết cỏ đan giày bán, lầy tiền nuôi mẹ. Vì vậy, người đương thời gọi Ngài là Trần Bồ Hài. “Bồ” là đan, “Hài” là giầy dép. Quí vị thấy, người tu đâu phải là bỏ cha, quên mẹ. Đó là hai vị ở Trung Hoa, đến Việt Nam có câu chuyện Hòa thượng Cua (Cáy) ở ngoài Bắc.
Ngài mất cha sớm, mẹ phải tảo tần mua gánh bán bưng nuôi con. Hôm đó, trước khi đi bán, bà dặn: “Mẹ có mua sẵn một giỏ cua để dưới, mẹ ra chợ bán, con ở nhà lấy cua giã để nấu canh chua, trưa về hai mẹ con mình ăn”. Ngài gật đầu vâng lời. Ở nhà nấu cơm xong, Ngài chạy ra ao xách giỏ cua lên, giở nắp thấy từ miệng cua sôi bọt nước. Ngài nói cua khóc, nước mắt tuôn từng hột, từng hột. Thương quá, Ngài không biết làm sao, nếu không lột đâm thì trưa lấy gì nấu canh. Mẹ sẽ rầy. Còn lột đâm thì thấy nó khóc đau lòng quá, không nỡ. Cuối cùng, Ngài thả hết cua xuống ao.
Trưa bà mẹ về, đi bán đường xa khô cổ, đói bụng. Lên mâm cơm không thấy canh cua, mẹ Ngài hỏi: “Sao mẹ dặn con nấu canh chua cua mà không thấy?” Ngài kể: “Con giở nắp cua thấy cua khóc, con thương quá nên thả hết rồi”. Bà đói bụng lại đang mệt nên nổi tức lên, bỏ đủa xuống lấy roi mây quất. Ngài hoảng sợ tuôn chạy. Bà rượt theo một hồi mệt quá nên trở lại, không ngờ con trai chạy tuốt luôn, không về nữa. Bà đau khổ đi tìm con nhưng không biết ở đâu mà tìm. Ngang đó đứa con trai của bà mất tích luôn. Năm ấy Ngài mười hai tuổi.
Bà trở về trong cô quạnh, cất quán bán trà sống lây lất qua ngày, mãi cho đến lúc hơn sáu mươi tuổi. Một hôm có vị Tăng tới hỏi thăm:
-Bà năm nay bao nhiêu tuổi?
Bà đáp:
-Năm nay tôi sáu mươi mấy tuổi rồi.
-Bà không có con cái gì sao mà ở một mình, buôn bán cực khổ vậy?
Bà nói:
-Hồi đó tôi có một đứa con, nó bỏ đi hồi mười hai tuổi tới bây giờ, tôi không còn ai nữa hết.
Ông thầy hỏi:
-Bây giờ bà muốn về chùa không?
Bà đáp:
-Bây giờ tôi già rồi, về chùa đâu có làm công quả gì được, ăn cơm chùa tổn phước, tôi không dám.
Ông thầy nói:
-Không sao, ở chùa có nhiều việc. Người mạnh thì làm việc nặng, người yếu thì làm việc nhẹ. Nếu bà đồng ý về chùa, chúng tôi sẽ sắp cho bà làm những việc nhẹ để tu. Như vậy ăn cơm chùa không có tội.
Thấy thầy tha thiết quá, bà cũng nghĩ tuổi già hẩm hiu không ai nuôi, nếu ngã bệnh thì sao, cho nên bà đồng ý.
Ông thầy dặn:
-Bà cứ ở yên đây. Tôi về chùa ít hôm sắp đặt xong sẽ cho người tới rước bà.
Về đến chùa, ngài họp chúng lại kể chuyện của bà lão đáng thương kia và hỏi toàn chúng:
-Tôi muốn rước bà lão ấy về chùa công quả, nhờ Tam bảo từ bi che chở cho bà lúc tuổi già, vậy trong chúng Tăng có bằng lòng không?
Thật ra lúc đó vị Tăng là một Thiền sư đã ngộ đạo, là trụ trì và là thầy của toàn chúng, uy tín rất vững vàng, nên cả chúng đều quý kính, tất cả đều vâng theo ý Ngài.
Vài hôm sau, bà được rước về ở trong một am tranh gần chùa. Mỗi sáng ngài đích thân ra trước sân, vẽ một vòng tròn trên cỏ rồi bảo:  “Bửa nay bà làm bao nhiêu cỏ đây, nhớ vừa nhổ cỏ vừa niệm Phật nha”. Khuyên như vậy bà già chịu, mỗi bửa vừa nhổ cỏ vừa tu.
Lúc đầu bà còn khỏe, ngài khoanh vòng tròn lớn, lần lần bà yếu thì vòng tròn cũng nhỏ dần. Hôm đó bà đau, nhưng thầy trụ trì có việc phải đi khỏi.
Thầy biết bà không thể nào qua được cơn bệnh nầy, nên dặn người trong chùa: “Bà lão nếu có trăm tuổi mà tôi không về kịp, quý thầy liệm để trong quan tài nhưng đừng đậy nắp, đợi tôi về sẽ đậy”. Quả thật hai ba hôm sau bà mất. Chư Tăng y lời Ngài dặn.
Về đến Ngài nhìn kỹ mặt bà rồi mới đậy nắp áo quan lại. Đậy nắp xong, Ngài bèn cầm gậy, đứng trước quan tài gõ ba cái, nói: “Nếu như lời Phật dạy không ngoa, một người con tu hành đắc đạo, cha mẹ được sanh thiên. Điều đó nếu đúng sự thật thì xin cho áo quan nầy bay lên hư không để chứng minh”.
Ngài vừa dứt lời, bỗng thấy áo quan lần lần bay lên hư không, rồi từ từ hạ xuống. Bấy giờ đại chúng mới biết bà là mẹ của Ngài. Vị trụ trì ấy chính là cậu con trai bỏ nhà hồi xưa. Vì vậy, kể từ đó người ta gọi Ngài là Hòa thượng Cua. Nhưng pháp hiệu thật của Ngài là Thiền sư Tông Diễn. Hiện giờ bài vị còn thờ ở chùa Hòe Nhai (Hà Nội). Đó là một Thiền sư nổi tiếng về hiếu và đức độ vậy.
Quí vị thấy người xưa tuy đi tu nhưng đâu có bỏ cha mẹ. Tu rồi mà vẫn thương vẫn quí mẹ. Sau nầy ở chỗ am bà ở, Ngài cất một cái gọi là dưỡng mẫu đường, tức nhà nuôi mẹ. Và ở quán bà bán trà, Ngài cất một ngôi chùa tên là Trà Lai tự, tức chùa bán trà cho khách vãng lai, để ghi nhớ kỷ niệm của mẹ. Một Thiền sư mà thương mẹ, lo cho mẹ chu tất khéo léo như vậy, thật đáng cho chúng ta kính phục và noi theo. Ngài lo mà không cho Tăng chúng và bà biết tung tích của bà, vì sợ mẹ ỷ lại  rồi khinh thường chúng Tăng. Cho nên dùng phương tiện độ mẹ mà không nói mình là con, luôn gần gủi chăm sóc mà vẫn giứ được đức hạnh cho mẹ. Thật là khéo léo.
Đó là một Hòa thượng ở miền Bắc, kế đến tôi kể về một Hòa thượng ở miền Trung.
Thiền sư Nhất Định, trụ trì chùa Giác Hoàng ở Huế, được nhà vua phong làm Tăng cang, tương tự như Tăng thống bây giờ, là một vị lãnh đạo tối cao trong Tăng chúng. Khi thấy mình được ở chùa yên ấm, đủ mọi tiện nghi, mà mẹ già lại không có người nuôi, nên Ngài từ chức Tăng cang, xin về núi Dương Xuân Thượng cất An Dưỡng am vừa tu vừa nuôi mẹ. Nhà vua thấy ngài có hiếu nên chuẩn y nguyện vọng để ngài được trả hiếu với mẹ.
Ban đầu mẹ Ngài cũng ăn chay, nhưng bệnh tình ngày càng nặng. Thầy thuốc xem bệnh bảo nếu bà ăn chay thì trị bệnh không lành, yêu cầu phải cho bà ăn mặn. Thương mẹ, Ngài đích thân xuống chợ Đông Ba mua cá về kho cho mẹ ăn. Nhiều Phật tử thấy bất bình, gièm pha Hòa thượng mà còn đi mua cá. Nhưng Ngài nhất định không nhờ ai, vẫn thản nhiên lo cho mẹ. Ngài hết lòng hiếu thảo với mẹ, mặc cho người chê không giữ giới luật trong sạch, thầy tu mà ăn mặn… Ai nói gì cũng mặc, miễn làm tròn bổn phận của một người con hiếu thảo là Ngài vui rồi. Nhờ thế thời gian sau mẹ ngài bớt bệnh rồi mới mất.
Ngài tịch rồi, sau nầy có một vị hoạn quan trong triều đến An Dưỡng am cất một ngôi chùa để tu, vì vậy vua Tự Đức đặt tên cho ngôi chùa đó là chùa Từ Hiếu, bây giờ vẫn còn ở Huế trên núi Dương Xuân Thượng. Đây là phát xuất từ gốc câu chuyện hiếu thảo của Thiền sư Nhất Định.
Chúng ta thấy từ Phật cho đến các vị Tổ cũng đều dạy người xuất gia phải hiếu thảo, phụng dưỡng cha mẹ. Đến Việt Nam chúng ta, những tấm gương hiếu thảo sáng ngời vẫn còn đó. Người đi tu không dám quên ơn cha mẹ, huống nữa quí Phật tử còn cư sĩ tại gia mà lại không nhớ, không lo đền đáp công ơn cha mẹ, đó là một thiếu sót vô cùng lớn lao. Cho nên chúng ta biết đạo biết tu, thì đối với công ơn cha mẹ là công ơn lớn nhất trên đời, chúng ta phải ráng lo đền đáp. Nếu cha mẹ đã quá cố, chúng ta cũng tìm mọi cách để cha mẹ được thân sau tốt lành.
Nhân ngày lễ Vu lan nầy, tôi nhắc nhở quí vị xuất gia cũng như tại gia làm sao trong đời của mình, mình phải là một con người xứng đáng, không tủi hổ, là người có đạo đức để cho đàn con, đàn cháu noi theo. Mong rằng mỗi một lần Vu lan về là mỗi một lần chúng ta càng nhớ, càng thương, càng quí kính cha mẹ thắm thiết, đó mới thật là người Phật tử chân chánh.

***

Hòa thượng. THÍCH THANH TỪ