Chùa Tây Phương là một trong những ngôi chùa cổ độc đáo nhất Việt Nam, với sự kết hợp giữa kiến trúc truyền thống, các tác phẩm nghệ thuật đặc sắc và cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp.
Chùa Tây Phương (tên chữ là Sùng Phúc tự 崇福寺) là một ngôi chùa ở trên đồi Câu Lâu ở thôn Yên, xã Thạch
Xá, huyện Thạch Thất, thành phố Hà
Nội.
Nằm trên núi Câu Lâu ở thôn Yên, xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội, chùa Tây Phương (tên chữ là Sùng Phúc tự) là một ngôi chùa cổ nổi tiếng với những nét đặc sắc trong kiến trúc và nghệ thuật.
Theo một số sử liệu, chùa được thành lập từ thế kỷ 6-7 nhưng đã trải qua nhiều lần trùng tu lớn trong lịch sử. Năm 1794, dưới thời nhà Tây Sơn, chùa lại được đại tu hoàn toàn và hình dáng kiến trúc còn để lại như ngày nay.
Quần thể kiến trúc của chùa Tây Phương bắt đầu từ chân núi Câu Lâu, với công trình đầu tiên là Tam quan hạ.
Từ Tam quan hạ có 237 bậc thang lát đá ong dẫn đến đỉnh núi.
Cuối các bậc đá ong là Tam quan thượng.
Sau Tam quan thượng, khuôn viên chùa hiện ra với không gian thoáng đãng, rợp bóng cây xanh.
Chùa Chính là hạng mục trung tâm của chùa Tây Phương, có kết cấu kiến trúc chữ Công, bao gồm các tòa Tiền đường, Trung đường và Thượng điện, còn gọi là chùa Hạ, chùa Trung và chùa Thượng.
Mỗi tòa nhà có hai tầng mái kiểu chồng diêm, tường xây toàn bằng gạch Bát Tràng nung đỏ, để trần mộc mạc, điểm những cửa sổ tròn với biểu tượng sắc và không. Các cột gỗ đều kê trên đá tảng xanh, trong khắc hình cánh sen.
Mái lợp có hai lớp ngói: Mái trên có múi in nổi hình lá đề, lớp dưới là ngói lót, còn gọi là ngói chiếu, hình vuông sơn ngũ sắc như màu áo cà sa xếp trên những hàng rui gỗ làm thành ô vuông vắn đều đặn.
Xung quanh diềm mái của ba tòa nhà đều chạm trổ tinh tế theo hình lá triện cuốn.
Trên mái gắn nhiều linh vật bằng đất nung, các đầu đao mái cũng bằng đất nung đường nét nổi lên hình hoa, lá, rồng phượng giàu sức khái quát và khả năng truyền cảm.
Các tòa nhà được ngăn cách bởi khoảng sân trời thoáng đãng.
Bàn thờ trong chùa Hạ.
Bàn thờ trong chùa Trung.
Bàn thờ trong chùa Thượng.
Ngoài chùa Chính, trong khuôn viên chùa còn các công trình khác như nhà Tổ, nhà Mẫu, nhà Khách và một số am thờ nhỏ…
Chùa Tây Phương là nơi tập trung những kiệt tác hiếm có của nghệ thuật điêu khắc tôn giáo bao gồm chạm trổ, phù điêu và tạc tượng. Khắp chùa chỗ nào có gỗ là có chạm trổ.
Các đầu bẩy, các bức cổn, xà nách, ván long… đều có chạm trổ đề tài trang trí quen thuộc của dân tộc Việt: hình lá dâu, lá đề, hoa sen, hoa cúc, rồng, phượng, hổ phù… rất tinh xảo được tạo ra dưới bàn tay thợ tài hoa của các nghệ nhân mộc xứ Đoài.
Trong chùa có 64 pho tượng cổ cùng với các phù điêu có mặt tại mọi nơi. Các tượng tạc bằng gỗ mít được sơn son thếp vàng.
Nhiều pho được tạc cao hơn người thật như 8 pho tượng Kim Cương và Hộ pháp, cao chừng 3 m, trang nghiêm phúc hậu.
Đặc biệt, bộ tượng “18 vị La hán chùa Tây Phương” được coi là tác phẩm kinh điển của nền nghệ thuật cổ Việt Nam. Bộ tượng này gồm hai tượng đặt ở chùa Trung và 16 tượng ở chùa Thượng (>> Chùm ảnh: Vẻ đẹp huyền thoại của 18 vị La Hán chùa Tây Phương).
Các bức tượng được tạo hình với những dáng điệu, biểu cảm nét mặt vô cùng sinh động, là nguồn cảm hứng cho nhà thơ Huy Cận sáng tác những câu thơ lay động lòng người trong bài thơ “Các vị La Hán chùa Tây Phương”.
Quang cảnh nhìn từ sân chùa.
Trong
chùa có 64 pho tượng cùng với các phù điêu có mặt tại mọi nơi. Các tượng được
tạc bằng gỗ mít được sơn son thếp vàng. Nhiều
pho được tạc cao hơn người thật như 8 pho tượng Kim Cương và Hộ pháp,
cao chừng 3 m, trang nghiêm phúc hậu. Hệ thống tượng ở chùa Tây Phương gồm:
·
Bộ
tượng Tam Thế Phật với
ba pho tượng Phật: Quá khứ, Hiện tại, Vị lai (còn gọi là Tam thân:
Pháp thân, Ứng thân và Hóa thân) ngồi ở tư thế tọa thiền, y phục gập nếp đơn
giản phủ kín cơ thể, được coi là có niên đại đầu thế kỷ 17.
·
Bộ
tượng Di-đà Tam Tôn: gồm tượng đức Phật A-di-đà,
đứng hai bên là Quan Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát.
·
Tượng Tuyết Sơn miêu tả đức Phật Thích ca trong thời kỳ tu khổ hạnh: mỗi
ngày ăn một hạt kê, một hạt vừng, tự hành xác để vươn lên thế giới tinh thần
sáng láng. Tượng màu đen thẫm khoác áo cà sa mỏng, tay chân gầy khẳng khiu,
xương nổi lên trước ngực. Toàn bộ cơ thể chìm trong suy tưởng, mắt trũng sâu,
hướng về nội tâm.
·
Hai
bên tượng Tuyết Sơn có tượng A Nan và Ca Diếp đứng
hầu.
·
Tượng
đức Phật Di lặc tượng trưng cho vị Phật của thế giới cực lạc tương
lai. Người mập mạp, ngồi hơi ngả về phía sau, toàn thân toát ra sự thỏa mãn,
sung sướng.
·
Tượng Văn thù Bồ Tát: đứng chắp tay, chân đi đất, các
ngón chân bấm móng xuống mặt bệ.
·
Tượng Phổ Hiền Bồ Tát:
chắp tay trước ngực, khuôn mặt sáng rộng nổi lên trên tấm thân phủ đầy y phục.
·
Tượng Bát bộ Kim Cương, thể hiện trình độ rất cao về
nghệ thuật lắp ghép gỗ và cách bố cục, chuyển động của một thân thể mang giáp
trụ trong các thế võ.
·
Mười
sáu pho tượng Tổ với phong cách hiện thực: Đó là Ưu-ba-cầu-đa, Đê-đa-ca,
Di-trà-ca, Bà-tu-mật, Phật-đà Nan-đề, Phục-đa-mật-đa, Hiếp Tôn giả, Thương Na
Hòa Tu, Mã Minh, Ca-tỳ-ma-la, Long Thụ Tôn
giả, La-hầu-la-đa, Tăng-già Nan-đề, Già-gia-xá-đa, Cưu-ma-la-đa, Chà-dạ-đa.
Theo một danh sách tên các nhân vật được tạc tượng trong một tài liệu còn lưu
truyền ở chùa thì đây là tượng các vị tổ Ấn Độ trong
quan niệm của Thiền tông Trung
Quốc (xem thêm Nhị thập bát tổ).
Mười
sáu vị tổ người đứng kẻ ngồi, pho thì ngước mặt lên trời chỉ vào mây khói, pho
thì hững hờ với ngoại vật, tì cằm trên đầu gối nhếch môi cười một mình nửa tinh
nghịch nửa mỉa mai, có pho vẻ mặt hân hoan tươi tắn, khổ người đầy đặn tròn
trĩnh, pho khác có vẻ mặt đăm chiêu lạ thường, lại có pho như đang đắn đo phân
bua hay đang thì thầm trò chuyện cùng ai.
Tượng
La Hầu La đúng là chân dung một cụ già Việt Nam,
thân hình gầy gò, mặt dài, nhỏ, gò má cao, môi mỏng vừa phải. Chưa thấy pho
tượng nào diễn tả y phục một cách hiện thực mà lại đẹp đến như thế. Dáng điệu
một tay cầm gậy, một tay để trên gối rất thoải mái, đôi bàn tay trông thấy rõ
từng đốt xương bên trong. Những người thợ mộc của làng nghề mộc truyền
thống Chàng Sơn là tác giả của những kiệt tác tuyệt vời ấy của
nền mỹ thuật Việt Nam.
Chùa
Tây Phương đã là một công trình kiến trúc tôn giáo đặc sắc tiêu biểu cho mỹ
thuật Việt Nam thời Hậu Lê (thế kỷ 17-18).
Năm 1960, nhà thơ Huy Cận đến
thăm chùa, đã làm những câu thơ rất sống động và gợi cảm về hình tượng những
con người đắc đạo mà lòng vẫn trầm ngâm suy tưởng về những khổ đau quần quại
của chúng sinh.
Các
vị La Hán chùa Tây Phương Tôi đến thăm về lòng vấn vương. Há chẳng phải đây là
xứ Phật, Mà sao ai nấy mặt đau thương?
Đây
vị xương trần chân với tay Có chi thiêu đốt tấm thân gầy Trầm ngâm đau khổ sâu
vòm mắt Tự bấy ngồi y cho đến nay.
Có
vị mắt giương, mày nhíu xệch Trán như nổi sóng biển luân hồi Môi cong chua
chát, tâm hồn héo Gân vặn bàn tay mạch máu sôi.
Có
vị chân tay co xếp lại Tròn xoe từa thể chiếc thai non Nhưng đôi tai rộng dài
ngang gối Cả cuộc đời nghe đủ chuyện buồn….
Các
vị ngồi đây trong lặng yên Mà nghe giông bão nổ trăm miền Như từ vực thẳm đời
nhân loại Bóng tối đùn ra trận gió đen.
Mỗi
người một vẻ, mặt con người Cuồn cuộn đau thương cháy dưới trời Cuộc họp lạ
lùng trăm vật vã Tượng không khóc cũng đổ mồ hôi.
Mặt
cúi nghiêng, mặt ngoảnh sau Quay theo tám hướng hỏi trời sâu Một câu hỏi lớn.
Không lời đáp Cho đến bây giờ mặt vẫn chau.
Có
thực trên đường tu đến Phật Trần gian tìm cởi áo trầm luân Bấy nhiêu quằn quại
run lần chót Các vị đau theo lòng chúng nhân?
Nào
đâu, bác thợ cả xưa đâu? Sống lại cho tôi hỏi một câu: Bác tạc bấy nhiêu hình
khô hạnh Thật chăng chuyện Phật kể cho nhau?
Hay
bấy nhiêu hồn trong gió bão Bấy nhiêu tâm sự, bấy nhiêu đời Là cha ông đó bằng
xương máu Đã khổ, không yên cả đứng ngồi.
Cha
ông năm tháng đè lưng nặng Những bạn đương thời của Nguyễn Du Nung nấu tâm can
vò võ trán Đau đời có cứu được đời đâu.
Đứt
ruột cha ông trong cái thuở Cuộc sống giậm chân hoài một chỗ Bao nhiêu hi vọng
thúc bên sườn Héo tựa mầm non thiếu ánh dương.
Hoàng
hôn thế kỷ phủ bao la Sờ soạng, cha ông tìm lối ra Có phải thế mà trên mặt
tượng Nửa như khói ám, nửa sương tà.
Các
vị La Hán chùa Tây Phương! Hôm nay xã hội đã lên đường Tôi nhìn mặt tượng dường
tươi lại Xua bóng hoàng hôn, tản khói sương.
Cha
ông yêu mến thời xưa cũ Trần trụi đau thương bỗng hoá gần! Những bước mất đi
trong thớ gỗ Về đây, tươi vạn dặm đường xuân.
Có thể nói, chùa Tây Phương là một trong những ngôi chùa cổ độc đáo nhất Việt Nam, với sự kết hợp giữa kiến trúc truyền thống, các tác phẩm nghệ thuật đặc sắc và cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp. Vào năm 2014, chùa đã được công nhận là Di tích Quốc gia đặc biệt của Việt Nam.