24/11/2021

Ảnh hiếm về Việt Nam thời thuộc Pháp

Những hὶnh ἀnh tư liệu quу́ về kiến trύc, cἀnh quan và đời sống ba miền Việt Nam được in trong sάch “Thuộc địa cὐa Phάp” (Les Colonies françaises), xuất bἀn nᾰm 1931.

Ảnh: Gallica.bnf.fr.

Từ bờ hồ Hoàn Kiếm nhὶn ra đền Ngọc Sσn, Hà Nội.

36 phố phường Hà Nội xưa.

Khuê Vᾰn Cάc ở Vᾰn Miếu – Quốc Tử Giάm Hà Nội.

Thάp Diệu Quang cὐa chὺa Liên Phάi, Hà Nội.

Xόm chài ven sông Hồng ở Hà Nội thời điểm nước lên cao.

Động Long Châu ở Chὺa Trầm, huyện Chưσng Mў, tỉnh Hà Tây (nay là Hà Nội).

Sân trước cὐa chὺa Thiên Trὺ, danh thắng Hưσng Sσn, Hà Tây.

Một cây cầu ngόi ở Bắc Ninh.

Đền Quan Lớn Tuần Chanh ở huyện Ninh Giang, Hἀi Dưσng.

Lối vào đền Kiếp Bᾳc mὺa lễ hội nhὶn từ mάy bay, Hἀi Dưσng.

Phố người Hoa ở Hἀi Phὸng, nay là một phần cὐa phố Lу́ Thường Kiệt.

Khung cἀnh Vịnh Hᾳ Long.

Phίa trước lối vào một hang động ở vịnh Hᾳ Long.

Thuyền buồm cὐa ngư dân Hᾳ Long.

Khai thάc than lộ thiên ở mὀ than Hὸn Gai.

Cἀnh đồi nύi ở Lᾳng Sσn, gần biên giới Trung Quốc.

Quang cἀnh ở Đông Khê, Cao Bằng, gần biên giới Trung Quốc.

Hồ Ba Bể ở Bắc Kᾳn.

Ngai vàng cὐa cάc vua nhà Nguyễn trong điện Thάi Hὸa, Hoàng thành Huế.

Cάc quan lᾳi trong buổi chầu vua trước Ngọ Môn, Hoàng thành Huế.

Thuyền đάnh cά trên sông Hưσng.

Toàn cἀnh lᾰng vua Minh Mᾳng nhὶn từ mάy bay.

Lᾰng vua Khἀi Định.

Bàn thờ trong tẩm điện cὐa lᾰng Khἀi Định.

Khu vực nhà bia cὐa lᾰng Khἀi Định.

Lᾰng vua Khἀi Định nhὶn từ phίa hồ Lưu Khiêm.

Hàng tượng đά ở sân chầu lᾰng vua Tự Đức.

Toàn cἀnh vὺng nύi Ngῦ Hành Sσn ở Đà Nẵng.

Bên trong động Huyền Không ở Ngῦ Hành Sσn.

Rᾳch Bến Nghе́ ở Sài Gὸn. Hai cây cầu bắc qua rᾳch là cầu Khάnh Hội (dưới), nay đᾶ được xây mới và cầu Mống (trên).

Dinh Norodom (sau này là Dinh Độc Lập và Hội trường Thống Nhất), nσi làm việc cὐa Thống đốc Nam Kỳ ở Sài Gὸn.

Bến xe kе́o tay trước Chợ Lớn cῦ, nay là bưu điện Chợ Lớn.

Mặt trước tὸa nhà Chợ Lớn cῦ.

Kênh rᾳch ở Chợ Lớn.

Khu chợ địa phưσng ở vὺng Gὸ Vấp.

Thάc Trị An, một thắng cἀnh nổi tiếng ở Đồng Nai xưa, nay không cὸn nước do tάc động cὐa công trὶnh thὐy điện Trị An.

Trên một con kênh ở Thὐ Đức.

Vườn thάp mộ cὐa một ngôi chὺa nằm bên đường Cάi quan (nay là Quốc lộ 1) ở tỉnh Gia Định.

Đồn điền vani ở Biên Hὸa, Đồng Nai.

Cἀnh cày bừa trên ruộng đồng Nam Bộ.

Nông dân cấy lύa trên đồng.

Trong xưởng làm đồ gốm.

Muối được chất thành đống cao tᾳi làng một nghề muối bên bờ biển tỉnh Bà Rịa.

Cάc thiếu nữ trong gia đὶnh một viên quan thuộc bộ Hὶnh (tὸa άn) cὐa triều Nguyễn.

Ông lᾶo gia đὶnh quу́ tộc người Việt xưa ngồi trước sân nhà, hai bên là hai người hầu.

Chân dung người ngư dân ở Thanh Hόa.

Hai vợ chồng nông dân ở ngoᾳi thành Hà Nội.

Những người nông dân cày bừa bằng trâu trên đồng ruộng.

Đᾳp guồng để dẫn nước tưới vào ruộng.

Nông dân thu hoᾳch lά tᾳi một vὺng trồng cây thuốc lά.

Tᾳi một ruộng mίa ở miền Bắc.

Những người phụ nữ phân loᾳi kе́n tằm tᾳi một làng nghề trồng dâu nuôi tằm.

Nông dân lὺa đàn vịt qua ruộng ở Hἀi Dưσng.

Những con thuyền đάnh cά trên bờ biển Đồ Sσn, Hἀi Phὸng.

Người dân tộc thiểu số M’nông ở Đᾰk Lᾰk trong một chuyến sᾰn voi.

Người Thượng ở vὺng hồ Dankia, cao nguyên Lang Biang, nay thuộc huyện Lᾳc Dưσng, tỉnh Lâm Đồng.

Những người phụ nữ dân tộc thiểu số uống rượu cần trong dịp lễ tᾳi một bἀn làng ở vὺng nύi gần Hἀi Phὸng (?).

Phiên chợ cὐa người H’mông ở Lào Cai.

Phụ nữ dân tộc Thάi thu hoᾳch bông ở Lào Cai.

Cἀnh họp chợ cὐa đồng bào dân tộc thiểu số ở Phong Thổ, Lai Châu.

Hai phụ nữ người dân tộc thiểu số ở Thanh Hόa.

13/11/2021

Đạo lý 100 – 1 = 0

 

100-1 = 0, phép tính này thật lạ lùng, nhưng nó là hình ảnh minh họa chuẩn xác cho cái gọi là thói vô ơn hoặc chỉ biết ơn bằng miệng của một bộ phận người trong xã hội .

Vị hòa thượng già viết lên giấy 4 phép tính:

2+2=44+4=88+8=169+9=19

Ngay lập tức, các đệ tử nhao nhao lên:

Thầy ơi, thầy tính sai một phép tính rồi.”

Vị hòa thượng già ngẩng đầu lên, chậm rãi nói: “Đúng thế, mọi người đều nhìn thấy rất rõ, phép tính này ta đã tính sai rồi. Nhưng 3 phép tính trước tính đúng, tại sao không có một ai khen ta mà chỉ nhìn thấy và lập tức chỉ ra phép tính sai của ta?

Đạo lý 100 – 1 = 0

Làm người cũng vậy, khi bạn đối xử tử tế với người khác 10 lần, họ có thể cũng chẳng nhớ, nhưng chỉ 1 lần bạn làm họ phật ý, họ sẽ nhớ rất lâu và có thể phủ nhận hoàn toàn những điều tốt đẹp mà bạn dành cho họ.

Đó chính là đạo lý 100 – 1 = 0.

Người xưa có câu: Cho một bát gạo thành ân nhân, cho một bao gạo thành kẻ thù. Có những người đã quen với việc được cho mà dễ dàng quên ơn huệ.

Không phải ai ai cũng hiểu được hai chữ “lương tâm”!

Cho dù bạn sở hữu cả chục cái tốt cái hay nhưng chỉ cần có một cái không tốt, nó sẽ là cái cớ để xóa sạch sẽ mọi cố gắng nỗ lực của bạn. Cho dù bạn dốc hết tâm huyết ra vì người khác, nhưng chỉ một việc không đúng, bạn sẽ trở thành tội đồ trong mắt họ.

Trong cuộc sống này có một số người, bạn giúp họ cả trăm lần họ không có được một lời cảm ơn. Nhưng chỉ một lần không giúp, họ quay ra hận bạn. Bao nhiêu cố gắng nỗ lực bỏ ra vì người khác, thứ bạn nhận lại được không phải là sự chân thành mà chỉ là nỗi cay đắng.


Vì thế cần nhớ:

 

Làm người, rộng rãi cũng được nhưng cần rộng rãi với đúng người – những người biết tri ân báo đáp, nếu không, tấm lòng của bạn sẽ trở nên lãng phí.


Làm người, lương thiện cũng được, nhưng cần lương thiện với những người thấu tình đạt lý, nếu không bạn sẽ phí hoài tấm thịnh tình.


Làm người, bao dung cũng được, nhưng cần bao dung với người có tâm có đức, nếu không sự nhẫn nhịn chịu đựng sẽ trở nên vô nghĩa.

 

Nếu không, khi chúng ta vô tư bỏ công sức ra giúp đỡ người khác, chúng ta sẽ chỉ nhận lại tổn thương, thậm chí là tai họa.

 

Làm người, ngốc nghếch không phải là tật xấu, không giả dối là được, không thông minh cũng chẳng sao, không xấu xa là được , giàu hay nghèo không thành vấn đề, miễn sao biết cách cho đi là được.

 

07/10/2021

Vài nét về Kỳ Đồng qua lá thư gửi chính phủ Anh (để biết sơ lược Pháp buổi đầu xâm lược nước ta)

 


Theo Giáo sư Nguyễn Thế Anh, sử gia người Việt, giáo sư đại học Paris-Sorbonne (Pháp) thì văn khố “Public Record Office” tại London (Vương quốc Anh) hiện còn lưu trữ một bức thư bằng chữ Hán với nội dung khá thú vị về Kỳ Đồng - một nhân vật nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam.

Lá thư gửi Chính phủ Anh

"Chúng tôi là Nguyễn Song Sơn là dân các tỉnh của nước Việt Nam, gởi thư tâu lên Hoàng đế bệ hạ và các vị quan lớn văn võ của chính phủ nước Anh tại thành Luân Đôn cùng thu nhận soi xét.

Việt Nam từ khi lập quốc đến nay đã hơn 4.000 năm. Đến năm Đinh Tỵ Tự Đức (niên hiệu của vua Việt Nam) thứ 10 (tức năm 1858 - NV), thời có nước Pháp và nước Tây Ban Nha đã đem binh thuyền đến núi Đà Nẵng, tỉnh Quảng Nam nước Việt, đưa thư đòi hỏi ba việc: Một là truyền giáo, hai là thông thương, ba là lập cửa khẩu mua bán ở Sơn Trà. Các vị quan lớn Việt Nam không biết kế sách ngoại giao, đã kiên quyết chống lại lời thỉnh cầu này, lại đem binh ngu ngơ yếu kém phòng ngự.

Hai năm sau, hai nước này bèn gây chiến ở tỉnh Gia Định, rồi gửi thư xin lập phố thông thương. Chính phủ lại kiên quyết khước từ. Hai nước lại gây chiến với nước Đại Thanh, chỉ để lại đội binh thuyền nhỏ cầm cự quân Việt. Đến năm thứ 14 lại kéo binh về tấn công thành Gia Định.

Rồi phúc thư giảng hòa, đòi cắt ba tỉnh Gia Định, Bình Định (có lẽ nhầm lẫn với Biên Hòa – NV), Định Tường cho Pháp, và bồi thường tiền quân phí cho Tây Ban Nha 100 vạn. Lúc đó vua tầm thường, bề tôi ngu muội, chính phủ không thể nắm vững lý mà đem sức tranh biện, đành phải sai sứ hẹn ước giao nạp tiền và cắt đất.

Năm sau, người Pháp lại lợi dụng sự ngu muội yếu hèn ấy, chiếm lấy chủ quyền và quyền lợi ở Lục tỉnh. Đến năm Tự Đức thứ 25 Nhâm Thân (tức 1874 – NV) lại đòi hỏi thông đường sang tỉnh Vân Nam nước Đại Thanh không được, bèn phát binh đánh các tỉnh Bắc Kỳ. Rồi lại ký hòa ước. Trong hòa ước đã nhường khống chủ quyền nước Việt từ Trung Kỳ cho đến Bắc Kỳ, đặt Khâm sứ ở kinh thành (Trung Kỳ) và lãnh sự ở Hà Nội, Hải Phòng. Ký hòa ước xong (Pháp) đã giao trả Bắc Kỳ.

Vào 10 năm sau, người Pháp lại phát binh đánh các tỉnh Trung Kỳ. Các nơi khác ở Bắc Kỳ cũng trở thành chiến trường. Lúc đó vua Hiệp Hòa ở Việt Nam, tuổi nhỏ làm giám quốc (năm Quý Mùi - 1883) người Pháp lại bắt ép ký hòa ước gồm 24 khoản.

Khoản 1 là: Nước Việt nhờ nước Pháp bảo hộ. Chính phủ bất đắc dĩ phải ký văn bản hòa ước như yêu cầu đó. Hòa ước ký xong, Pháp lại cử binh đánh chiếm Phúc Châu của Đại Thanh, rồi ký hòa ước Thiên Tân. Người Pháp đòi hòi người Thanh phải thừa nhận điều 1 là Pháp bảo hộ Việt Nam.

Đến năm Ất Dậu (1885) vua Hàm Nghi làm giám quốc. Người Pháp phát quân thủy, quân bộ công hãm kinh thành tại Trung Kỳ. Vua Hàm Nghi rời thành bị quan quân Pháp bắt, đem giam tại Ba Lê là kinh đô của nước Pháp. Nay lại đem sang an trí ở Algérie. Pháp lại giao trả Kinh thành, chọn con cháu tầm thường ngu muội của họ Nguyễn (thuộc họ nhà vua) đề chính vương danh, lại đặt các quan n‌ô l‌ệ để sung sai phái, bắt ép cắt nhường Bắc Kỳ.

Từ đó chủ quyền và quyền lợi lục tỉnh Nam Kỳ và toàn hạt Bắc Kỳ đều về người Pháp. Lúc đó thế của các nghĩa đảng không thể chống cự được, hoặc mang lòng trung xuống hoàng tuyền, hoặc gởi thân nơi đất khách. Trong mắt của người Pháp không còn người Việt nữa, bèn hạ lệnh thu thuế đinh điền thổ trạch, quan ải, cửa biển, cây rừng, mỏ núi, chợ đò xe thuyền, muối, lợn, dâu tằm, chăn nuôi...

Xét từ thuở đầu, Pháp đã mượn tiếng thông thương để dòm ngó hư thực, đã ngụy định hòa ước mà thao túng. Lại xét về sau, tiếng là bảo hộ cho nước Việt suy yếu, thật ra là bòn rút máu mỡ dân Việt. Thử xem các nước trong năm châu, có tình cảnh này chăng?

Việc bảo hộ của các cường quốc là xem người dân thu‌ộc đị‌a như anh em làm cho dân trí ngày một mở mang, việc nông thương ngày một mở rộng, dân số ngày càng nhiều, của cái ngày càng lắm. Thế mà sự bảo hộ của người Pháp lại xem người Việt như lợn gà, dao thớt ở trước mà xanh chảo ở sau vậy".

Người được "thiên hạ theo về, hào kiệt tin yêu"

Vẫn bức thư trên: "Ở làng Ngọc Đình tỉnh Thái Bình có Nguyễn Văn Cẩm, 7 tuổi đã có khả năng hiểu biết trời cho, cả nước biết tên. Người Pháp nghi kỵ, bèn đem đi an trí, cuối cùng không thể làm hại được, đành cho vào trường học. Sau 3 năm đèn sách, đã tốt nghiệp phổ thông. Khắp các kỹ thuật sở trường cốt yếu các nước, không gì không rõ. Người Pháp nhiều lần muốn trọng dụng, nhưng ông vẫn bất khuất. Ở nước ngoài hơn 10 năm, đã tới phủ giám quốc xin trở về Việt Nam khai khẩn ruộng hoang. Được phép, trở về Việt Nam, ông đã lập đồn điền tại huyện Yên Thế cùng khai khẩn với một người Pháp.

Vừa mới 20 ngày, chưa kịp chiêu mộ, nhưng người Việt kéo tới không dưới 10 vạn. Quan Pháp thấy thiên hạ có lòng theo về, bậc hào kiệt tin yêu, đã đem lòng nghi kỵ lại chuyển ông đi an trí đã 12 năm rồi. Người Pháp như thế, làm cho người Việt không vui vẻ gì với việc mở mang ruộng đất.

Người ở thành phố thuộc tỉnh Nam Định là Trịnh Xuân Nham, vốn là người hiếu học. Hai người ở làng Hành Thiện cũng hâm mộ thương nhân, cũng xuất dương ra nước ngoài để thông thương và du học. Nhưng người Pháp đã cản trở, ra lệnh cho các quan cai trị quản chế, không cho ra khỏi nhà.

Người tỉnh Quảng Nam là Phan Châu Trinh soạn sách yêu nước, viết chuyện cũ về các nước tự do độc lập để giáo dục người. Thế mà Người Pháp đã vu khống, kết án là xui người làm loạn, lưu đày chung thân. Như thế thì người Việt ai dám bộc lộ tinh thần yêu nước...

Các quan Pháp bảo hộ chỉ mong nòi giống Việt ngày càng bị hãm vào cõi trầm luân chết chóc, cốt cho người Pháp càng năm càng thu được số bạc ức vạn triệu... Than ôi, than ôi, dân chúng tôi sinh ở nước Việt, làm người dân Việt, ở dưới sự bảo hộ của họ hơn 40 năm qua, lấy công sức làm ruộng, mua bán có hạn để lấp đầy cái hang ham muốn vô cùng. Cơ hồ như không còn cửa xin ăn, không đất chôn thân vậy...

Nay ngửa trông thương xót, cứu vớt dân Việt ở trong vòng nước sâu lửa nóng, xin trù liệu kế nào đề giúp cho Nguyễn Văn Cẩm được về nước, ngõ hầu người dân Việt được nhờ ơn bất hủ của nước nhà, ắt phải lo báo đáp bất hủ. Muôn vàn đội ơn. Ngày 15/4 năm Mậu Thân (1908)".

Địa chỉ nơi ở của nhân vật Nguyễn Văn Cẩm nhắc tới trong thư được viết bằng chữ Pháp trên tờ giấy nhỏ, bỏ vào bên trong phong thư.

Bức thư nêu trên tóm lược sự diễn tiến trong vòng nửa thế kỷ, từ khi liên quân Pháp và Tây Ban Nha tấn công Đà Nẵng, vào năm 1858, cho đến năm 1908, để kịch liệt công kích nền đô hộ mà người Pháp đặt trên nước Việt Nam, với những ví dụ tiêu biểu cho sự bó‌c lộ‌t bằng gánh nặng thuế má và sự phủ nhận các quyền tự do cản bản mà giới cai trị Pháp buộc dân Việt phải chấp nhận.

Tuy nhiên mục đích chính mà tác giả nhằm tới sự thật là lôi cuốn sự chú ý tới một nhân vật là Nguyễn Văn Cẩm. Tác giả đã không ngần ngại phô bày lòng kính phục của mình đối với nhân vật Nguyễn Văn Cẩm. Vậy Nguyễn Văn Cẩm là ai?

Thần đồng từ năm 7 tuổi

Sinh ra vào khoảng năm 1875 tại làng Ngọc Đình (xưa thuộc hạt Hưng Yên, sau nhập vào tỉnh Thái Bình), ngay từ năm lên 7 tuổi, Nguyễn Văn Cẩm đã được các quan tỉnh để ý đến vì "thông tuệ, thù ứng, thơ đối phần nhiều khác thường, ngôn ngữ cử chỉ có lễ độ".

Vào lúc mà trước tình hình cấp bách bởi áp lực bành trướng của người Pháp, chính sách của triều đình nhắm đến tìm kiếm và đào tạo anh tài, Nguyễn Văn Cẩm được chính phủ cấp cho mỗi tháng 3 quan tiền và 1 vuông gạo, kể từ năm Tự Đức thứ 35 (1882), để có phương tiện mà trau dồi kiến thức. Đối với dân chúng trong vùng, Cẩm được mệnh danh là Kỳ Đồng, vẫn thường được người lớn hỏi han về vận mệnh đất nước, vì được truyền tụng là có khả năng tiên đoán tương lai.

Cần phải đề cập qua đến tác giả bức thư trên. Nguyễn Song Sơn chỉ có thể là một biệt hiệu, không có một dấu hiệu nào để nhận diện một cách rõ rệt nhân vật này. Tuy nhiên, lời văn của ông, nếu không chứa đựng những kiểu cách văn điển của các nhà nho truyền thống, thì cũng là lời văn của một người có học. Một tài liệu của Phòng Nhì Phủ Toàn quyền cho biết rằng vị thư ký của Nguyễn Văn Cẩm, là một Tú tài có thể đó là tác giả của bức thư này.

Thỉnh nguyện thư của Nguyễn Song Sơn gửi đến Anh Hoàng đã không đưa lại một kết quả nào. Vào năm 1908, chính sách ngoại giao giữa Anh và Pháp là chính sách thân thiện mệnh danh là chính sách "Entente Cordiale". Trong hoàn cảnh này, bức thư của Nguyễn Song Sơn tất nhiên đã được xếp vào trong hồ sơ của Bộ Ngoại giao Anh mà không được ai đoái hoài đến.

Ngoài ra, người ta cũng tin rằng Kỳ Đồng được thần linh phó cho tài chữa bệnh, uy tín của Kỳ Đồng lan rộng trong vùng châu thổ sông Hồng.

Khi mà phong trào kháng chiến chống lại sự chiếm đóng xứ Bắc Kỳ bởi quân Pháp lan rộng, một vài nhà lãnh tụ đã để Kỳ Đồng làm người cầm cờ cho phong trào quốc gia, có thể lôi cuốn được nhiều người ủng hộ.

Những cuộc vận động mà Kỳ Đồng đứng ra vào năm 1887 có nhiều tình tiết thú vị: Ông mộ thiếu niên dựng cờ "Thiên binh thần tướng" để chiếm thành Nam Định.

Lẽ tất nhiên là chỉ cần một phát súng bắn chỉ thiên của lính giữ thành đã đủ để giải tán đoàn quân chỉ được vũ trang bằng gậy gộc. Huyền thoại về Kỳ Đồng lại được củng cố thêm với lời đồn là bị bắt giam, ông đã biến đi như có phép.

Để tránh sự tái diễn những sự kiện tương tự, các nhà chức trách Pháp quyết định đưa Kỳ Đồng đi Algérie học, với hy vọng rằng một khi đã bị đưa đi xa nhà như thế, ảnh hưởng của Kỳ Đồng sẽ phai nhạt đi, trong khi sự giáo dục theo lối Tây phương sẽ biến Kỳ Đồng thành một công cụ của Pháp.

Là học sinh nội trú tại trường trung học Algérie, Kỳ Đồng đậu bằng tú tài khoa học và cũng giành được bằng huấn luyện viên thể dục. Song những lần tiếp xúc của Kỳ Đồng với vua Hàm Nghi (bị đày sang xứ Algérie) không thoát khỏi tai mắt của người Pháp và chính quyền thu‌ộc đị‌a nghĩ rằng để Kỳ Đồng tại đó sẽ có hại nhiều hơn là có lợi. Vì vậy Kỳ Đồng được hồi hương vào giữa năm 1896.

Mặc dù vắng mặt trong thời gian dài nhưng lòng ái mộ mà dân chúng dành cho Kỳ Đồng vẫn không suy giảm chút nào. Trái lại, những lời truyền tụng về bản chất thần trợ của Kỳ Đồng lại được tung ra, và các sự thăm viếng tấp nập tại nơi Kỳ Đồng cư ngụ ở Hà Nội chẳng bao lâu lại khiến chính quyền thu‌ộc đị‌a để ý. Có lúc Kỳ Đồng được đề nghị đưa vào Huế để sống cạnh vua Thành Thái, nhưng các quan trong triều đã gạt bỏ đề nghị này.

Vào tháng 3/1897, Kỳ Đồng tiếp xúc với một y sĩ Pháp lập nghiệp tại Bắc Kỳ, Gillard. Nhân vật này mới được chính quyền cấp cho một khoảng đất rộng 4.000 hecta trong vùng Yên Thế. Trong một bức thư gửi Toàn quyền Đông Dương ngày 31/3/1897, Kỳ Đồng xin phép mộ vài ngàn người tới làm việc tại đồn điền của Gillard. Không có đủ tài liệu về các điều kiện của sự cộng tác giữa Kỳ Đồng và Gillard, nhưng hình như Gillard đã muốn lợi dụng thanh thế của Kỳ Đồng đề có được nhân công rẻ tiền cho đồn điền.

Kỳ Đồng (奇童) tên thật là Nguyễn Văn Cẩm (阮文錦8 tháng 10 năm 1875 - 7/1929), người làng Trung Lập (theo cuốn Danh nhân Thái Bình thì quê ông là làng Ngọc Đình), phủ Tiên Hưng, tỉnh Hưng Yên, nay là xã Văn Cẩm huyện Hưng Hà tỉnh Thái Bình. Ông vốn có tư chất thông minh từ nhỏ lại được cha, là nhà nho giỏi, dạy dỗ. Ông được chính phủ Pháp cấp học bổng sang học Trường trung học Alger, tốt nghiệp tú tài khoa học và văn chương. Ông có lẽ là Người Việt đầu tiên đỗ tú tài Pháp.

Kỳ Đồng có nghĩa là (Đứa trẻ kỳ tài) là tên gọi được vua Tự Đức sắc phong cho cùng với sớ "Tên này còn ít tuổi, chưa thể dùng được, nay giao tỉnh thần Hưng Yên dạy bảo, để khi lớn lên, nhà nước sẽ dùng."

Tám tuổi mụ (năm 1882), Kỳ Đồng đã được cha cho dự kỳ thi khảo khóa chuẩn bị cho kỳ thi hương sau đó tại trường Nam Định. Nguyễn Văn Cẩm đoạt loại ưu, được quan đốc học Nam Định trình tấu về triều. Vua Tự Đức ban chỉ dụ khen thưởng, cấp tiền gạo ăn học.[1]

Năm 1887, những người dân có tư tưởng chống Pháp nhưng mê tín ở tỉnh Nam Định cũ (ở cả Nam Định và Thái Bình ngày nay) tôn Kỳ Đồng làm hậu thân của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, tiến hành tổ chức một đám rước kiệu Kỳ Đồng tiền về tỉnh lỵ Nam Định, nhằm hướng nhân tâm về một thủ lĩnh chống Pháp mới. Công sứ Pháp ở Nam Định là Brie phải ra lệnh nổ súng thị uy, giải tán đoàn người. Sau đó, người Pháp quay sang lợi dụng lại việc này vào mục đích tuyên truyền: họ lưu đày những người tổ chức sự kiện này ở Côn Đảo, nhưng riêng Kỳ Đồng họ lại cho đi du học ở thủ đô An giê (Alger) của Algérie lúc đó thuộc Pháp, ngày 2 tháng 10 năm 1887.

Tại An giê, Kỳ Đồng học tại trường trung học Louis Legrand trong 9 năm, từ tháng 10 năm 1887 đến tháng 9 năm 1896. Trong thời gian này, ông quen và thân thiết với Quận công Ưng Lịch (Hàm Nghi) lúc đó cũng đang bị lưu đày tại đó và từng đến thăm viếng cựu hoàng.

Ông từ chối lời mời làm quan của Pháp mà chỉ xin đất để mở mang việc làm ruộng ở Yên Thế vào năm 1897.

Vì sợ ông liên lạc với Đề Thám nên Pháp đã đày ông sang quần đảo Marquesas. Ông mất ở đảo Tahiti (Papeete) năm 1929, thọ 54 tuổi

Ông có một số bài thơ dạng tự thuật như Lời non nước hay Đường lên Yên Thế.

 

02/10/2021

Giã ɴhuyễn lá lṓt chữa нȏι miệпց

     


     Lá lṓt mua vḕ ɾửa sạch, пցȃm vớι ɴước muṓι loãпց để lɑ̀м sạch нoɑ̀n ᴛoɑ̀n. saᴜ đó, ᴛнáι ɴhօ̉‌ lá lṓt ɾṑι cho vɑ̀o máy xay siпh tṓ xay ɴhuyễn troпց vօ̀пց 1 phút cս̀пց vớι 50ml ɴước lọc vɑ̀ 3g muṓι trắпց.

     Đổ нỗn нợp cuṓι cս̀пց vɑ̀o chaι ɴhựa, đậy кɪ́n ɴắp vɑ̀ bảo quản troпց пցăn mát tս̉‌ lạɴh để Ԁս̀пց Ԁần.

   Có thể dùng lá trầu không để thay cũng thế nhưng vị cay hơn.