Giáo sư Nguyễn Đăng Thục.
Cơ cấu tổ chức căn bản của xã hội nông dân Việt Nam là cái Làng do chữ Lang là bộ lạc cổ xưa để lại. Lang vốn là một thị tộc, góp thị tộc lại thành Làng.
Làng là đơn vị xã hội
công cộng nguyên thủy sót lại, cho nên nguyên tắc tổ chức căn cứ vào tinh thần
dân chủ công cộng nguyên thuỷ.
Trong làng ấy, tất cả
sinh hoạt tinh thần và vật chất công cộng đều tập trung chung quanh cái “nhà
chung” gọi là Đình làng, hay là cái Đình. Cái Đình trong tâm hồn nông dân có
một hình ảnh thân mật, một ý nghĩa linh động như thế nào, thì chỉ xem như nó
phản chiếu qua những câu ca dao sau đây đủ biết:
Đêm qua
tát nứơc đầu Đình
Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen
Em được thì cho anh xin
Hay là em để làm tin trong nhà…
Lại như:
Trúc xinh trúc mọc đầu Đình
Em xinh em đứng một mình cũng xinh.
Đã thấy hình ảnh cái
Đình đã in sâu trong tâm khảm người nông dân Việt, luôn luôn được nhắc nhở đến.
Các nhà văn hóa Pháp trước đây đã sớm nhận thấy, như P.Giran viết:
“Cái Đình là nơi thờ thần bảo hộ mỗi làng, chính là trung tâm đời sống
công cộng của đoàn thể; chính ở đấy có những hội đồng kỳ mục, chính ở tại đấy
họ giải quyết các vấn đề hành chính và tư pháp nội bộ; chính ở tại đấy có những
cuộc tế lễ, tóm lại tất cả hành vi sinh hoạt xã hội Việt Nam đều diễn ra ở đây.
Thần bảo hộ hay Thành hoàng đại biểu linh động tổng số những kỷ niệm chung, những nguyện vọng chung. Ngài hiện thân cho tục lệ, luân lý và đồng thời sự thưởng phạt trừng giới; chính Ngài thưởng phạt khi nào dân làng có người phạm lệ hay tôn trong lệ làng. Sau cùng Ngài còn là hiện thân đại diện cho cái quyền tối cao bắt nguồn và lấy hiệu lực ở chính xã hội nhân quần. Hơn nữa Ngài còn là môi giới của tất cả phần tử của đoàn thể, Ngài kết thành khối, như là một thứ nhân cách tinh thần mà tất cả thuộc tính cốt yếu đều có thấy ở mỗi cá nhân” (P.Giran, Magie et religions Annamites, 1918 trang 334-335).
Và J.Y.Claeys cũng
viết: “Chắc hẳn qua cái Đình người ta có thể nghiên cứu chắc chắn hơn cả về
những tập tục nhiều khi rất phức tạp, thường là cảm động; luôn luôn mới lạ,
biểu lộ đặc trưng đời sống tinh thần của xã thôn Việt Nam”. (J.Y.Claeys,
Introduction à l’étude l’Annam et du Champa, Hanoi 1934)
Vậy Đình là linh hồn
của Làng, hưng thịnh cũng vì hướng Đình, suy bại cũng vì hướng Đình. Muốn biết
vận mệnh của một Làng, kẻ hay người dở, tính tình nhân sự của nó hãy còn hướng
Đình. Đủ biết vai trò của Đình trọng đại đối với dân làng đến thế nào. Chung
quanh Đình là Chùa thờ Phật, là Văn chỉ thờ chư hiền Nho giáo, xa xa là Điện là
Miếu thờ chư vị lão giáo.
Duy Đình thờ Thành
hoàng của làng là tín ngưỡng chung bắt buộc tất cả dân làng. Đủ tỏ Thần đạo là
tôn giáo chính, bản lai của dân tộc. Vậy Đình trước hết là nơi thờ tự Thành
hoàng, vị thần chung của toàn thể dân làng tín ngưỡng chung thờ, ngoài tín
ngưỡng cá nhân riêng hoặc Phật giáo hoặc tín đồ Phật tử, hoặc Lão giáo hoặc tín
đồ Vật linh, Chư vị, Thần tiên, hoặc Nho giáo của tín độ Văn học, Tư văn. Thần
đạo mới là công giáo của một làng vậy. Thứ đến Đình còn là nơi hội họp việc
làng, bầu cử ngôi thứ trong ban kỳ mục để cai quản tất cả công việc chung, từ
việc sinh tử giá thú của cá nhân, cho đến việc phạt tạ, xử án vi cảnh. Bảo vệ
thuần phong mỹ tục của đoàn thể, việc an ninh trật tự đến việc phân chia điền
địa hoa màu. Tóm lại Đình là một công sở của làng như tòa đô sảnh của một đô
thị ngày nay.
Đình còn là nơi hội hè,
sau khi tế lễ, các đại biểu của làng từ đàn anh đến đàn em ăn uống, chia phần
lộc thánh có ý nghĩa thiêng liêng vì “một miếng ở làng còn hơn một sàng xó
bếp”.
Sau khi ăn uống rồi,
thường có các cuộc biểu diễn văn nghệ bình dân, ca hát, đánh cờ, đánh bạc tất
cả các trò tiêu khiển tập thể của nông dân. Ngày thường, sân Đình còn là nơi
họp chợ làng, hành lang có khi dùng làm trường học làng, Đình trung còn là nơi
nghỉ chân của vua quan triều đình đi tuần thú dừng chân v.v…
Nay hãy tuần tự xét cứu
các phương diện văn hóa dân tộc của Đình làng như sau:
NGUYÊN LAI CỦA ĐÌNH
LÀNG
Cũng như chữ Làng do
danh từ Lang cổ xưa để lại, Đình là cái nhà thờ tổ chung cho các thị tộc cũng
phải có từ thời cổ xưa, như chúng ta vẫn thấy hiện nay ở các nhóm đồng bào miền
núi, gọi là Mường hay đồng bào Thượng, dòng dõi Việt Nam cổ thuộc thời chủng
tộc Anh-đô-nê-diêng, Mã-lai-nê-diêng. Theo Nguyễn Văn Huyên nghiên cứu về kiểu
nhà sàn cao cẳng ở Đông Nam Á châu (Introduction à l’étude des maisons sur pilotis
dans l’Asie du S.E 1934), kết luận về kiến trúc Đình Yên sở cho là giống hệt
với kiến trúc nhà cửa dân Minangkabas đảo Sumatra.
L.Bezacier trường Viễn
Đông Bác Cổ viết về cái Đình rằng:
“Cái Đình với cái Chùa
là một trong những kiến trúc nhiều ý nghĩa nhất ở Bắc Việt. Nguyên lai của nó
chưa rõ lắm. Có khi muốn cho là ở Tàu. Sách Ying Tsao fa che nói rằng kiến trúc
ấy có ở bên Tàu từ thời Hán. Đình là một nơi yên cư của dân. Chữ Đình nghĩa là
dừng chân hay ở lại, phán xét hay xếp đặt.
Như thế chẳng chứng minh gì về nguyên lai Tàu
cả, chúng ta có khuynh hướng tin rằng nguyên lai của nó là Anh-đô-nê-diêng.
Nên để ý rằng đấy là
cái kiến trúc độc nhất của Việt Nam xây dựng trên cột. Chúng ta không thấy có
sử kiện nào khác với nguyên tắc ấy. Ở Tàu, phương pháp kiến trúc ấy hình như
người ta không biết. Và cái Đình của Tàu thì xây dựng ngay trên mặt đất. Trái
lại tất cả kiến trúc Anh-đô-nê-diêng đều xây trên cột. Hơn nữa chúng ta thấy ở
tất cả dân tộc Anh-đô-nê-diêng gồm cả dân Mọi, kiểu nhà chung trên cột là nơi để
hành khách dừng chân yên nghỉ theo nghĩa đen của chữ Đình.
Chúng ta cũng lại thấy
lối kiến trúc ấy trên mặt trống đồng Đông Sơn. Kiểu mẫu rõ ràng là
Anh-đô-nê-diêng như ông Goloubew đã chứng minh, cho đến khi nào có thêm tài
liệu khác. Hiện nay kiến trúc này như đã đem vào Tàu do tay các nhà chinh phục
đời Hán, khi dân Hán đô hộ phương Nam nước Tàu với Bắc Việt ở những thế kỷ đầu
kỷ nguyên.
Vả lại đấy không phải
một ảnh hưởng Việt Nam hay Anh-đô-nê-diêng độc nhất mà chúng ta nhận thấy ở các
kiến trúc Tàu.”
(L.Bezacier, Essais sur
l’art Annamite, 1944)
Vậy kiểu mẫu kiến trúc Đình làng phải tìm nguyên lai ở văn hóa Đông Sơn trên đặc trưng kỹ thuật trống đồng hay Đồng Cổ. Và như các nhà khảo cổ đã chứng minh, văn h1oa Đông Sơn Trống đồng có trước khi văn hóa Trung Hoa của Hán tộc tràn xuống miền Nam nước Tàu, vượt dãy Ngũ lĩnh du nhập vào cõi đất Lĩnh Nam gồm Phiêu Ngung (Quảng Châu ngày nay) Giao Chỉ (Bắc Việt) Nhật Nam (Bắc Trung Việt).
Ông Nguyễn Văn Khoan có tả đặc chất một ngôi
Đình như sau:
“Đình là đền thờ Thành
hoàng làng. Đình được xây cất ở một nơi hơi xa cách với nhà ở. Nó thường gồm
một bộ những gian nhà khá rộng có thể chứa được bàn thờ thần, đồ thờ, và chỗ để
cho nhân dân đến hội họp trong những ngày lễ.
Nói chung, Đình trước
hết gồm có một tòa nhà hình chữ Đinh T ngược, mà đường chính giữa dựng ngược là
cung điện còn đường ngang là nhà tế. Gian ấy gọi là hậu cung hay đình trong.
Trước mặt có một gian nhà khác. Gần dài như gian hậu cung độ 3, 5 hay 7 hàng
cột tuỳ theo từng làng giàu hay nghèo. Chính gian này gọi là Tiền tế hay Đình
ngoài mà các kỳ mục mặc áo thụng xanh làm lễ thần vào ngày lễ chính thức. Giữa
hậu cung và Tiền tế có một cái sân ngăn cách.
Kế nhà Tiền tế, ở đàng
trước có hai hàng nhà dọc xây ở bên trái và bên phải đối diện nhau, đấy là 2
bên hành lang. Chúng dài chừng 3 đến 7 hàng cột, có khi nhiều hơn. Chính ở tại
hai bên hành lang ấy người ta sửa soạn việc tế lễ, nào là đồ sính tế trâu, bò,
lợn, gà và xôi cúng, cùng là dọn cỗ bàn ăn ở Đình.
Sân Đình có thể có cửa
ba cánh đồ sộ đóng lại giữa khoảng đầu hồi hai hành lang. Thường thì sân Đình
bỏ ngỏ cửa ra vào chỉ có bốn cột xây, có khi nối với nhau bằng những bức tường.
Trong hậu cung có bàn
thờ thần, hoặc là tượng hay thói thường là một cái Ngai hay Ỷ, phủ lụa đỏ hay
vàng, ở trên đặt một chiếc mũ quan và đôi ủng. Linh hồn hay vía thần được biểu
hiệu bằng sắc phong của nhà vua, mà người ta dựng trong hôm sắc sơn son thiếp
vàng. Hậu cung luôn luôn đóng kín ngày thường ngăn cách với gian Tiến tế bằng
những cánh cửa đặc hay lủng, chỉ được mở vào ngày lễ. Vì thế mới gọi hậu cung
là cung cấm, chỉ có người kỳ mục làm chức cai đám hay tế đám với ngừơi thủ từ
có quyền ra vào mà thôi.
Ở khoảng hàng cột chính giữa gian tiền tế và
ngay trước mặt hậu cung có dựng cái hương án bằng gỗ trạm và sơn, ở trên mặt có
bầy đồ thờ: những đỉnh trầm, cây nến, đèn treo, ống bình nhang, bình cắm hoa,
cờ quạt, lộ bộ và bát bửu. (Bát bửu: đàn sáo, lẵng hoa, thư kiếm, bầu rượu, túi
thơ, thơ, bút, khánh, quạt).
Ở các gian giữa các
hàng cột khác, đất được kê cao lên thành một cái bục sàn bằng gỗ hay nền xây.
Trên nền ấy có trải chiếu, các vị bô lão đứng với kỳ mục vào những ngày lễ và
hội đồng.
Ở gian Tiền tế cũng
thế: gian hàng cột giữa dành cho việc thờ cúng nghi lễ. Trên các bục là các
ngừơi không thuộc hạng bô lão và kỳ mục đứng dự lễ.
Trong các Đình thờ nam
thần thường thấy có một con ngựa gỗ sơn đỏ hay trắng kích thước bằng ngựa thật,
đặt trên cái thùng gỗ có bánh xe. Nó được đặt ở một trong các gian trên, hay ở
một gian riêng biệt của nó. Khi nào Đình thờ nữ thần thì con ngựa kia được thay
thế bằng cái võng gai điều mắc vào đòn trạm trồng ở hai đầu. Cái đòn ấy đặt
trên cái giá ba gian chéo, lợp mái tre đan theo hình mai rùa.
Ngày lễ lớn, ngựa được
đóng yên cương rực rỡ, cáng được kết lụa và phủ màn the màu.
Ở trong ấy ngụ có linh
hồn thần linh. Người ta rước ra khỏi Đình trong cuộc rước long trọng đi theo xe
thần, ngựa được giắt đi bằng dây lụa, võng cáng được các cô con gái đồng trinh
khiêng.
Xe của thần tức là kiệu
cũng thuộc vào bộ đồ lễ là một cái ngai hay long đình làm bằng gỗ trạm và sơn
son thiếp vàng. Có từ 8, 12 đến 16 người đàn ông khiêng trên cái khung chữ nhật
bằng gỗ trạm rồng, sơn son thiếp vàng do các đòn hợp thành. Đấy là yếu tố chính
trong cuộc rước.
(Nguyễn Văn Khoan,
Essai sur le Đình, BEFEO, t.30 p.107-139)
ĐÌNH VỚI TÍN NGƯỠNG NÔNG DÂN VIỆT NAM.
“Thần Đạo”
Đình là trung tâm tín
ngữơng của làng, điều ấy đã hiển nhiên. Nhưng tín ngưỡng ấy là tín ngưỡng gì,
như thế nào, từ đâu xuất hiện, đấy là những vấn đề quan hệ mật thiết đến văn
hóa của một nhóm người sống thành đoàn thể.
Nguyễn Văn Huyên, sau
khi đã nghiên cứu công phu về các hội hè ở Đình làng như (Les fêtes de Phù Đổng
– Hanoi 1948, Chants et danses d’Ailao aux fêtes de Phù Đổng (Bắc Ninh) trong BEFEO,
t.39; Contribution à l’étude d’un génie tutilaire annamite Li Phuc Man trong
BEFEO t.38) có kết luận về cái loại tôn giáo Đình làng đối với nông dân Việt
như sau:
“Tất cả làng tham gia
vào đấy (các hội tế lễ ở Đình Làng) trong hạnh phúc cũng như trong đau khổ. Tín
ngưỡng ấy được truyền tụng chắc hẳn không có chi thay đổi trải hàng mấy thế kỷ.
Tất cả năng lực hoạt động của đoàn thể công xã đều tập trung vào đấy và tan
biến vào đấy. Những năng lực ấy đã đem cho sự sùng bái kia một khuôn khổ tổ
chức vững chắc hơn cả khuôn tổ chức của một tôn giáo thông thường”. (Nguyễn Văn
Huyên, La civilisation annamite, Hanoi 1944)
Sau khi thiết lập phả
đồ lịch sử các Đình thờ Thành hoàng làng kể từ thời tiền sử Việt Nam, ông
Nguyễn Văn Huyên đã rút ra một kết luận về duy cách xa xăm của tôn giáo xã
thôn. Ông viết: “Người ta có thể giả thuyết rằng những miền thờ các vị thần ấy
đều là những đất chiếm cứ đầu tiên bởi ngừơi Việt đi từ phương Bắc xuống hay từ
bờ biển lên để tìm đất phù sa màu mỡ. Cái giả thuyết ấy được chứng nhận bằng
những di tích lịch sử cổ xưa người ta có thể khám phá ở các địa hạt như Phú
Thọ, Vĩnh Yên trước hết. Ninh Bình, Bắc Ninh về sau với đền thờ các vua chúa
quốc tộc đầu tiên như Hùng Vương (Phú Thọ), lăng Thái Phú Sĩ Vương (Bắc Ninh),
nhà mồ Nghi Vệ (Bắc Ninh), chùa Khám hay Ngọc khám (Bắc Ninh), Bút Tháp (Bắc
Ninh), Khương Tự (Bắc Ninh), thành Cổ Loa (Vĩnh Yên), động Hoa Lư (Ninh Bình),
đấy là sào huyệt đầu tiên của người Việt.”
(Nguyễn Văn Huyên,
Etude d’un génie tutilais Annamite p.15-16 BEFEO 1939)
Như thế đủ tỏ cái tục
sùng bái Thành hoàng hay là Thần đạo vốn là một tín ngưỡng cố hữu của dân tộc
vậy.
Nay hãy theo ông Nguyễn
Văn Khoan trong khảo luận “Essai sur le Đình et le culte du génie tutilaire des
villages au Tonkin. BEFEO t.30 p.107-139” để định vị trí cho những tục sùng bái
ở Đình trong toàn bộ hệ thống tín ngưỡng của người Việt, hết sức phức tạp.
Người Việt sùng bái
Trời Đất, Thần linh trong ấy, Phật, vong hồn, anh hùng và danh nhân. Ông khoan
phân ra làm ba nhóm các loại sùng bái:
Nhóm thứ nhất gồm:
- Sùng bái chính thức:
thờ Trời Đất, Thần Nông, Khổng Tử
- Sùng bái nông thôn:
thờ Thành hoàng làng, thổ thần, Phật.
- Sùng bái gia đình: thờ Tổ tiên, ông Táo quân.
Những sự thờ cúng ấy là phổ thông thường xuyên,
có những ngày lễ nhất định. Chủ lễ do nhà nước hay đoàn thể chỉ định: Quan lại
và kỳ mục trong làng tế Trời Đất, Thần nông, Thành hoàng. Sư vãi lễ Phật,
trưởng tộc hay gia trưởng lễ tổ tiên. Đền được xây cất và giữ gìn với tiền của
chính phủ khi nào thuộc về sùng bái quốc gia như Văn miếu, xã tắc, tịch điền.
Nếu là sùng bái nông thôn thì quỹ làng phải đài thọ.
Các ngày lễ đã chỉ định
ở trong “Khâm định đại nam hội diễn sử lệ” đối với sùng bái chính thức, và đối
với sùng bái nông thôn đã có lệ làng quyết định. Sùng bái tổ tiên thì do sách
“Gia lệ” của Chu Hy quy định, trong đã có một chương dành cho sùng bái táo
quân.
Thí dụ ngày lễ Khổng Tử
mỗi năm 2 lần, ngày đinh đầu xuân và thu, còn ngày lễ thần làng là ngày huý kỵ
trong tiểu sử của Thần, đản nhật hay tử nhật, hay một ngày nào khác tuỳ theo lệ
làng.
Lễ nghi rất tỉ mỉ, và
nếu ai làm sai tục lệ thì sẽ bị thánh phạt hay làng phạt.
Nhóm thứ hai gồm:
Những sùng bái bình
dân: sùng bái vong hồn, thần linh chư vị nghĩa là tất cả thần linh nhiều vô kể
theo hầu Liễu Hạnh thánh Mẫu hay các tướng tá của Trần Hưng Đạo thánh Phụ, tóm
lại tất cả thần linh có ảnh hưởng vào đời sống của người.
Có ba loại sùng bái
bình dân chính được quần chúng tin mộ là sùng bái chư vị, tướng tá của Thánh
Trần và thần các quan của pháp sư.
Có nhiều loại kiến trúc
dùng vào việc thờ cúng trên đây ở Bắc Việt. Người ta gặp thấy khắp nơi, trong
làng, giữa đồng ruộng, bên đường, với diện tích quy mô lớn nhỏ khác nhau kể từ
dinh thự rộng lớn có vườn tược cổ kính cho đến những ổ con con trên cành cây
hay những nền gạch bệ xây góc đường. Mỗi thứ kiến trúc ấy mang một tên khác
nhau tuỳ theo với vị thần được thờ cúng như:
Đình làng là nhà làng ở
trong có bàn thờ một hay nhiều vị Thành hoàng hay thần bảo trợ làng. Đền là một
cung điện của cả nước hay của một địa phương, một xứ, quy mô lớn rộng dựng lên
để kỷ niệm một ông vua, vị thần hay một danh nhân lịch sử có công ơn với dân
với nước. Đền thờ phụ nữ thì gọi là Phủ, như Phủ Giày thờ Liễu Hạnh ở Nam Định
chẳng hạn.
Chùa là một cung điện
thờ Phật có nhiều tòa nhà gạch với tường, tháp, nhà thất cho sư tiểu. Chùa nhỏ
ở nơi hẻo lánh chân núi hay cửa rừng thường gọi là Am.
Ngừơi ta hay xây Am ở bên cạnh nghĩa địa để thờ vong hồn, gọi là chùa Âm hồn hay Am chúng sinh.
Miếu là một cái cung nhỏ, có khi chỉ có mấy cái
bệ trên một nền gạch ở giữa đồng, dứơi gốc cây để thờ thần canh nông thổ thần
hay nhân vật bất đắc kỳ tử.
Điện là một cái đền nhỏ
thờ quan binh hầu đức Thánh Trần Hưng Đạo, hay thờ các quan âm binh của pháp
sư.
Tĩnh để thờ chưa vị thì
thường cũng như cái điện nhỏ của tư nhân.
Cây hương hay cây Nhang
là một cái nóc con hay bệ xây dứơi mái nhà, hoặc ở trước sân nhà, hay trong
vườn để thờ thần sao của chủ nhà. Văn miếu là một ngôi đền thờ Khổng Tử với chư
hiền đệ tử của Ngài, xây dựng ở các tỉnh lỵ. Đấy là đền Văn học. Ở phủ huyện thì
gọi là Văn chỉ. Ở tổng, xã thì gọi là Từ chỉ.
Ngoài ra ở thời vua
chúa, còn có nền Nam giáo, nền xã tắc, nền Tịch điền. Vọng hay Hành cung nữa,
để cho vua quan làm lễ Thiên Địa, Ruộng đất hay bái vọng vào triều đình.
HỘI HÈ ĐÌNH ĐÁM
Phương ngôn nói “đình
đám người mẹ con ta” đủ tỏ sự chú ý của nhân dân trong làng vào việc đình đám
hội hè của mỗi làng cùng nhau chia sẻ nỗi vui buồn sướng khổ của đoàn thể làng
chung quanh cái Đình.
Các hội hè tế lễ ở Đình
tỏ lòng tín ngưỡng đối với Thành hoàng của làng được định lệ như sau:
Vào ngày 1 (sóc) và 15
(vọng) mỗi tháng. Ngoài ra còn có xuân tế vào ngày đinh đầu tháng 2, và thu tế
vào ngày đình đầu tháng 8. Lễ hạ điền khi cấy lúa, thượng điền khi cấy xong, lễ
thượng tân dâng lúa mới vào tháng 9, lễ thượng nguyên vào 15 tháng giêng hàng
năm, cũng gọi là lễ kỳ yên, lễ trung nguyên vào 15 tháng 7 là lễ xá tội vong
linh của nhà chùa mà dân làng đã phụ họa vào cả cho Đình, lễ động thổ hay khai
ấn vào 7 tháng giêng bắt đầu các công việc làm ăn. Vào dịp tết 3 tháng 3 hay hàn
thực (ăn nguội), tết 5 tháng 5, tết 15 tháng 8 hay trung thu, lễ lạp tiết vào 2
tháng 12 là lễ hết năm…
Vào những ngày lễ ấy
đều có cúng thần ở Đình. Ngoài ra còn những lễ bất thường như sinh tử giá thú
khao vọng của cá nhân trong làng.
Trên Đình có thứ tự giữ
việc đèn nhang quanh năm, cũng gọi là cai đám. Ngày lễ trọng đại nhất trong năm
là vào đám hay vào hội, thường vào mùa xuân hay mùa thu, nhân dịp kỷ niệm vị
Thành hoàng.
Tháng giêng ăn tết ở
nhà
Tháng hai cờ bạc
Tháng ba hội hè
Hội hè là nói về hội hè
đình đám của dân làng. Trong năm vào hội ấy, 5 hay 10 ngày trước khi mở hội,
người ta phải trai giới, tẩy uế.
Suốt trong ngày hội,
hàng ngày có tế lễ trên Đình như tế Thần và rước sách linh đình, cỗ bàn cờ
quạt, hát xướng cả trò giải trí công cộng được phô diễn trình bày, nào hát bội,
hát chèo, đánh vợt, chọi gà, đánh cờ, thi đua đủ thứ…
Làng ta mở hội vui mừng
Chuông kêu, trống đóng vang lừng đôi bên
Lòng ngai thánh ngự ở trên
Tả văn, hữu vũ bốn bên rồng chầu
Sinh ra nam tử công hầu
Sinh ra con gái vào chầu thánh quân.
TẾ LỄ, HÌNH THỨC THỜ
PHỤNG
Nghi lễ thờ phụng trong
thần đạo ở đình làng có hai loại: lễ thường và đại lễ hay tế, khác nhau về số
lạy và tuần rượu.
Trong lễ thường thì đồ
cúng đặt trên bàn thờ, người thủ từ hay cai đám đốt nhang, lạy bốn lạy để
nghênh thần, rồi quỳ xuống, chắp tay vòng cánh tay đưa lên ngang trán theo kiểu
khấn. Trong khi ấy, một ngừơi phụ tá rót rượu lần thứ nhất vào 3 cái ly trên bàn
thờ, người phụ tá thứ hai đọc lời khấn, khấn xong lại rót rượu lần thứ hai. Chủ
sự đứng lên, lễ hai lễ, người ta lại rót rượu lần thứ ba. Chủ sự lễ bốn lễ gọi
là lễ tạ, người ta hóa tờ văn khấn, và lễ tất. Hai người phụ tế đến lễ bốn
trước bàn thờ. Trong khi lễn, âm nhạc chỉ thu lại có hồi chiêng hồi trống thôi.
Đại lễ hay tế đình đòi sự công tác của nhiều kỳ mục:1 chủ tế, 1 bồi tế, 1 đông xướng, 1 tây xướng, nhiều chấp sự từ 2 người trở lên. Tất cả đều phải mặc áo thụng xanh, đội mũ tế, đi hài, quan thì đội mũ cánh chuồn, đi hia, mặc áo trào, tay cầm hốt, có 3 hàng chiếu trải trước bàn thờ, cái nọ sau cái kia.
Chiếu thứ nhất liền với bàn thờ,
người ta dâng rượu và khấn; chiếu thứ hai để ẩm phúc; chiếu thứ ba là chính chỗ
đứng của chủ tế mỗi khi hành lễ ở hai chiếu trên xong. Bồi tế luôn luôn theo
sau chủ tế, và chấp sự thì đứng thành hai hàng bên phải và bên trái. Xướng tế
cũng đứng hai bên chủ tế ở đàng trước mặt. Tất cả cử động của chủ tế, bồi tế,
chấp sự trong khi tế đều do đông xướng hô to lên và tây xướng nhắc lại.
Trước hết đông xướng
hô:
1) Khởi chinh cổ tức là
nổi chiêng trống lên! Tức thì có 3 hồi chiêng trống bắt đầu chậm rãi để rồi đổ
hồi.
2) Cử nhạc: phường bát
âm cử hành.
Sau đấy bắt đầu vào các trình tự hành lễ, vẫn
theo lời xướng như sau:
a. Cử sát tế vật: xem
lại đồ tế, hai người chấp sự cầm nến theo chân chủ tế giúp làm việc ấy.
b. Ế mao huyết: chôn
lông và máu sinh tế.
c. Chấp sự giả các tư
kỳ sự: các chấp sự viên sửa soạn, ai nấy đứng vào chỗ.
d. Tế quan dữ chấp sự
quan các nghệ quán tẩy sở chấp sự viên và chủ tế đến chỗ rửa tay.
đ. Quán tẩy: rửa tay.
Họ rửa tay vào cái chậu nước bưng đến.
e. Thuế câu: lau tay
vào cái khăn tay đỏ.
g. Bồi tế quan tựu vị:
các bồi tế trở về chỗ chiếu hàng thứ ba, xếp hàng trông vào bàn thờ.
h. Tế quan tựu vĩ: chủ
tế về chỗ đứng ở giữa chiếu thứ ba trứơc hàng bồi tế.
i. Thượng hưởng: Dâng
nhang, một chấp sự viên đem nhang trầm, một người đem đỉnh trầm cho chủ tế đốt
lên, giơ lên trước mặt rồi trao cho chấp sự viên đem đặt trên bàn thờ.
k. Nghênh thần cúc cung
bái: lạy để tiếp nhận thần, chủ tế và bồi tế lễ bốn lễ, theo lời xướng.
l. Hương: đứng lên
m. Bình thân: thẳng người chỉnh tề.
n. Hành sơ hiến lễ:
dâng lễ rượu lần thứ nhất.
p. Nghệ tửu tôn sở: bò
đến chỗ để rượu, chủ tế đến bàn rượu.
q. Tư tôn giá cử mịch: người
hầu rượu này cất khăn phủ bàn rượu đi.
r. Trước tửu: chủ tế
rót rượu vào chén.
s. Nghệ đại vương thần
vị tiền: chủ tế đến chiếu thứ nhất, hai chấp sự viên cầm bầu rượu và đài chén
cùng đến đấy để dâng rượu tế thần.
t. Quị: chủ tế quỳ
xuống giữa chiếu thứ nhất, chấp sự quỳ hai bên chầu vào chủ tế.
u. Tiến tước: chấp sự
bưng chén đến cho chủ tế, chủ tế cầm lấy dâng lên ngang mây, rồi trả lại cho
chấp sự.
v. Hiến tước: chấp sự
bưng bầu rượu và khay chén rượu lên bàn thờ, người thủ từ đỡ lấy đặt vào bàn thờ.
x. Phủ phục: chủ tế lễ
rạp xuống.
y. Hương: chủ tế đứng
lên.
1. Bình thân: chủ tế
đứng thẳng tề chỉnh.
2. Phục vị: chủ tế trở
lại chỗ cũ chiếu thứ ba
3. Độc chúc: đọc văn
tế, do một ngừơi bưng bài văn tế để trên cái giá đến trước mặt chủ tế.
4. Nghệ độc chúc vị:
chủ tế trở lại chiếu thứ nhất. Người lý tưởng hay tư văn chuyên đọc văn tế đến
bên trái chủ tế.
5. Đại quỵ: tất cả chủ
tế, bồi tế, độc giả đều quỳ.
6. Chuyển chúc: người
bưng giá văn đặt xuống bên trái chủ tế và bắt đầu đọc văn tế.
7. Phủ phục: chủ tế và
bồi tế cùng lạy hai lễ theo lời xướng ngôn.
8. Hương: đứng lên.
9. Bình thân: đứng ngay
ngắn.
10. Phục vị: chủ tế trở
về chỗ cũ chiếu thứ ba, thế là xong tuần rượu thứ nhất.
11. Hành á hiến lễ: lại
cử hành tuần rượu thứ hai bắt đầu từ “Nghệ tửu tôn sơ” đến “Phục vị”.
12. Hành chung hiến lễ:
lại cử hành tuần thứ ba cũng như trên.
Sau ba tuần tiến rượu,
đến phút trịnh trọng nhất của buổi lễ là đại biểu của làng (cai đám) tiếp nhận
trực tiếp ân đức của thần bằng cách ăn một miếng đồ cúng trên bàn thờ, ấy là
lúc tham thông giữ y với Thành hoàng làng.
13. Ẩm phúc: uống phúc,
một chén rượu và ăn miếng trầu cúng trên bàn thờ.
14. Nghê ẩm phúc vị:
chủ tế đến giữa chiếu thứ hai để uống phúc thần ban.
15. Quỵ: chủ tề quỳ
xuống
16. Ẩm phúc: chủ tế
uống chén rượu cúng.
17. Thụ tộ: nhận miếng
thịt phần. Thịt phần có khi thay bằng miếng trầu.
18. Phủ phục: lễ hai lễ
để tạ thần.
19. Hương: đứng lên.
20. Bình thân: đứng
thẳng.
21. Phục vị: trở lại
chỗ cũ, hàng chiếu thứ ba.
22. Lễ từ cúc cung bái:
chủ tế và bồi tế lễ bốn lễ để tạ thần, theo lời xướng.
23. Hương: đứng lên.
1. Bình thân: đứng ngay
ngắn.
2. Phần chúc: đốt tờ
văn tế.
3. Lễ tất: tế xong.
Dân làng lần lượt vào
lễ bốn lễ.
Trong suốt buổi tế, âm
nhạc nổi lên, gồm có chiêng trống, kèn, trống con, và phường bát âm: sênh tiêu,
đàn nguyệt, đàn tằm, đàn nhị, sáo trống bốc một mặt, tiu và cảnh).
Trên đây là hình thức
tín ngưỡng Thần đạo trong ấy chúng ta đã nhận thấy cái điểm chính này là tinh
thần tham thông giữa Thành hoàng với đại biểu của đoàn thể, tham thông trực
tiếp cụ thể bằng sự ẩm phúc cụ thể trong buổi tế, còn về sau thì các phần tử
làng chia nhau phần cúng thần. Cho nên mới có phương ngôn:
Một miếng ở làng bằng một sàng xó bếp.
Vì “một” miếng ở làng
là phần lộc thánh, không phải miếng ăn vật chất mà là cái phần thánh linh có
tính chất tâm linh siêu nhiên nuôi dưỡng đời sống tinh thần. Do đấy mà thần
Thành hoàng được lấy làm tiêu chuẩn tối cao của đoàn thể để quyết định giá trị,
ngôi thứ trong làng vậy.
Ngôi quý trọng nhất dĩ
nhiên, căn cứ theo hàng tế tự gần hay xa thần Thành hoàng, ấy là ngôi chủ tế
hay Tế đám. Ông đứng đầu hàng 12 quan viên, có quyền quyết định ưu tiên về tất
cả việc làng trừ việc vi cảnh, công dịch, và giao dịch với chính quyền trung
ương.
Ông được hỏi về chi thu
của làng và là đại biểu của làng với thần Thành hoàng.
Dân đinh trong một làng
có đẳng cấp:
Trước hết là các cụ hay
bô lão trong làng, gồm những vị đến tuổi nào được miễn dịch, dự vào tế tự và
chiếu hương ẩm không phải lý gì đến việc làng vì đã làm xong phận sự.
Sau các cụ thì đến 12
quan viên đảm đương tất cả công việc tế tự Thành hoàng làng. Người đứng đầu
trong 12 quan viên ấy tự nhiên được cử ra làm Tế đám hay Chủ tế, giữ sổ chi thu
và cùng với tất cả quyền lợi của quan viên giống như quyền lợi của các cụ bô
lão.
Quan viên hợp thành
chiếu thứ nhất trong Đình cùng với các cụ. Chiếu thứ hai là chiếu của sáu Lềnh
mà nhiệm vụ là mua sắm đồ tế lễ.
Chiếu thứ 3 và thứ 4,
mỗi chiếu 6 ngừơi mà nhiệm vụ là trông nom bày biện đồ tế tự trong ngày vào đám
và tế lễ.
Chiếu thứ 5 gồm 6 người
nhiệm vụ hầu cỗ bàn.
Sự phân ngôi thứ trong
Đình làng như thế là căn cứ vào tuổi tác trong hương ẩm bạ.
Ngoài các ngôi thứ trên
còn có cấp tư văn là một hội bán công trong làng, gồm các vị có chức tước khoa
bảng với triều đình. Họ có dự vào tế lễ của Đình làng nhân dịp xuân tế hay thu
tế. Tư văn lập thành cái hội hầu như biệt lập ở trong làng đối với các ngôi thứ
trong Đình làng căn cứ vào tế lễ trên kia.
Nay hãy xét về nội dung
tôn giáo Thần Đạo cổ truyền của dân tộc nông nghiệp Á Đông.
“Thiên sinh thần vật,
thánh nhân tắc chi” (Dịch), “Trời sinh ra vật thần, bậc thánh lấy làm phép
tắc”. Vậy thần hay thần linh trong trí óc dân Việt có ý nghĩa thế nào?
Chẳng thiêng ai gọi là Thần (phương ngôn).
Thần là ngụ ý một quyền năng siêu phàm, thiêng liêng hay linh thiêng, cho nên thường hay nói Thần linh, danh từ Hoa Việt. Sở dĩ là Thần vì có cái đức Linh vậy. Chữ Linh đứng một mình hay là đi đôi với một chữ nữa như Anh, hoặc Linh ta thường gặp thấy ở các miếu, đền thờ Thiên Nhân trong đám dân Việt Nam. “Nó chõ vào cái đà thúc đẩy của nhựa cây mùa xuân, cái mana (khí năng lực nảy nở của thảo mộc cỏ cây, cái sức màu mỡ của đất cũng như cái sức nảy nở của cây cỏ”
(Elles (Anh Linh) désignent la pensée de la sève au
printemps le mana, la force génératrice de la végétation, la fertilité autant
que la fécondité – Rolfstein BEFEO 1942, t.XLII).
Vậy thần linh có nghĩa
là những năng lực thiên nhiên, đặc biệt nhất là cái sinh lực được nhân cách hóa
của nhân dân nông nghiệp để thờ phụng. Đạo Thần như thế đặt trọng tâm vào ý
nghĩa Linh là Nguồn sống, sinh thành khắp vũ trụ theo như tin tưởng cổ truyền
của xã hội nông nghiệp Á Đông.
“Thiên địa chi đại đức viết sinh”.
Cái đức vô hạn của Trời Đất là sinh thành (Dịch). Đấy cũng là trọng tâm của giáo lý Áo Nghĩa Thư (Upanisads) Life is immense: Prano virat:
“Nguồn
sống thì vô biên”. Bởi vì nguồn sống vĩnh cửu, miên trường tồn tục là lý tưởng
tối cao của nhân dân Á châu xưa nay, sớm trực giác thấy rằng:
“Everything has sprung
from immortal life and is vibrating with life” (Sadhana, Tagore). “Tất cả đã từ
trong nguồn sống vĩnh cửu phát xuất và đều rung động với nguồn sống”.
Cho nên thi hào
R.Tagore mới tiếp tục dẫn chứng Áo Nghĩa Thư (Upanisads) để giải thích tín
ngưỡng truyền thống Á châu.
“Chúng ta được dạy để nhìn nhận bất cứ sự vật gì trong thế giới như là được Thượng Đế bao bọc che chở.
Ta quỳ vái và quỳ vái Thượng Đế ngự tại ngọn lửa
và dòng nước, thấm nhuần toàn thế giới, ngự tại mùa màng hàng năm cũng như tại
những cây cổ thụ”
(We are enjoined to see
whatever there is in the world is being enveloped by God.
I bow to God over and
over again who is in fire and water, who permeates the whole world, who is in
the crops as well as in the perennial trees) (Sadhana, R.Tagore).
Cái tín ngưỡng truyền
thống ấy, chính linh mục L.Cadière cùng các nhà nhân chủng học trường Viễn Đông
Bác Cổ đã nhận thấy ở bình dân Việt Nam vậy.
Linh mục L.Cadière viết trong Tín ngưỡng và tập tục tôn giáo của dân Việt (Croyances et pratiques religieuses des Vietnamiens, t.III tr.68-70, BEFEO)
“Danh từ tôn giáo ngụ có nhiều trình độ, nhiều
sắc thái.
Nếu người ta hiểu tôn giáo là tín ngưỡng vào một Đấng Tuyệt đối, lớn vô cùng, hoàn toàn vô cùng; vào sự phối hợp bằng tinh thần với Đấng vô sở bất tại, ở đâu cũng có; vào sự phối hợp bằng lòng bồng bột với Đấng chí thiện ngự trị và bảo vệ tất cả; sau hết là vào sự biết ơn về những đức toàn vẹn vô hạn của Ngài bằng một nghi thức phụng thờ xứng đáng, hiểu tôn giáo như thế thì người Việt không có tín ngưỡng. Quan niệm về một Đấng tuyệt đối không được họ để ý. Họ sống không có Thượng Đế. Nhưng nếu người ta hiểu tôn giáo là tín ngưỡng, tín ngưỡng thực tế ảnh hưởng hành vi nhân sinh, vào một thế giới siêu nhiên, thì phải nhận rằng dân Việt có cái đức tính ấy ở trình độ rất cao.
“Người dân Việt, có thể
nói rằng sống trong không khí siêu nhiên. Họ thấy khắp nơi ảnh hưởng của những
quyền năng thần bí hành động vào cuộc đời họ cách xấu hay tốt. Bất cứ một người
Việt nào thuộc về bất cứ giai cấp nào trong xã hội đều không thoát khỏi sự ám
ảnh của siêu nhiên. Người gánh hàng rong chạy trên đường; người thợ cầy dưới
ruộng, ông quan ngồi bàn giấy, bà mẹ trong gia đình, người tiều phu trên sườn
núi, người ngư phủ chăng lưới, hết thảy đều bận tâm về ảnh hưởng của Thần linh
vào hành động đang làm của họ, tất cả đối với họ đều là điềm báo rằng bên cạnh
họ, trên đầu họ còn có những hành động khác đi đôi với họ, thế lực hơn họ và
chính nhờ vào những thế lực vô hình hợp tác ấy mà những cố gắng của họ thành
công hay thất bại.
Con nhện sa, tiếng
chuột rúc, con quạ bay, con gà gáy, người ăn xin hiện ra trước mặt, ra ngõ gặp
người, con chim kêu, chiếc đũa rơi xuống đất khi ngồi vào ăn, ngọn lửa trong
bếp than hay hát, hàng ngàn sự việc vô ý nghĩa biểu lộ cho mắt họ tính cách
điềm lành hay dữ.
Tất cả sự việc lành hay
dữ, nhất dữ đều quy vào cho Thần linh.
“Người ta sẽ chê trách
rằng đấy là sự sợ hãi đã gây ra những tín ngưỡng ấy. Mặc dù nguyên nhân hoặc là
một tính tình này hay tính tình khác, sự thật thì người Việt vẫn tin hành động
và cử chỉ trong bầu không khí siêu nhiên. Siêu nhiên ám ảnh họ, họ không thoát
khỏi ban ngày, ban đêm giấc mộng cũng không thể giải thoát cho họ vì mộng cũng
là những biểu hiện của Thần linh.
“ Thần linh vô sở tại;
một tảng đá rơi, cây cổ thụ đổ, rừng âm u, vực sâu trong con sông, ngọn núi
cao, một việc nước giản dị giữa cánh đồng, mỗi một miếng đất, thửa ruộng một xó
tối đều là cư sở của Thần linh. Thần linh ở khắp nơi nhập vào khắp cả, tất cả
đều thuộc về Thần linh.
“Cái tín ngưỡng vào thế
giới Thần linh ấy, bao bọc lấy đời sống của người Việt, thúc giục họ phải cúng
lễ. Trước khi hành động phải cầu xin sức phù hộ của Thần, gạt những động cơ có
thể làm cho Ngài bất bình; nếu trong khi đang hành động Thần linh tỏ ý bất
bình, thì mau sớm phải lễ tạ.
“Sùng bái tổ tiên cao
quý hơn, nhưng tại căn bản, cả hai tín ngưỡng mật thiết quan hệ với nhau. Tổ
tiên mất đi rồi, không còn nhìn thấy người nữa, nhưng các ngài không từng rời
khỏi gia đình. Các ngài lưu ý đến con cháu các ngài, ảnh hưởng vào hạnh phúc
hay bất hạnh của chúng tuỳ theo trương hợp chúng có làm tròn hay không làm tròn
những bổn phận của đạo hiếu. Hơn nữa các ngài ngự ở tại trong gia đình và hiên
tại trên bài vị Tổ tiên. Vị nào không sờ đấy, đã được rước sang nhà thơ họ, đều
được mời về ngày giỗ ngày tết để cùng san sẻ vui buồn với toàn thể gia đình.
Người ta luôn luôn nghĩ đến mời các ngài tham dự các việc lớn trong đời sống
chung cưới hỏi, sinh nở của một phần tử gia đình.
Tư tưởng tổ tiên chi
phối toàn thể đời sống gia đình cũng như tư tưởng thần linh chi phối đời sống
hằng ngày của người dân Việt. Chủ gia đình là một giáo chủ tôn giáo ấy và y
truyền lại giáo chức ấy cho người con trưởng trong gia đình. Gia đình nào mà
dòng giáo chức ấy tắt là một điều bất thường vậy.
Đời sống xã hội, đối
với người dân Việt chỉ là đời sống gia đình mở rông thì cũng thấm nhuần tín
ngưỡng. Thành hoàng hay Thần bảo hộ mỗi cộng đồng, có sắc phong của triều đình
hay không, là những quyền nămg làm ra mưa và được mùa; dẹp hỏa tai hạn hán,
dịch tễ.
Bởi thế cho nên nhân
danh các ngài mà nắm mạ đầu tiên cấy xuốn cũng như giạ lúa đầu tiên gặt lên đầu
tiên gặt lên đều được đoàn thể biết ơn dâng lên cho Thành hoàng. Và vào những
ngày nhất định hàng năm, dân làng tế lễ linh đình. Các kỳ mục hay chức sắc
trong làng đều là cha mẹ trong làng, được chọn ra làm chủ tế cho các cuộc tế lễ
ở Đình, trên đấy có những giáo sĩ khác chủ tế cho cuộc tế phổ quát hơn, như các
quan làm chủ tế cho hàng tỉnh, vua làm chủ tế cho toàn quốc.
Xem thế biết rằng không có gì trong đời sống của nhân dân Việt Nam thoát khỏi ảnh hưởng của tôn giáo. Tôn giáo đón nhận con người Việt từ lúc mới sinh ra, dắt dẫn y cho đến khi xuống nhà mồ, và sau khi chết đi còn giữ y trong vòng ảnh hưởng.
Khi người ta
nhận thấy gốc rễ thâm sâu của những thể siêu nhiên ở trong tâm hồn Việt Nam,
người ta không thể đừng không nhận cho rằng dân tộc này tín ngưỡng rất thâm
trầm.
“Và nếu người ta ngược
lại về mấy thế kỷ trước kỷ nguyên Thiên Chúa, thì những tín ngưỡng vẫn như thế,
những tập tục vẫn giống nhau, ít nhất về những điểm cốt yếu. Khổng Tử viết:
“Quỷ thân chi vị đức,
kỳ thịnh kỹ hồ! Thị chi nhị phất kiến thính chi nhi phất văn, thể vật nhi bất
khả di, sử thiên hạ chi nhân, trai minh thịnh phục dĩ thừa tế tự.
Dương dương hồ như tại
kỳ thượng, như tại kỳ tả hữu. Thi viết: Thần chi cách ti bất khả độ ti, thần
khả dịch ti. Phù vi chi hiển thành chi bất khả yểm như thử phù” (Trung Dung).
“Cái đức linh của Quỷ
Thần thịnh vượng lắm thay! Nhìn mà chẳng thấy, nghe mà không thông, thể hết mọi
vật mà không sót, khiến trong thiên hạ phải trai giới tinh khiết, ăn mặc nghiêm
trang để tế lễ, rực rỡ như ở trên đầu, như ở bên trái bên phải khắp nơi. Kinh
Thi viết: Việc quỷ thần đến không thể lường, huống hồ lại có thể lờn được sao?”
Ôi tế văn hiển hiện, thành thật không che dấu như thế đấy!”
Vậy Thần đạo là cái tín
ngưỡng đức linh, nguồn sống cửu tràn ngập vũ trụ, tức là thế giới siêu nhiên
thấm nhuần bao phủ đời sống của nhân loại Á châu. Cái tín ngưỡng ấy thuộc về
tín ngưỡng tâm linh đòi có sự sống toàn diện hơn là hiểu biết, bằng lý trí,
phát triển trực giác sáng tạo hơn là ý niệm minh bạc có hệ thống. Radhakrishnan
viết trong “East and West in Religion”:
“Ở Đông phương tôn giáo
là đời sống của tâm linh hơn cả. Nó là tri giác về sự đồng nhất của người ta
với tinh thần, chân lý, tình yêu và mỹ cảm trong vũ trụ.
Quan điểm ấy không quan
trọng hóa vai trò của những mệnh đề tri thức. Nó thừa nhận chúng như là những
cố gắng rụt rè để đơn giản hóa thực tại. Nó tin tưởng Thần linh thì bất tận và
khả năng biểu hiện của Ngài thì vô hạn số. Có một cái gì siêu ngôn ngữ mà không
một danh từ nào đạt tới được tuy rằng nó linh động tất cả danh từ và đem cho
chúng thể chất và ý nghĩa. Hàng thế kỷ trước Do Thái và thánh ca David chúng ta
nghe thấy lời cầu khấn của một thi sĩ Ai Cập vô danh lên Thượng Đế không phải
là bạn hay cứu thế, không phải phỏng theo hình ảnh nhân loại hay tượng trưng
vào khám thờ bằng đá. Không nhìn thấy được Ngài; Ngài không có thủ từ hay đồ
lễ. Người ta không thờ Ngài trong đền; Ngài không biết có định sở nào hết.
Không có ngai thờ Ngài được tô vẽ hình ảnh. Không một dinh thự kiến trúc nào có
thể giữ được Ngài. Vô danh là tên Ngài trên trời, và hình Ngài không biểu hiện,
bởi vì tất cả hình ảnh Ngài đều sai lầm, nhà của Ngài là vũ trụ, chứ không phải
một dinh sở nào của con người làm ra.
“Hình thức tín ngưỡng xa vời sự thật cũng như với ý nghĩa. Ý nghĩa không cho phép đo lường bằng mực thước bề ngoài. Muốn thẩm định ý nghĩa của một ý niệm hay tượng trưng tôn giáo, chúng ta phải khám phá giá trị nó diễn tả và thành tựu. Tinh thần không bị bó buộc vào một hình thức nào cả, dù hình thức ấy có thích hợp mấy đi nữa.
Các tôn giáo Đông phương đều phi tín điều (non-dogmatic) và tín đồ của chúng theo lẽ thường đều có gì có thể gọi là tư cách tâm linh. Họ không bài bác điều thiện chỉ vì không phải chí thiện. Họ kính trọng cá nhân vì nó như thế chứ không cố tìm cách tu sửa nó trái cả với ý muốn của nó nữa.
Trên trời không những có
nhiều lâu đài mà cũng có nhiều đường lối để đi đến nữa. Ấn Độ giáo và Phật giáo
công nhận rằng mỗi hình thức tín ngưỡng đều có hàm ngụ một trình độ chân lý
nào, với hậu quả đáng ngờ rằng tất cả các loại sùng bái và mê tín ngoại lai đều
có thể thấy được trong khu vực của hai tôn giáo trên kia.
“Một kết quả tự nhiên
của sự khác nhau về khuynh hướng là ở Đông phương, tôn giáo là một vấn đề tu
tĩnh tin thần hơn là học vấn phiền tỏa. Chúng ta học vấn chân lý không bằng phê
phán và biện luận mà là bằng cách sống thâm trầm và biến đổi bình diện ý thức.
Thượng Đế không phải
hình thức tối cao để hiểu biết mà là bản thể tối cao để thực hiện”.
Có lẽ chính vì “God is
not the highest form to be known but the highest being to be realised” như
Radhakrishnan đã phân biệt hai tinh thần tôn giáo Tây phương và Đông phương,
một đằng thiên về trí thức (intellectualism) một đằng thiên về tâm linh
(spiritualism), mà đối với dân Việt Nam, như lời LM. Cadière đã nói: dân Việt
“sống không có Thượng Đế, sống trong siêu nhiên!”
Như thế chẳng phải tinh
thần thực hiện của tôn giáo đấy ư? Thực hiện cái gì, nếu chẳng phải cái tri
giác về đồng nhất thể của người với tinh thần Chân Thiện Mỹ ở vũ trụ đấy ư?.
Như thế là thiếu về “ý
niệm Thượng Đế”, là thiếu về lý trí hiểu biết, nhưng “sống trong siêu nhiên” là
sống cảm thông bằng tình cảm và ý chí để mở rộng triển khai tâm hồn hướng về
cao cả đại đồng. Bởi vậy mà đời sống tín ngưỡng của nhân dân Việt Nam là cả một
lịch trình thực hiện cái đức Linh, là Nguồn sống tràn ngập vô biên qua tất cả
các trình độ biểu hiện, kể từ ngọn cỏ, lá cây, hòn đá, dòng nước cho đến hang
động đầu tiên, Tổ tiên thần thánh, từ Thổ thần, Thành hoàng ở địa phương cho
đến Quốc giáo Thiên Địa.
Nay hãy tuần tự theo
dõi lịch trình tín ngưỡng thực hiện ấy như sau:
Tục sùng bái cây
Ở Bắc Việt có tục sùng
bái cây. Dưới gốc cây người ta hay đặt những bình vôi mẻ sứt là thứ đồ gia dụng
của gia đình Việt Nam có tục cổ truyền ăn trầu.
Tục ăn trầu, là một
truyền thống của dân tộc theo truyện cổ tích Trầu Cau hay Tân Lang phải có đá
tô thành vôi, trái cau với lá trầu không, hợp thành bộ ba là “miếng trầu làm
đầu câu chuyện”. Bình vôi chứa đựng vôi tôi lá thứ đồ dùng được trọng đãi cho
nên khi nào bể vỡ, người ta không vứt đi mà phải tàng trữ lại ở gốc cây. Vứt đi
là một điều tối kỵ.
Ở đây không phải là một
tục lễ giáo mà người ta đặt bình vôi dưới gốc cây. Đây là một tín ngưỡng có
tính cách ma thuật như sự hợp hóa mầu nhiệm của đá với cây. Bình vôi chưa đựng
sức ma thuật, một quyền năng huyền bí mật thiết quan hệ đến mệnh vận trong nhà.
Nếu vôi bám thành bờ trên miệng bình thì trong nhà làm ăn thịnh vượng. Bình vôi
bể vỡ là một điềm gở báo trước việc dữ sắp xảy đến. Bởi thế nên mỗi khi có bình
chẳng may bể vỡ ngừơi ta kiêng không dám vứt đi vào chỗ tạp uế mả phải đem
chồng chất dưới gốc cây vì gốc cây là nơi đặc biệt hình như có duyên nghiệp với
chất đá vôi, và cũng là nơi tụ sinh khí rất hợp cho sự lưu trữ những đồ dùng
cũ; nhằm làm bình vôi ở gốc cây lại càng tụ được nhiều sinh khí hay thần linh
(prana = mana). Vì thế mới phát xuất ra tục thờ Cây vậy. Hoặc tục thờ Cây có từ
trước vì lý do huyền bí mầu nhiệm của sức nẩy nở sinh sôi ở thảo mộc.
“Người trồng cây lúa
hành động với cách thức tương tự với cách thức ma thuật (magique) hay tôn giáo
(religieux) nhưng hành động của họ không có hiệu quả ngay. Gặp thời tiết nhất
định trong một năm, tuỳ theo vị trí các ngôi sao quyết định, nó bắt đầu làm
đất, một công việc lạ kỳ không trông thấy kết quả tức thì. Trong đống đất đã
vun xới ấy, nó vùi những củ hay hạt giống ăn được mà nó cần dùng để nuôi thân.
Sau đấy, một khi làm xong công tác tập truyền ấy rồi, nó chờ đợi. Nó giữ gìn
các mảnh đất đã cấy hay đã gieo hạt bằng một hàng rào để ngăn cản các muông thú
không được quấy nhiễu đến sự ấp ủ nẩy nở của các mầm hạt kia. Nó tự bảo vệ một
cách tiêu cực. Một vài tháng sau nó thu hoạch gấp bội phần kết quả của những
vật nó đã vùi xuống đất”. (René de Hetrelon, Essai sur l’origine des
différences de mentalité entre l’Occident et l’Extrême-Orient).
Bởi thế mà người nông
dân Việt Nam mới chọn gốc cây, nhất là cây cổ thụ làm nơi tụ khí linh thiêng,
nhân đấy gửi gắm những bình vôi gia dụng lâu đời. Vôi là chất đá, lâu đời đá
kết thành tinh, tụ lại gốc cây là giống thảo mộc cùng với đá trầu có tiền duyên
thì càng làm tăng quyền năng linh thiêng ma thuật. Một gốc cây nào có nhiều
bình vôi cũ sẽ biến thành nơi thờ cúng. Từ đây ma thuật biến sang tôn giáo rồi
vậy.
Có hai dòng tín ngưỡng
sùng bái, một thuộc về Nữ thần, một thuộc về Nam thần. Bản tính Đất Cây đồng
nhất phần lớn thần linh ngự trong Cây Đất hay Đá, cho nên có thể bảo rằng Đá,
Đất thuộc về Nam thần, Cây Cỏ thuộc về Nữ thần.
Nam thần = Địa linh
nhân kiệt.
Thường thấy giữa đồng
ruộng Bắc Việt một cái gò, cái đống đất có cây cổ thụ che phủ một cái bệ xây
làm nền. Nông dân chung quanh đem hương hoa, rượu, xôi, gà đến cúng tế, vì đấy
là một đền hay nền thờ Thổ Thần. Ngừơi ta kiêng xâm phạm vào khu vực này, cây
không được chặt, đất không được cuốc. Nhiều khi nền thờ xây cũng không có, cây
với gò bằng với mặt bờ ruộng.
Nền thờ Tổ tiên có 3
hình thức:
- một cái gò có cây cổ
thụ che phủ
- một cái gò ở trên có
xây cái bệ dưới cây cổ thụ
- một gốc cây với một
bệ xây.
Hình thức thứ hai đủ bộ
hơn cả, người ta đem đến gốc cây bầy hiện trên bệ thờ các đồ lễ. Gia chủ quỳ
vái khấn khứa, vào ngày 1 hay 15 mỗi tháng. Cũng có khi vào ngày, thường là đặc
biệt. Ở đây chỉ thấy có đàn ông đến lễ chứ không thấy đàn bà vì đàn bà không
biết khấn Thổ Thần. Bởi thế mà có thể nói rằng đàn ông lễ Thổ Thần thuộc về Nam
tính, gò đất là chính, cây chỉ là phụ.
Những Thổ Thần hành
động trong một phạm vi nhất định. Nông dân tin các ngài trông nom che chở phù
hộ cho ruộng đất của một làng, một xóm, cho nên ở một làng người ta thấy có
nhiều bệ thờ Thổ Thần, hay Thần Đống.
Những đồ lễ cúng Thổ
thần không phải chỉ có Thổ thần hưởng mà thôi. Ngoài đồ lễ Thổ thần còn có đồ
lễ cúng cho vong linh chúng sinh nữa. Đấy là những cô hồn không thừa tự, chết
đường chết chợ, xa cửa xa nhà, vô thừa nhận, không nơi nương tựa cho nên quây
quần chung quanh Thổ thần làm môn hả. Những cô hồn ấy rất nguy hiểm có thể quấy
rối địa phương bằng dịch tễ. Bởi thế nhân dân phải cúng lễ cầu yên hàng năm vào
mùa hè. Lễ này thường làm tại nơi thờ Thổ thần. Các thần bảo hộ cho làng gọi là
Thành hoàng cũng thuộc về một hạng Thần linh. Thành hoàng cũng như Thổ thần chủ
tế của làng; được thờ ở trong Đình làng, nơi họp bàn việc làng của các đàn anh
trong làng. Như thế chứng tỏ đàn ông mới cúng Thần. Gần Đình thường thấy những
cây cổ thụ không ai được xâm phạm. Cái Đình ở đây thay cho cái bệ ở giữa đồng
cho nên người ta cúng tế ở trong Đình chứ không ở tại gốc cây.
Đến đây tục thờ Cây hay
thần linh trên cây đã tiến hóa. Trọng tâm đã từ cây truyền vào Đền, Đình. Tuy
thế mà Cây cối vẫn giữ tính cách linh thiêng vì là thuộc về thần, nhưng bàn thờ
thần Thành hoàng là bài vị, sắc phong thần của nhà vua để ở trong cung Đình hay
torng Khám trên kiệu khi rước sách. Sự tương tự giữa Thổ thần và Thành hoàng là
ở chỗ Thành hoàng cũng cai quản chúng sinh của một địa hạt mình bảo hộ. Hai lần
một năm nhân dân cũng làm lễ kỳ yên chúng sinh ở cửa Đình và chúng sinh không
có quyền vào trong Đình của Thành hoàng.
Cả hai, Thổ thần và
Thành hoàng đều là thần linh. Nghi lễ thuộc về địa phương. Rõi theo sự tiến
triển về cấp trật Thần đạo thì người đi đầu từ chúng sinh, Thổ thần, Thành
hoàng đến Đức Thánh. Uy quyền đức Thánh lan ra khắp một xứ, ở đâu cũng có tín
đồ, và nghi lễ được quy định theo quốc giáo. Đức Thánh thuần tuý Việt Nam của
nhân dân sùng bái thì có đức Thánh Trần Hưng Đạo Vương, đức Thánh Ông hay Lê
Văn Duyệt là phổ thông hơn cả, bên cạnh đức Thánh Khổng hay Khổng Phu tử ở
Trung Hoa đem vào được thờ ở Văn miếu thuộc tín đồ Nho sĩ.
Thế lực đức Thánh như
đức Thánh Trần lan khắp cả nước từ Lạng Sơn, Thanh Hóa. Sự tích Thánh Trần
thuộc về lịch sử cũng như sự tích Đức Ông vậy. Riêng Thánh Trần là vị anh hùng
vĩ đại của dân tộc, sau khi giải cứu quốc gia khỏi cuộc xâm lăng Mông Cổ, Ngài
rút về yên nghỉ và quy tiên ở Phả Lại. Cho nên ở đấy có đền thờ Ngài gọi là đền
Kiếp bạc hàng năm xưa kia quốc dân tấp nập đến hành hương vào ngày 15 tháng 8,
là ngày kỵ có mở hội 5 ngày. Phương ngôn nói:
Tháng 8 giỗ cha tháng 3
giỗ mẹ.
Giỗ cha tức là quốc phụ
Trần Hưng Đạo Vương hay là Thiên phụ so với Địa mẫu là thánh mẫu Liễu Hạnh giỗ
vào tháng ba.
Từ đằng xa, đền hiện ra
đàng sau đám cây cổ thụ nguy nga mà nhân dân cho là linh thiêng, có quyền năng
thần bí siêu nhiên. Theo sách Cương Mục thì vào thời Lê, vua Thái Tông có sắc
lệnh cấm không được chặt những cây ấy và dân tin rằng chỉ hái một cái lá cũng
đủ ốm đau. Đức tính linh thiêng của những cây ấy là do thuộc quyền sở hữu của
Thánh Trần, nên phần quyền năng thiêng liêng của Ngài đã ngụ ở tại đấy.
Ngoài ra một điểm đặc
biệt là nhân dân đến hành hương ở đền Kiếp bạc gồm có một số lớn phụ nữ nữa,
thành ra nghi lễ Nam Thần một khi trở nên quốc giáo đã mất tính cách nguyên
thuỷ, không còn nghi lễ thuộc riêng cho đàn ông.
Người ta tin rằng quyền
năng hay đức tính của Thánh Trần ngự trị tất cả chúng sinh ma quỷ bởi thế mà người
ta đến cầu xin đức Thánh trừ tà trị bịnh. Hàng năm đức Thánh đã chứng tỏ trị
được các bệnh hiểm nghèo và giải trừ tà ma ôn dịch. Ngài chữa bằng phép thần kỳ
trong những ngày hội. Đức Thánh giáng hiện xuống để sai khiến một số thầy pháp,
thầy bùa, cô đồng bà cốt. Các người Thánh ấy mất hẳn cá tính ngày thường, cử
động như có thần lực sai khiến thật, nào thắt cổ, nào cắt lưỡi. Thánh Trần cũng
giáng ngự xuống các bà đồng khiến cho mất cả ý thức phụ nữ để cử động như đàn
ông vậy. Họ ăn mặc khăn trầu áo ngự mầu ngũ sắc loè loẹt. Sau buổi lễ hành
hương họ về làng họ để bắt tà ma cùng chữa bệnh.
Một ký giả ngoại quốc
được mục kích đám rước Thánh Trần ở Hà Nội ngày 31-5-1908 kể lại rằng có nhiều
ông đồng xuyên thiết lạch thủng qua má và rạch lưỡi bằng dao, máu chảy đầm đìa.
Máu ấy được hứng vào các tờ giấy bản để phân phat cho tín đồ dùng làm bùa trừ
tà chữa bệnh. Ý nghĩa những hành vi ấy thật rõ rệt: đức Thánh Trần có quyền
linh thiêng đã truyền một thần quyền năng ấy vào ông đồng, bà đồng và máu kia
thấm vào giấy bùa cũng có đặc tính ma thuật như chính máu của Ngài vậy. đấy là
đại khái lịch trình tiến hóa của thần linh thuộc Nam tính có liên hệ mật thiết
với cây cối cổ thụ linh thiêng, kể từ Thổ thần địa phương đến Thành hoàng và
đức Thánh ở quốc gia, ba cấp thần linh chi phối lễ nghi của toàn quốc.
Nữ thần
Phàm cây linh thiêng
thuộc về Nữ thần thì người ta nhận thấy ngay ở những đồ mã treo trên cành: nào
hài, nón lá, đồ dùng của phụ nữ. Những đồ lễ ở gốc Cây của Nữ thần là do phụ nữ
đem cúng vào ngày sóc (1) và vọng (2) hằng tháng. Cũng có trường hợp đặc biệt
đàn ông đến cúng lễ ở cây Nữ thần nhưng là trường hợp ít nhất, còn phổ thông
thì chỉ phụ nữ mới đến cúng lễ Cây Nữ thần.
Khi nào Cây linh được
thờ chưa lâu thì ở dứơi gốc không có xây cất chi cả. Người ta cúng bái ngay tại
bên đường. Rồi chợt một ngày kia, người đến lễ bái đông đảo, lối xóm xây cất ở
gốc Cây một cái lều tranh hay một bệ thờ cao chừng 1m50 kiểu mẫu phổ thông của
nhiều Đền, Miếu sau này. Miếu có kiểu diện tích chừng 4 hay 5 thước vuông,
trong đó không phải chỉ có 1 bệ thờ mà còn cả những bài vị thần linh nữa. Bài
vị này còn để đem đi rước, vì tất cả thần linh đều tập trung ở đấy. Và cũng như
miếu Thổ thần, miếu Bà cô, sẽ dần dần thay thế cho Cây trở nên danh tiếng linh
thiêng vì n hiều kỳ tính uy linh hiệu nghiệm, các nơi người ta kéo đến hành
hương và bấy giờ Miếu đã trở nên Đền, như đền Sòng ở Thanh Hóa, chẳng hạn. Giữa
Miếu và Đền không có chi khác về nghi lễ cũng như đối với Cây. Vẫn là nơi của
đa số phụ nữ đến lễ bái Nữ thần.
Trong hàng các đền
ngoài Bắc Việt có tiếng linh thiêng là đền Sòng, đền Phủ Giầy, huyện Vụ bản
tỉnh Nam Định thờ thánh mẫu Liễu Hạnh công chúa. Hàng năm vào 3 tháng 3 nhân
dân đến hành hương tấp nập.
Có nhiều cung điện được xây cất chung quanh ngôi đền chính, trước mặt có hai gốc Cây cổ thụ tại cửa vào đền. Ở đây đa số tín đồ là phụ nữ, nhưng vì Nữ thần đến bậc quốc tế, có sắc vua phong cho nên cũng có cả tín đồ đàn ông đến lễ bái cầu khấn. Cũng như ở Kiếp bạc, các ông đồng bà đồng có hai nhân cách, như... (người đọc đến đây hẳn kiên trì và thu được nhiều điều bổ ích - Tạm thế đã nhỉ)