Bồ-đề Đạt-Ma - Trúc Thiên dịch
1969
CHƯƠNG THỨ NĂM: NGỘ TÍNH LUẬN
Phàm là đạo, phải lấy sự tịch
diệt làm thể, còn tu lấy sự lìa tướng làm tông.
Nên kinh nói: Tịch
diệt là Bồ đề.
Diệt hết hình tướng đó:
Là Phật, nghĩa là giác.
Người có giác tâm, được đạo Bồ
đề, nên gọi là Phật.
Kinh nói: lìa tất cả mọi hình
tướng tức gọi là chư Phật.
Nên biết tướng là có tướng mà không
tướng, không thể thấy bằng mắt, chỉ biết được bằng trí.
Ai nghe pháp ấy chợt
phát lòng tin, là người ấy đang nương pháp đại thừa siêu
lên ba cõi.
*
Ba cõi ấy là tham, sân, si vậy.
Chuyển ngược tham, sân, si làm giới, định,
huệ tức gọi siêu lên ba cõi.
Tuy nhiên, tham, sân, si chẳng có thực
tính, chỉ bằng vào chúng sinh mà đặt tên. Nếu có thể soi
ngược trở lại thì sẽ thấy rõ:
Tính của tham, sân, si tức là tính
Phật.
Ngoài tham, sân, si tuyệt
nhiên không có tính Phật nào khác.
Kinh nói: Từ vô thủy đến nay, chư
Phật luôn luôn cư xử ở nơi ba độc, nuôi lớn trong bạch
pháp, mà thành tựu ở quả Thế tôn.
Ba độc ấy là
tham, sân,si vậy.
Nói đại thừa tối thượng
thừa là nói chổ sở hành của hàng Bồ Tát.
Không gì là chẳng thừa, mà cũng không gì
gọi được là thừa, suốt ngày thừa mà chưa hề thừa, đó là Phật thừa.
Kinh nói: Lấy vô thừa làm
Phật thừa vậy.
*
Nếu người biết sáu căn vốn không
thực, năm uẩn chỉ giả danh, không thể dựa vào đâu cầu
cạnh gì được, người ấy quả thông suốt lời Phật.
Kinh nói: Hang ổ của năm uẩn là
tên gọi của thiền viện.
Chiếu sáng bên trong mà mở thông suốt,
tức là cửa đại thừa.
Chẳng nhớ tưởng một pháp nào mới gọi
là thiền định.
Ví hiểu rõ lời ấy thì đứng, đi,
nằm, ngồi thảy đều thiền định cả.
*
Biết tâm vốn không, đó gọi là thấy
Phật.
Tại sao vậy?
Vì mười phương chư Phật đều nhân
vì vô tâm chẳng thấy ở tâm, đó là thấy Phật.
Xả tâm không nuối tiếc gọi là
đại bố thí.
Lìa hết động và định gọi là đại tọa
thiền.
Tại sao vậy?
Kẻ phàm mỗi mỗi đều hướng về động.
Hàng tiểu thừa mỗi mỗi đều hướng
về định.
Vượt lên cái lầm hiếu
động của phàm phu và hiếu định ngồi
thiền của tiểu thừa mới gọi là đại tọa thiền.
Nếu có được sức lãnh hội ấy thì
chẳng cần lìa mà tướng tướng tự cởi bỏ, chẳng cần trị mà bịnh bịnh tự trừ, ấy
đều là định lực của phép đại thiền.
*
Phàm đem tâm cầu pháp, ấy là mê.
Chẳng đem tâm cầu pháp, ấy là
ngộ.
Chẳng mắc vào chữ nghĩa gọi
là giải thoát.
Chẳng nhiễm sáu trần gọi
là hộ pháp.
Xuất lìa sinh tử gọi là xuất
gia.
Chẳng chịu hậu hữu gọi là được
đạo.
Chẳng nổi vọng tưởng gọi
là Niết bàn.
Chẳng đối xử với vô minh gọi
là trí huệ lớn.
Chỗ không phiền não gọi
là Bát Niết bàn.
Chỗ không tướng gọi là bờ
bên kia.
*
Khi mê thì có bờ bên này.
Khi ngộ thì không bờ bên này.
Tại sao vậy?
- Vì kẻ phàm phu mỗi mỗi
đều xu hướng trụ ở bên này.
- Vì giác được phép tối thượng
thừa thì tâm chẳng trụ bên này cũng chẳng trụ bên kia, nên lìa được cả hai
bờ bên này và bên kia.
Nếu thấy bờ bên kia khác với bờ
này, người ấy tâm chưa có thiền định.
*
Phiền não gọi là chúng sinh.
Tỏ ngộ gọi là Bồ đề.
Đó chẳng phải giống nhau mà cũng chẳng phải
khác nhau, chỉ vì mê ngộ mà cách biệt nhau.
*
Khi mê thì thấy có thế gian cần
thoát ra.
Khi ngộ thì không có thế gian nào
để thoát ra cả.
*
Trong pháp bình đẳng chẳng thấy
phàm khác với thánh.
Kinh nói: Pháp bình
đẳng ấy phàm phu không thể vào, bậc thánh cũng không thể hành
được.
Pháp bình đẳng ấy chỉ có hàng Bồ
tát lớn và chư Phật Như lai mới hành được.
Nếu thấy sống khác với chết, động khác với
tịnh, đó gọi là chẳng bình đẳng.
Chẳng thấy phiền não khác
với Niết bàn, ấy gọi là bình đẳng.
Tại sao vậy?
Vì phiền não với Niết
bàn đều chung đồng một tính không vậy.
*
Do đó, hàng tiểu thừa vọng
dứt phiền não, vọng vào Niết bàn, nên trệ ở Niết bàn.
Hàng Bồ tát, trái lại biết
rõ tính không của phiền não, tức chẳng lìa bỏ cái
không, nên lúc nào cũng ở tại Niết bàn.
*
Phàm nói Niết bàn: Niết là không sinh,
bàn là không tử.
Lìa ngoài sinh tử gọi là Bát
Niết bàn.
Tâm không lại qua tức vào Niết
bàn.
Nên biết Niết bàn tức là tâm
không.
Chư Phật vào Niết bàn, tức vào cõi
không vọng tưởng.
Bồ tát vào đạo tràng, tức vào cõi
không phiền não.
*
Cõi vắng không ấy tức cõi không tham, sân,
si.
Tham là cõi dục.
Sân là cõi sắc.
Si là cõi vô sắc.
Nếu bỗng chốc thoắt sinh tâm, tức đi
vào ba cõi.
Bỗng chốc thoắt diệt tâm, tức ra
ngoài ba cõi. Mới hay ba cõi sinh diệt, muôn pháp có không đều
do một tâm.
*
Hễ nói một tâm tựa hồ như phá vào thế
giới vật chất vô tình của ngói cây gỗ đá.
Nếu biết tâm chỉ là một tiếng
gọi suông, không thực thể, tức biết tâm tự tịch ấy chẳng phải có mà
cũng chẳng phải không.
Tại sao vậy?
Vì phàm phu mỗi mỗi đều
có xu hướng sinh tâm nên gọi là "có".
Hàng tiểu thừa, mỗi mỗi đều có xu
hướng diệt tâm nên gọi là "không".
Hàng Bồ tát và Phật chưa từng sinh
tâm, chưa từng diệt tâm nên gọi là "chẳng phải có tâm, chẳng phải không
tâm".
Tâm chẳng có chẳng không gọi là trung
đạo.
Bởi vậy đem tâm học pháp
thì tâm pháp thảy đều mê.
Chẳng đem tâm học pháp
ắt tâm pháp thảy đều ngộ.
*
Phàm mê là mê ở ngộ.
Còn ngộ là ngộ ở mê.
Bậc chánh kiến hiểu tâm vốn
"không vô" tức vượt lên mê ngộ.
Không có mê ngộ mới gọi
là chính giác chính kiến.
*
Sắc không thể tự là sắc, do tâm nên có
sắc.
Tâm không thể tự là tâm, do sắc nên có
tâm.
Cho nên hai tướng tâm và sắc đều có sinh
diệt.
*
Nói "có" là do ở
"không".
Nói "không" là không do ở
"có".
Đó mới là thấy chân thực.
Phàm thấy thực thì không gì chẳng thấy mà
cũng không gì không chẳng thấy, thấy khắp mười phương vẫn là chưa
từng có thấy.
Tại sao vậy?
Vì không có gì để thấy, vì thấy cái không
thấy, vì thấy cái chẳng phải là thấy.
Cái thấy của kẻ phàm đều là vọng
tưởng.
Nếu tịch diệt không có thấy mới
là thấy thực.
*
Tâm và cảnh đối nhau, thấy phát sinh từ
thế đối đãi ấy.
Nếu trong chẳng khởi tâm thì
ngoài chẳng sinh cảnh.
Cho nên tâm và cảnh có lắng hết cả hai thì
mới gọi là chân kiến.
Và cái hiểu trong lúc ấy mới gọi
là chánh kiến.
*
Chẳng thấy một pháp mới gọi là được
đạo.
Chẳng hiểu một pháp mới gọi là hiểu
pháp.
Tại sao vậy?
Vì thấy cùng chẳng thấy, đều chẳng thấy.
Hiểu cùng chẳng hiểu, đều chẳng hiểu.
Thấy cái chẳng thấy, mới là thấy
thực.
Hiểu cái chẳng hiểu, mói là hiểu
thực.
... Phàm có cái hiểu đều là chẳng
hiểu.
Không có cái hiểu mới là thực hiểu.
Hiểu cùng chẳng hiểu đều chẳng phải
hiểu.
Kinh nói: chẳng xả trí huệ gọi
là ngu si.
Lấy tâm làm không thì hiểu cùng chẳng hiểu
đều là chân cả.
Chấp tâm là có thì hiểu cùng chẳng hiểu
đều là vọng cả.
*
Khi hiểu rồi thì pháp đuổi theo
người.
Khi chưa hiểu thì người đuổi
theopháp.
Nếu pháp đuổi theo người, pháp
hóa thành chẳng phải là pháp.
Nếu người đuổi theo pháp, thì pháp pháp đều
là vọng.
Nếu pháp đuổi theo người thì pháp pháp đều
là chân.
Cho nên bậc thánh:
- Cũng chẳng đem tâm cầu pháp.
- Cũng chẳng đem pháp cầu tâm.
- Cũng chẳng đem tâm cầu tâm.
- Cũng chẳng đem pháp cầu pháp.
Vì thế tâm chẳng sinh pháp, pháp chẳng
sinh tâm, tâm và pháp tịch cả hai nên lúc nào cũng ở trong
định.
*
Tâm của chúng sinh sinh ắt
pháp Phật diệt.
Tâm của chúng sinh diệt ắt pháp
Phật sinh.
Tâm sinh ắt chân pháp diệt.
Tâm diệt ắt chơn pháp sinh.
*
... Khi mê thì (thấy) có tội.
Khi hiểu thì (thấy) không có tội.
Tại sao vậy?
Vì tội tính vốn không.
Khi mê thì không tội thấy có tội.
Nếu hiểu rồi thì đối tội thấy không
tội.
Tại sao vậy?
Kinh nói: Muôn pháp đều không tự tính,
cứ dùng nó đừng ngờ, ngờ tức thành tội.
Tại sao vậy?
Vì tội do nghi ngờ sinh ra.
Nếu thấu suốt được lẽ ấy thì bao
nhiêu tội nghiệp đời trước đều tiêu tan hết.
*
Khi mê thì sáu thức, năm ấm đều
là pháp phiền não sinh tử.
Khi ngộ thì sáu thức, năm ấm đều
là pháp Niết bàn không sinh tử.
Người dốc lòng tu chớ cầu đạo ở
bên ngoài.
Tại sao vậy?
Vì tâm tức là đạo vậy.
*
Khi được tâm rồi, mới hay không
tâm nào có thể được.
Khi được đạo rồi, mới hay không đạo nào có
thể được.
Nếu nói đem tâm ra cầu được đạo, đó gọi
là tà kiến.
*
Khi mê thì Phật có pháp.
Ngộ rồi thì không Phật không
pháp.
Tại sao vậy?
Vì ngộ tức là Phật pháp.
*
... Khi mắt thấy sắc chẳng nhiễm nơi
sắc.
Khi tai nghe tiếng chẳng nhiễm nơi tiếng
đều là giải thoát.
Mắt không dính sắc thì mắt là cửa
thiền.
Tai không dính tiếng thì tai là cửa
thiền.
Nói gom lại hết, thấy được tính của sắc thì
lúc nào cũng là giải thoát.
Thấy tướng của sắc thì lúc nào cũng
là trói buộc.
Không vì phiền não mà trói
buộc, tức gọi giải thoát, ngoài ra không có sự giải
thoát nào khác.
Khéo quán xét sắc thì rõ ràng sắc
chẳng sinh nơi tâm, tâm chẳng sinh nơi sắc, tức sắc và tâm cả hai
đều thanh tịnh.
*
Khi không vọng tưởng thì một tâm
là một cõi Phật.
Khi có vọng tưởng thì một tâm là
một địa ngục.
Chúng sinh xây dựng vọng tưởng,
đem tâm sinh tâm, nên lúc nào cũng ở trong địa ngục
Nếu không đem tâm sinh tâm
thì tâm tâm quay về không, niệm niệm trở về tịnh,
vào đủ nước Phật, đến đủ nước Phật.
Nếu đem tâm sinh tâm thì tâm
tâm chẳng tịnh, niệm niệm hướng động, vào đủ địa ngục, qua
đủ địa ngục.
Nếu một thoáng tâm dấy lên, ắt
có thiện ác hai nghiệp, có thiên đường địa ngục.
Nếu một thoáng tâm không dấy lên,
ắt không thiện ác hai nghiệp, cũng không thiên đường địa
ngục.
*
... Thánh nhân vốn không
tâm, nên trong thì trống rỗng bao la, cùng với hư không chẳng
khác.
Khi tâm được Niết bàn tức thấy
chẳng có Niết bàn.
Tại sao vậy?
Vì tâm là Niết bàn.
Nếu ngoài tâm thấy có Niết bàn, đó là
mắc phải tà kiến.
*
Tất cả phiền não là hột
giống Như lai, vì nhân có phiền não mới có được trí
huệ.
Ta chỉ nên nói phiền não "sinh" Như
lai, không thể nói phiền não "là" Như lai.
Cho nên cần lấy thân tâm làm
ruộng rẫy, phiền não làm hột giống, trí huệ làm mầm mộng,
còn Như lai ví như lúa thóc.
*
Phật ở trong tâm như (trầm) hương ở trong
cây.
Phiền não nếu hết thì Phật theo tâm
ra.
Vỏ mục nếu hết thì hương theo cây ra.
Mới biết ngoài cây không có hương,
ngoài tâm không có Phật.
Nếy ngoài cây có hương, tức là hương ngoài
của cây khác.
Nếu ngoài tâm có Phật, tức là Phật ngoài
của ai khác.
Trong tâm có ba độc, đó gọi
là quốc độ dơ xấu.
Trong tâm không có ba độc,
đó gọi là quốc độ thanh tịnh.
Kinh nói: Nếu khiến cho quốc
độ đục vẩn dơ xấu cứ dẫy đầy lên, rồi chư Phật Thế Tôn sẽ từ
trong đó xuất hiện, điều ấy không đâu có được.
Cái vẩn đục dơ xấu tức là ba
độc vô minh.
Chư Phật Thế Tôn tức là tâm
thanh tịnh giác ngộ.
*
Tất cả sự nói năng, không gì chẳng là pháp
Phật.
Nếu tự mình không có lời nói thì
nói suốt ngày vẫn là đạo.
Nếu tự mình có lời nói thì im
suốt ngày vẫn chẳng là đạo.
Cho nên Như lai lời
nói không nương theo im lặng, im lặng không nương
theo lời nói, lời nói không lìa im lặng, nói và im đều ở
trong tam muội cả.
Nếu biết mà nói thì lời nói cũng
là giải thoát.
Nếu không biết mà im lặng thì im lặng cũng trói
buộc.
Cho nên nói mà lìa
tướng thì lời nói gọi là giải thoát.
Còn im lặng mà dính tướng
thì im lặng là trói buộc.
*
Lìa tâm không Phật.
Lìa Phật không tâm.
Cũng như lìa nước không băng.
Cũng như lìa băng không nước.
Nói "lìa tâm
không Phật" chẳng phải xa lìa tâm, mà khiến đừng chấp
vào hình tướng của tâm.
Kinh nói: "Không thấy tướng gọi là
thấy Phật", tức là lìa hình tướng của tâm.
"Lìa Phật không tâm" là nói
Phật từ tâm ra.Tâm có thể sinh Phật, nên Phật theo tâm sinh,
nhưng Phật chưa hề sinh ra tâm bao giờ.
*
Cũng như cá sinh ở nước, nhưng nước không
thể sinh ở cá.
Cho nên muốn xem cá, cá chưa thấy mà trước
hết đã thấy nước.
Cũng vậy, muốn xem Phật, Phật chưa thấy mà
trước hết đã thấy tâm.
Mới biết cá thấy rồi cần quên nước.
Phật thấy rồi cần quên tâm.
Nếu không quên được tâm thì sẽ vì tâm
mà lầm nữa.
Nếu không quên được nước thì sẽ vì
nước mà mê nữa.
*
Chúng sinh với Bồ đề cũng
như nước với băng.
Vì ba độc nung đốt nên gọi
là chúng sinh.
Vì ba giải thoát gội sạch nên gọi
là Bồ đề.
Vì đóng lạnh trong tiết đông nên gọi là
băng.
Vì tan chảy trong lửa hè nên gọi là
nước.
Nếu bỏ băng, thì không có nước nào
khác.
Nếu bỏ chúng sinh, thì không
có Bồ đề nào khác.
Đủ rõ tính của băng tức là tính của
nước.
Tính của nước tức là tính của băng.
Cũng vậy, tính của chúng sinh tức
là tính của Bồ đề.
Chúng sinh với Bồ đề đều
chung nhau một tính.
Cũng như hai vị thuốc ô đầu và phụ tử đều
chung một gốc, chỉ vì thời tiết mà khác nhau. Cũng vậy, mê
ngộ hai cảnh khác nhau nên có hai tên gọi chúng sinh và Bồ
đề.
Rắn hóa thành rồng vẫn không đổi
vảy.
Phàm biến thành thánh vẫn không
thay mặt.
Mới hay tâm ấy, trong trí
huệ chiếu; thân ấy, ngoài giới luật vững.
*
Chúng sinh độ Phật.
Phật độ chúng sinh.
Vậy gọi là bình đẳng.
Chúng sinh độ Phật: phiền
não nẩy sinh tỏ ngộ.
Phật độ chúng sinh: tỏ ngộ
phá trừ phiền não.
*
... Khi mê thì Phật độ chúng sinh.
Khi ngộ thì chúng sinh độ
Phật.
Tại sao vậy?
Vì Phật không thể tự thành, đều
do chúng sinh độ nên vậy.
*
Chư Phật lấy vô minh làm cha,
lấy tham ái làm mẹ.
Vô mình và tham ái đều là tên gọi
khác của chúng sinh.
Chúng sinh với vô minh cũng
như tay trái với tay mặt, rốt cùng chẳng khác nhau.
*
Khi mê thì ở bờ bên này.
Khi ngộ thì ở bờ bên kia.
Vì biết tâm vốn là không thì chẳng thấy
tướng, ắt lìa cả mê và ngộ.
Mê ngộ đã lìa, ắt không bờ bên
kia.
Như lai không ở bờ bên này, cũng không
ở bờ bên kia, không ở giữa dòng.
Ở giữa dòng: tiểu thừa.
Ở bờ bên này: phàm phu.
Ở bờ bên kia: Bồ tát.
*
Phật có ba thân: hóa
thân, báo thân và pháp thân.
Nếu chúng sinh luôn luôn làm theo
các căn lành:
tức hóa thân hiện.
Tu trí huệ: tức báo
thân hiện.
Giác vô vi: tức pháp
thân hiện.
Bay lướt mười phương, tùy
nghi cứu độ: Phật hoá thân.
Dứt mê hoặc, tu
thiện pháp, thành đạo trên núi Tuyết: Phật báo thân.
Không lời không nói, vắng
lặng thường trụ: Phật pháp thân.
Luận cho cùng lẽ thì một Phật còn chẳng có
huống là ba.
Nói ba thân là dựa theo căn trí
của con người có thượng, trung, hạ.
Người hạ trí bôn chôn vọng cầu phước, vọng
thấy hóa thân Phật.
Người trung trí vọng dứt phiền
não,vọng thấy báo thân Phật.
Người thượng trí vọng chứng Bồ
đề, vọng thấy pháp thân Phật.
Người thượng trí vắng lặng tròn
đầy soi chiếu bên trong, sáng tâm tức Phật, chẳng đợi tâm mà được Phật.
Thế mới biết ba thân cùng muôn
pháp đều không giữ được, không nói được, đó tức là tâm tự nhiên giải
thoát, thành tựu đạo lớn.
Kinh nói: "Phật chẳng nói pháp, chẳng
độ chúng sinh, chẳng chứng Bồ đề" là như vậy.
*
Chúng sinh tạo nghiệp.
Nghiệp tạo chúng sinh.
Đời nay tạo nghiệp.
Đời sau chịu quả báo, thuở
nào thoát khỏi.
Bậc chí nhân ở trong thân này, không tạo
các nghiệp, nên chẳng chịu báo.
Kinh nói: "Các nghiệp chẳng
tạo, tự nhiên được đạo" hà lời nói suông ru!
Người tạo ra nghiệp.
Nghiệp không thể tạo ra người.
Người nếu tạo nghiệp thì nghiệp với người
cùng sinh.
Người nếu không tạo nghiệp thì
nghiệp với người cùng diệt.
Mới biết nghiệp do người tạo, người do
nghiệp sinh.
Nếu người không tạo nghiệp, tức nghiệp
chẳng do người sinh.
Cũng như người có thể nâng đạo, đạo không
thể nâng người.
Kẻ phàm phu ngày nay luôn luôn
tạo nghiệp, lại nói bừa là không có quả báo, há chẳng khó nghe sao?
Luận cho cùng lẽ: tâm trước tạo, tâm sau
báo, đời nào thoát được?
Nếu tâm trước không tạo, tức
tâm sau không báo, vậy còn vọng thấy nghiệp báo được sao?
Kinh nói: Tuy tin cả Phật, lại nói
Phật khổ hạnh, đó là tà kiến.
Tuy tin cả Phật, lại nói Phật bị quả
báo đói ăn lúa ngựa, gươm vàng đâm chân, đó gọi là lòng tin chưa
trọn đủ, là nhất xiển đề.
*
Người hiểu pháp thánh gọi là thánh nhân.
Người hiểu pháp phàm gọi là phàm
phu.
Chỉ cần xả pháp phàm thành pháp thánh,
tức phàm phu thành thánh nhân.
Kẻ ngu trong đời chỉ mong cầu
thánh viễn vong, chẳng tin rằng chính tâm huệ giải là thánh nhân.
Kinh nói: Đối với người vô
trí đừng nói kinh này.
Kinh này là tâm, là pháp vậy.
Người vô trí không tin chính
tâm sáng tỏ được pháp này làm thành bậc thánh. Họ chỉ mảng cầu
xa, học ngoài, mến chuộng hình tượng Phật ngoài trời, cùng ánh
sáng hương sắc đủ thứ, toàn là việc làm đọa tà kiến, mất tâm,
cùn trí.
Kinh nói: Nếu thấy các tướng chẳng phải
tướng, tức thấy Như lai.
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy do
một tâm mà mống dậy.
Nếu trong lắng hết tâm tướng, giống
như hư không, tức tự trong thân tâm xa lìa hết tám vạn bốn
ngàn căn bịnh phiền não. Phàm phu đang sống sợ chết, vừa no
lo đói, thật quá đổi mê hoặc. Cho nên bậc chí nhân chẳng tính việc đã qua,
chẳng lo việc chưa đến, không xáo động việc bây giờ, niệm niệm trở
về đạo.Kệ đêm ngồi tịnh rằng:
Đoan trang CANH MỘT tịnh ngồi tu,
Tịch chiếu tinh thần tợ thái hư.
Muôn kiếp vốn không sinh với diệt,
Học đòi sinh diệt diệt gì ư?
Gẫm xem các pháp trò ma ảo,
Tính vốn là không uổng sức trừ!
Ví biết tâm mình không tướng mạo,
Lặng im chẳng động tự như như.
CANH HAI ngưng thần chuyển minh tịnh,
Chẳng tưởng chẳng nhớ nhân như tính.
Um tùm muôn tượng trở về không,
Chấp có chấp không lại vẫn bệnh.
Các pháp như nhiên chẳng có không,
Phàm phu tưởng quấy bàn tà chánh.
Ví biết gìn lòng lẽ "chẳng hai".
Ai nói tức phàm chẳng phải thánh.
CANH BA tâm tịnh sáng hư không,
Rộng khắp mười phương đâu chẳng thông.
Tường vách núi sông không ngăn ngại,
Bao la vũ trụ tự nơi trong.
Tính của càn không là Phật tính,
Cũng không bổn tính tức hàm dung.
Nào phải riêng đâu chư Phật được,
Hữu tình muôn loại vẫn chung đồng.
CANH TƯ không diệt cũng không sinh,
Rộng ví hư không pháp giới bình.
Không qua không lại không còn mất,
Chẳng có chẳng không chẳng ám minh.
Không vọng thấy gì: Như lai thấy,
Không gọi danh gì: chân Phật danh.
Ai có ngộ qua rồi mới hiểu,
Chúng sinh chưa rõ bởi thong manh.
CANH NĂM bát nhã chiếu vô
biên,
Chẳng khởi một niệm suốt tam thiên.
Muốn thấy chơn như bình đẳng tính,
Khéo chớ sinh tâm trước mắt tiền.
Lẽ ấy diệu huyền không lượng được,
Dụng công đuổi bắt thêm nhọc sức.
Nếu không một niệm tức chân cầu,
Còn có tâm cầu chưa tỉnh thức.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét