Tìm kiếm từ nhiều tài liệu.
Ảnh st để minh hoạ
Cứ mỗi dịp Tết đến, nhà tôi lại lên phố Hàng Đường, hàng An Thịnh để mua oản bột đại về cúng trên ban Phật. Oản nhà này khuôn đẹp, bột tốt, đóng chắc nên để được lâu, vì thế mà được nhiều người tin dùng. Nhắc đến oản bột, tôi chợt thấy may mắn vì nó vẫn còn tồn tại, chưa hoàn toàn biến mất như nhiều thứ khác đã trở thành ký ức xa xôi.
Có lẽ, phẩm oản ra đời và gắn liền với việc thờ cúng trong chùa chiền, đình, miếu mạo... của người Việt, trở thành một nét truyền thống lâu đời. Ở những vùng thị tứ, người ta thường làm oản bột cầu kỳ, trong khi ở nông thôn, các sãi thường đóng oản gạo hoặc oản xôi nếp trắng đơn giản hơn.
Oản bột là loại bánh làm từ bột nếp trộn với nước cốt đường, sau đó được đóng khuôn. Ngày xưa, trẻ con thường được bà chia cho vài cái oản lộc sau mỗi lần đi lễ chùa. Oản hồi ấy chỉ bé bằng hạt mít, bởi thời chiến tranh, lương thực khan hiếm. Rồi chiến tranh qua đi, đời sống văn hóa xã hội ngày càng hiện đại, oản bột dần lùi vào dĩ vãng. Nó khiến tôi không khỏi bồi hồi, muốn viết đôi dòng về phẩm oản, kẻo rồi một ngày sẽ chỉ còn là tiếc nuối.
Với những người trên 50 tuổi, ít ai là không biết đến oản bột, một sản phẩm dùng để cúng dường chư Phật, đã có mặt trong đời sống văn minh sông Hồng từ bao đời nay. Oản gắn liền với lễ hội chùa chiền, đền, đình, miếu, và trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống tâm linh của người Việt, đặc biệt là ở cố đô Thăng Long xưa.
Phẩm oản có hình dáng trụ tròn, giống như một tòa tháp nhỏ với chóp bằng, đơn sơ mà tinh tế. Hình dáng tròn trịa của oản không góc cạnh, như thể không có điểm bắt đầu hay kết thúc, gợi nhớ đến triết lý vô thường của đạo Phật. Có người lại cho rằng oản mang hình dáng của chiếc chuông, với màu trắng tinh khiết, ẩn chứa những triết lý sâu xa về tín ngưỡng. Dù người xưa không giải thích nhiều về ý nghĩa hình dáng của oản, nhưng bất cứ ai đi lễ chùa, đền, đình, miếu, hay cúng ông bà tổ tiên, đều không thể thiếu phẩm oản trong mâm lễ.
Lịch sử còn ghi lại nhiều câu chuyện thú vị về oản. Thời vua Trung Tông (thế kỷ 15), khi vua băng hà, quan Trịnh Kiểm muốn chọn người tài lên ngôi đã nhờ Nguyễn Bỉnh Khiêm (Trạng Trình) cố vấn. Trạng Trình chỉ nói vỏn vẹn một câu: “Giữ chùa thờ Phật thì… ăn oản”. Hiểu ý, Trịnh Kiểm liền tìm Lê Duy Bang, thuộc dòng dõi nhà Lê, lập làm vua, tức Lê Anh Tông. Nhờ lời tiên tri của Trạng Trình, quân đội nhà Lê đã nhiều lần đánh tan quân Mạc, giữ vững cơ đồ.
Lại có chuyện kể rằng, cụ Phan Kế Bính khi còn là nho sinh, có lần đi đò qua sông Tam Kỳ. Gặp mấy vị Hòa thượng vừa đi chay về, mang theo túi oản, biết cụ đói nên cho vài phẩm. Thấy oản ít quá, cụ từ chối. Các vị Hòa thượng bèn đố cụ làm thơ về chủ đề nhà sư và học trò đi chung thuyền, nếu hay sẽ tặng hết túi oản. Phan Kế Bính liền ứng khẩu:
“Một chốc lên bờ đà tiễn biệt,
Người thì lên Phật, tớ sang ngang.”
Các vị Hòa thượng vui vẻ tặng hết oản, thậm chí còn cho thêm tiền và dặn dò: “Nếu sau này làm quan dẹp giặc, nhớ đừng làm hư hỏng chùa chiền.” Về sau, Phan Kế Bính luôn nhắc nhở quân sĩ phải giữ gìn chùa chiền và bảo vệ nhà sư.
Ca dao cũng có câu:
“Ba mươi – mùng một và rằm,
Ai muốn ăn oản thì năng lễ chùa.”
Hoặc câu tục ngữ: “Khư khư như ông từ giữ oản”, ám chỉ việc ông từ coi đền phải cẩn thận giữ oản, vì ban đêm chuột thường rình rập ăn mất.
Ngày xưa, trong các làng xã, mỗi dịp lễ hội, người ta thường phân công một chức sắc đóng oản dâng lễ cúng và phát cho cả làng. Thậm chí, có người vì trách nhiệm mà phải bán cả nhà để đóng oản cúng thần hoàng làng. Ở làng Yên Lãng (nay là phường Láng, Q. Cầu Giấy, Hà Nội), mỗi dịp lễ hội tháng 3 và tháng 4, chủ lễ phải chuẩn bị 180 phẩm oản cùng hoa quả cúng chùa. Hay tại đình Mai Dịch, người dân còn tổ chức thi đóng oản trong lễ hội hàng năm.
Sau ngày tiếp quản Thủ đô (1954), phố Hàng Ngang, Hàng Đường, Hàng Buồm, Hàng Giầy vẫn còn rực rỡ sắc màu giấy bóng kính gói oản bột. Nay chỉ còn lại vài cửa hàng như An Thịnh vẫn lưu giữ nghề truyền thống, như một cách “giữ lửa” cho nét đẹp văn hóa xưa.
Phẩm oản ra đời và phát triển cùng với chùa chiền, đình, đền... ở Việt Nam, trở thành một nét văn hóa tín ngưỡng quan trọng, mang đậm bản sắc dân tộc. Có thể nói, oản bột là một di sản văn hóa ẩm thực độc đáo của Việt Nam, mà không phải quốc gia nào cũng có được.
Trải qua bao thăng trầm, phẩm oản không chỉ đơn thuần là một món đồ cúng, mà đã trở thành một phần của lịch sử, văn hóa và tâm linh người Việt. Mong rằng nét đẹp này sẽ không chỉ còn là ký ức, mà sẽ mãi được lưu giữ và trân quý trong tương lai.
Ảnh st để minh hoạ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét