Sưu tầm trên Net. Thấy hay đem về trưng.
Tết Nguyên đán là những ngày vui vẻ nhất
trong năm của người Việt Nam. Joseph Tissanier, người Pháp, sống ở Thăng Long
từ 1658-1663 đã dự năm cái Tết ở đây, tả rõ rằng, vào dịp này người Việt sửa
soạn mọi cái cho long trọng, từ nhà cửa đến đồ ăn, áo mặc. Túng cực đến đâu
cũng phải kiếm cho đủ tiền bạc tiêu dùng ba ngày Tết. Có những kẻ nghèo khổ,
phải đi ăn cắp vặt hoặc dùng võ lực cướp của người khác, hầu được sống dung
dung trong những ngày đầu Xuân [1]. Vì vậy trong những đêm gần Tết, nhiều nhà
phải thức đêm canh trộm.
Cuối năm, các chợ Tết hết sức nhộn nhịp, vì
mọi người giàu sang, nghèo hèn đều đi mua sắm. Quan cũng như dân đều lo may
quần áo mới, dọn dẹp nhà cửa cho khang trang, sửa sang võng cáng, tàn lọng, đắp
lại mồ mả, cột nhà tường vách treo đầy câu đối, tranh vẽ, vua chúa cũng cho
quét dọn lăng tẩm…[2]
Theo Bento Thiện viết năm 1659: “đến gần
ngày bết bua chúa ban lịch cho thiên hạ xem ngài” [3], trong đó những ngày nghỉ
Tết được ấn định rõ ràng. Thường bắt đầu nghỉ từ ngày 25, 26 tháng chạp, và có
thể kéo dài tới ngày 10 hay 15 tháng giêng. Những ngày đó, nếu có chiến tranh,
cũng tạm ngưng để ăn Tết. Từ ngày 25 tháng chạp, ấn dấu của vua chúa, quan
quyền đều được lau chùi sạch sẽ, cất vào hộp, không dùng tới; khí giới quân đội
cũng lau lọt sáng nhoáng để một nơi.
Chúng ta thử coi, năm 1659 thầy giảng Bento
Thiện đã viết về Tết Nguyên đán thế nào: “Thói nước Annam, đầu năm mùng một
tháng giêng gọi là ngày Tết. Thiên hạ đi lạy vua, đoạn lạy chúa, mới lạy ông bà
ông vãi, cha mẹ cùng kẻ cả bề trên. Quan quyền thì lạy vua chúa, thứ dân thì
lạy Bụt trước. Ăn tết ba ngày, mà một ngày trước mà xem ngày mùng hai, mùng ba,
ngày nào tốt, thì vua chúa đi đền giao, gọi là nhà thờ. Trời, hiệu Thiên Thượng
Đế Hoàng địa kì. Vua chúa đi lạy mà xin cho thiên hạ được mùa cùng dân an. Đến
mùng bảy mùng tám mới hết, cùng làm cỗ cho thiên hạ ăn mừơi ngày. Lại xem ngày
nào tốt, mới mở ấy ra cho thiên hạ đi chầu cùng làm việc quan, cùng hỏi kiện
mọi việc; lại làm như trước mới khai quốc, thiên hạ vào chầu vua. Từ ấy mới có
phiên đi chầu. Nội đài, ngoại hiến, phủ huyện, quan đăng nha môn, mới có kiện
cáo”. Chính Bento Thiện lại viết chữ quốc ngữ đoạn trên như sau: “Thóy nước
Annam, đầu Năm mùỏ một tháng giang gọi là ngài tết. Thien hạ đi lại bua, đoạn
lại chúa mớy lại oủ bà oủ bải cha mẹ củ kẻ cả bề tiên, quan quièn thì lại bua
chúa, thứ dân thì lại bụt tlưác, ăn tết ba ngài mà một ngài tlưác mà xem ngài
mùỏ hay mùỏ ba, ngài nào tốt, thì bua chúa đi đền giao, gọi là nhà thờ blờy
hiẹu thien thưạng đế hoàng địa kì. Bua chúa thì lạy mà xin cho thien hạ được
mùa củ dân an, đến mùỏ bải mùỏ tám mớy hết củ làm cỗ cho thien hạ ăn mươỳ ngài,
lại xem ngài nào tốt, mơý mở ấn ra cho thien hạ đi chầu củ làm vịec quan, củ
hỏi kịen mọy vịec, lại làm như tlưác mớy khai cuác, thien hạ bào chầu bua,từ ấy
mớy có phien đi chầu, nộy đài ngoặy hién phủ huịen quan đảng (đăng?) nha môn,
mớy có kịen cáo”[4]
Mấy ngày cuối năm, một số người già cả
không dám ở nhà mình, nhưng phải đi trú trong đền chùa, được coi là chốn nương
thân an toàn nhất. Vì họ tin rằng, dịp này có một thứ “quỷ” tên là Thưang
(Thương) hay Voutuan (Vũ tuần) [5] chuyên đi bóp cổ sát hại những người già
nua, nam cũng như nữ. Do đó nhiều người giả phải lẩn tránh trong đền, chùa cả
ngày đêm không dám bước ra ngoài. Mãi đến lúc giao thừa họ mới dám về nhà, vì
nghĩ “quỷ” ác ấy đã đi khỏi. Bởi đấy dân chúng gọi ba ngày cuối năm là ba ngày
chết. Cuối năm nhiều người còn dùng vôi vẽ trước cổng ngõ, những hình vuông,
tròn, hay tam giác, nhất là hình con mèo, trong số các hình, thì hình tam giác
và con mèo làm cho ma quỷ sợ nhất. [6]
Tối ba mươi Tết mọi nhà đều dựng cây Nêu
trước cửa. Đó là một “cột” thường làm bằng tre, cao hơn nóc nhà một chút (nên
biết, ở thủ đô Thăng Long thế kỷ XVII, chỉ có nhà trệt, kể cả đền đài vua
chúa). Gần ngọn cây Nêu người ta cột một cái giỏ hay chiếc hộp thông nhiều lỗ,
bên trong đựng vàng mã. Vì theo Alexandre de Rhodes, dân chúng tin rằng, dẫu
ông bà cha mẹ đã chết, nhưng các ngài cũng cần tiêu xài, và nhất là để trả
những món nợ chưa xong khi còn sống. Theo phong tục Việt Nam thời đó, cứ cuối
năm mãn chạp, liệu sao tính sổ sách cho xong: ai còn nợ, cố gắng trả cho sạch;
nếu có tiền cho vay cũng phải đòi lại hết. Không ai muốn để giây dưa sang năm
mới. Mọi thứ nợ cũ phải thanh toán hoàn toàn, trừ trường hợp bất khả kháng. Bởi
lẽ, còn nợ sợ rằng, nếu đến ngày ba mươi Tết mà chưa trả, lỡ ra chính ngày mồng
Một chủ nợ đến nhà đòi, thì thật là xui xeo suốt cả năm. [7]
Theo tài liệu viết tay bằng chữ Quốc ngữ
của Thầy giảng Bentô Thiện năm 16559, mà chúng tôi đã nhắc đến ở trên, thì dân
chúng lại dựng cây Nêu vào sáng ngày mồng Một; điểm này có lẽ ông Thiện ghi
không đúng. Còn về ý nghĩa cây Nêu, ông Thiện lại trình bày khác. Theo ông, thì
tục truyền rằng Đức Phật và quỷ tranh giành đất nhau. Đức Phật nói cho quỷ hay,
hễ ngài trải áo cà sa tới đâu thì đất đó thuộc về ngài, còn lại là phần quỷ.
Vậy Đức Phật trải áo ngài ra khắp mặt đất, làm cho quỷ không có đất ở, đành
phải xuống biển. Nhưng cứ hết năm cũ, ma quỷ lại tranh đất với Đức Phật. Bởi
đấy, mọi người phải dựng cây Nêu từ sáng sớm ngày mồng Một, để quỷ biết rằng đó
là đất của Đức Phật đã trải áo cà sa tới; còn ai không dựng cây Nêu là đất của
quỷ. [8]
Đến nửa đêm giao thừa, trong vương phủ (phủ
chúa Trịnh) ba súng đại bác nổ vang báo hiệu bước sang năm mới. Theo Marini,
người Ý, sống ở Đàng Ngoài từ 1647-1658, thì chính lúc giao thừa mọi người đều
hội họp trong nhà và bó buộc phải mở cửa hầu đón tiếp tổ tiên về ăn Tết với con
cháu. Giường chiếu cũng đã dọn sạch sẽ, để tổ tiên nghỉ ngơi sau nhiều ngày
đàng mệt nhọc mới về tới nhà con cháu. Ngoài ra cũng đặt ngoài hiên nhà một
chậu nước sạch, một đôi giép hay guốc, và có khi hai cây mía nữa. Làm thế để
hồn tổ tiên trước khi vào nhà cũng rửa chân, đi guốc cho sạch, trước khi lên
giường; còn hai cây mía được coi như hai chiếc gậy giúp tổ tiên chống bước vào
nhà. Mọi người sau giờ giao thừa, đều tưởng tượng là tổ tiên đã vào nhà cách vô
hình [9]. Lúc đó gia trưởng nói mấy lời chúc mừng tổ tiên. Trên bàn thờ tổ,
khói hương nghi ngút. Gia trưởng cùng mọi người trong nhà làm lễ cùng vái, tạ
ơn tổ tiên, mời tổ tiên cùng chung vui với họ, và xin phù hộ cho con cháu năm
mới được bằng an, khỏe mạnh, làm ăn phát đạt. Liền đó trong gia đình mừng tuổi
nhau: con cái lạy cha mẹ, tôi tớ lạy chủ nhà, rồi cha mẹ ban quà mừng tuổi cho
con cháu, tôi tớ.
Trong ba ngày tết, nhất là ngày mùng Một,
người ta đi chúc tuổi nhau; vào nhà nào cũng được mời ăn, nếu từ chối là bất
lịch sự. Ngày mồng Một Tết, khi vừa ra đường mà trước tiên lại gặp phải người
đàn bà, thì họ liền về nhà, chờ hai, ba giờ sau mới dám ra đường; trái lại họ
sẽ gặp xui. Nhưng nếu bước chân ra đường, trước tiên lại gặp được một người đàn
ông, thì thật hên. [10]
Đi Tết ai, thường cũng tết thêm mấy bánh
pháo to nhỏ tuỳ theo cấp bậc, địa vị; vừa xướng Tết xong, người ta liền đốt
pháo cho ran nhà, cho tà ma bỏ chạy, để hạnh phúc tràn tới. Người dưới phải đem
đồ, hoặc cho người đại diện đi tết người trên. Con cháu phải tết ông bà, cha
mẹ, chú bác; trò phải tết thầy… Các quan cấp dưới cũng phải gửi đồ tết quan
trên. Vì vậy nhà các đại quan tràn ngập đồ tết. Thường thường các vị đó lại đem
tặng bạn bè, hoặc cho quân lính, kẻ hầu hạ, để mọi người được hưởng lộc. Tất cả
các quan lại không buộc dâng đồ Tết vua chúa.
Đồ tết của người dưới đối với người trên
hầu hết là thực phẩm: gạo, heo, gà, vịt, cau, đường, trái cây, bánh, mứt… Nếu
là quân lính, sẽ họp nhau cùng tết viên quan chỉ huy trực tiếp. Họ mang đồ Tết
đến nhà quan bằng một nghi thức trang trọng: đi đầu là cai đội (chỉ huy từ 2
đến 6 thuyền, mỗi thuyền từ 30 đến 60 lính) rồi đến lính bưng một quả (hộp)
gạo), và khênh con heo mới giết đặt trên bàn, để trước mặt quan. Viên quan ngồi
giữa nhà thật oai nghiêm. Quân lính lạy quan sát đất ba lần. Quan nhận đồ Tết,
rồi bảo người hầu đem cất đi; sau đó ban quà mừng tuổi cho lính tương xứng với
đồ Tết. Còn quà mừng tuổi của vua chúa cho các quan là một bộ phẩm phục, đặt
trong quả (hộp) áo sơn son vẽ rồng, cùng một mẫu. Vua chúa sai người bưng quả
áo đến nhà viên quan, đi theo có lính che lọng quà mừng tuổi. Việc che lọng
trên không có ý tránh mưa nắng, nhưng chỉ là tỏ sự cung kính món quà vua chúa
ban.
Ba ngày cuối năm, bốn mươi đại quan thuộc
triều đình và vương phủ, đi nhận lời tuyên thệ trung tín của các quan văn võ,
và có khi cả gia đình họ nữa. Đó là lời thề trung thành với vua chúa; nếu nhận
thấy điều gì có thể nguy hại cho vua chúa hoặc cho quốc gia, họ phải đi tố cáo.
Đấy là lễ tuyên thệ tại thủ đô Thăng Long. Còn tại các Xứ, thì quan Trấn thủ,
Đốc trấn và Lưu thủ [11] đại diện cho vua chúa, nhận lời thề các quan trực
thuộc. Trong dịp này bất kể ai tố cáo ra một cuộc mưu phản, thế nào cũng được
thưởng. Phần thưởng không những tuỳ theo tính cách quan trọng vụ âm mưu, mà còn
theo chức tước người tố cáo. Nếu kẻ tố cáo là một viên quan, thì họ chỉ được
hưởng tuỳ theo ý muốn vua chúa, vì nhiệm vụ của họ là phải giữ trật tự an ninh
quốc gia; nếu là người dân thì được thuởng cho một phẩm hàm hoặc được thăng
quan chức; hơn nữa khi tố cáo được vụ phản loạn lớn, chúa Trịnh còn ban thêm
cho họ tới 500 lượng vàng hoặc 5.000 lượng bạc. Tuy nhiên dân chúng không chuộc
tiền thưởng bằng được thăng quan. [12]
Ngày ba mươi Tết, Tây định vương Trịnh Tạc
cùng quan quân theo hầu, ra khỏi vương phủ để đi tắm ở sông hoặc tại một chiếc
nhà gần đó, hầu thanh tẩy cuộc sống dĩ vãng, đón nhận đời sống mới trong năm
tới. [13]
Sáng ngày mồng một Tết, cũng như ngày một
và rằm mỗi tháng chúa Trịnh cùng các quan đến chầu vua Lê; dĩ nhiên ngày mồng
Một Tết buổi chầu được tổ chức long trọng hơn cả [14]. Nhưng khi Trịnh Tạc thế
vị cha lên cầm quyền (1657), ông lấn đoạt quyền hành vua Lê nhiều hơn, ông cũng
không đi chầu vua vào các ngày mồng một và rằm mỗi tháng. Hơn nữa, dường như từ
năm 1658 trở đi, Trịnh Tạc cũng không đích thân đi tết vua, mà chỉ đón vua đi
tế Nam giao. Tuy nhiên, ông cử một quan đại diện đến tết vua và chầu vua mỗi tháng
hai lần.
Sau khi tết vua, các quan trở lại tết chúa.
Theo Tissanier và Tavernier thì khung cảnh tết chúa long trọng hơn tết vua
nhiều. Khi các quan đi chầu hoặc tết vua chúa, phải mặc áo tím, đội mũ lục lăng
và phải lạy sát đất 4 lần [15]. Riêng nữ giới chỉ buộc lạy một lần theo kiểu
lạy của họ (ngồi mà lạy). Dịp này cũng như các dịp khác ai muốn dộng [16] xin
ân huệ gì, thì đội của lễ lên đầu, hoặc bưng cao ngang trán, tiến gần tới chúa
để nói. Nếu chúa nhận lời, ngài sẽ bảo người hầu cất của lễ đi; bằng không, thì
chúa cũng không nhận của lễ.
Đúng mồng ba Tết chúa Trịnh mới tiếp người
ngoại quốc đến dâng tuổi. Dịp tết Canh Tý, Vĩnh thọ năm thứ 3 (1660), phái đoàn
Trung Hoa chúc tuổi chúa Trịnh Tạc trước hết theo nghi lễ Trung Hoa, rồi lại
lạy chúa theo nghi lễ Việt Nam, phái đoàn Hòa Lan chỉ chào chúc chúa theo nghi
thức Hòa Lan…. Còn hai linh mục dòng Tên Onuphre Borgès (Thuỵ Sĩ) và Joseph
Tissanier (Pháp) lại lạy hoàn toàn theo kiểu Việt Nam. Tissanier thuật rằng,
ngày đó trước vương phủ đông nghẹt người không dễ gì chen chân được. Cũng may
hai ông vào được tới một sân lớn để lạy chúa. Các ông cũng mặc áo thụng tím,
đội mũ lục lăng, lạy chúa Trịnh Tạc bốn lạy sát đất trước mặt 4.000 người. Khi
Tây định vương Trịnh Tạc thấy hai linh mục, ông làm hiệu cho hai vị lạy vương
thái hậu (mẹ chúa) đang ngồi cạnh ông. Tức thì Borgès và Tissanier cũng lạy
vương thái hậu bốn lần. [17]
Chính ba ngày Tết, nhiều người đều kiêng
giữ không quét nhà, có nơi kiêng cả nấu ăn [18]. Tết là dịp nghỉ ngơi, xem ca
hát tuồng kịch, đánh bài bạc; cũng vì thế mà nhiều người sạt nghiệp vì Tết.
Nhìn lại một số khía cạnh lịch sử tết
nguyên đán thế kỷ XVII, chúng ta thấy ngay được những gì đã biến mất, những gì
còn lại ngày nay. Thật ra, tinh thần Tết nguyên đán xưa và nay cũng không khác
nhau, nó là dịp long trọng nhất để cấp dưới tỏ lòng biết ơn đặc biệt đối với
cấp trên: vua đại diện toàn dân “đi đền giao, gọi là nhà thờ Trời, hiệu Thiên
Thượng Đế Hoàng địa kỳ”, các quan lại tết vua chúa, con cháu tết cha mẹ ông bà,
gia đình xum họp lúc giao thừa đón tổ tiên, trò tết thầy v.v… Mối liên hệ chiều
ngang trong dịp này bị xẹp xuống, để làm nổi mối liên hệ chiều dọc trong xã hội
gia đình, quốc gia, và cả cái “xã hội” nhân thần, hay nói rộng hơn là sự giao
hòa giữa người với Trời Đất, tức tam tài Thiên Địa Nhân.
Về hình thức, Tết vẫn là những ngày lễ nghỉ
lâu dài, long trọng và vui vẻ nhất trong năm; vì thời đó, ngoài dịp đầu Xuân,
thường thường chỉ có lệ nghỉ ngày một và rằm mỗi tháng chứ không nghỉ ngày Chúa
nhật như hiện nay. Chúng tôi xin tạm ngừng ở đây mà không muốn đi sâu vào vấn
đề ý nghĩa các phong tục rườm rà Tết nguyên đán, hoặc những nguyên nhân xã hội
đã thay đổi nhiều hình thức và cơ cấu Tết nguyên đán ngày nay so với giữa thế
kỷ XVII.
Chú thích:
[1] “Ceux qui ne trouvent dans leur maison, ni
argent, ni habits, en vont chercher ailleurs par des larcins cachez, ou par la
force de leurs armes” (J.Tissanier, Relation du voyage… depuis la France
jusqu’au Royaume de Tunquin, Paris 1663, tr.265-266).
[2] J.P de Marini, Relation nouvelle et eurieuse des
Royaumes de Tunquin et de Lao, Paris 1666, tr.245-246.
[3] Archivum Romanum S.I, JS, 81 .f.257v
[4] Đỗ Quang Chính, Lịch sử chữ quốc ngữ 1620-1659,
Sài gòn 1972, tr.119-120, 145 – Archivum Romanum S.I, JS, 81 .f.257r
[5] Alexandre de Rhodes, Relazione del Tunchino,
Roma 1650, tr.108-109.
[6] J.B.Tavernier, Suite des voyages de Mr.Tavenier,
chevalier, baron d’Aubonne, IV Paris 1680, tr.94.
[7] Alexandre de Rhodes, Relazione del Tunchino,
Roma 1650, tr.109-110.
[8] Đỗ Quang Chính, sđd, tr.121, 146.
[9] Marini, Relation nouvelle, sđd, tr.251-252.
[10] J.B.Tavernier, Suite des voyages de
Mr.Tavenier, chevalier, baron d’Aubonne, IV Paris 1680, tr.95
[11] Cai trị Sơn Nam, Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương,
An Quảng do quan Trấn thủ; cai trị Thái Nguyên, Lạng Sơn, Nghệ An do quan Đốc
trấn; cai trị Thanh Hóa, Tuyên Quang, Hưng Hóa do quan Lưu thủ.
[12] J.B.Tavernier, sđd, tr.65.
[13] “… đến ngài ba mươy thì đức chúa đi giội gọy là
bỏ mọy sự cũ đi mà chịu mọy sự mớy” (coi Đỗ Quang Chính, sđd, tr.121, 146) –
“Le dernier jour de l’an, le Roy (chúa Trịnh Tạc) sort de son Palais auecque
son armée, pour s’aller lauer à la riuiere, ou dans quelque maison voisine”
(J.Tissanier sđd, tr.266).
[14] A.F.Cardim, Relation… Paris, 1646 tr.59.
[15] J.Tissanier, sđd, tr.260 – J.B.Tavernier, sđd,
tr.64.
[16] Dộng là tiếng để nói với chúa Trịnh; cũng như
khi nói với vua thì dùng tiếng tâu (tâu vua, dộng chúa); nói với đại quan dùng
tiếng bẩm; với quan nhỏ, tiếng trình; với vai trên, thưa. Như vậy trong thuật
ngữ xưng hô đẳng cấp xã hội, tiếng dộng ở cấp thứ hai.
[17] J.Tissanier, sđd, tr.270-272.
[18] Marini, Relation nouvelle, sđd, tr.253