(Phần 6)
18 Tượng Tổ chùa Tây Phương
Mười tám pho tượng Tổ chùa Tây Phương được coi là một bộ
tượng hoàn thiện nhất của điêu khắc gỗ Việt Nam trong thế kỉ 18. Các pho tượng
đã thoát ra ngoài các khuôn mẫu chuẩn mực của các tượng Phật, Bồ tát, để mang
lên mình nó những sáng tạo, cảm hứng sống động.
Nếu như các tượng Phật thường ở trong trạng thái Tĩnh: ngồi
vững chãi trên tòa sen, mắt nhắm hờ, bất động chìm trong cõi bất khả tư nghị,
các nếp áo đều phủ xuống lặng lẽ; thì các tượng Tổ chùa Tây Phương ở trong
trạng thái Động: đứng, ngồi, nói, thuyết, quạt, ngoáy tai... rất sinh động
phong phú, các tà áo bay tung, bước chân vững chãi... Các nghệ nhân dân gian vô
danh đã thổi hồn cuộc sống vào các tượng Tổ này, hơn bất cứ pho tượng nào trong
chùa.
Điều này chỉ thực sự cảm nhận được khi ngắm trực tiếp.
Trong 18 tổ, thì hai tổ Ca Diếp và A Nan được đặt ngay trên
bàn thờ chính điện, còn 16 pho khác bày trong chùa thượng.
Tổ thứ 1: Tôn giả Ca Diếp
Tổ thứ 2: Tôn giả A Nan
Ca Diếp đã từng làm kim hoàn, nên tượng ông có đeo nhiều châu
báu trang sức. Ông được tạc với bộ râu và dáng vẻ như vừa khoát tay, tay áo còn
đang bay.
A Nan là người nhớ và đọc lại tất cả kinh Phật, nên được tạc
trong tư thế hoan hỉ ôm bộ kinh sách. Ông là tượng trưng của các vị thánh hiền
truyền giáo.
Tổ thứ 3: Thương Na Hòa Tu
Tổ thứ 4: Ưu Bà Cúc Đa
Tượng Thương Na Hòa Tu mô tả ông đang quan sát và suy nghĩ về
đệ tử của mình là Ưu Bà Cúc Đa, dáng vẻ suy tư, chìm sâu vào triết lý.
Ưu Bà Cúc Đa mỗi khi cứu độ được một người thì bỏ một thẻ tre
vào trong hang. Về sau hang đá đầy đến tận nóc. Tượng ông tay trái cầm một cuộn
sách, tay phải cầm một thẻ tre (đã bị mất). Tượng này ngồi nhấp nhổm rất sinh
động, có cảm tưởng tượng sắp đứng lên để cật vấn người đối diện.
Pho Thương Na Hòa Tu có lẽ ứng với đoạn thơ của Huy Cận:
Có vị mắt giương, mày nhíu xệch
Trán như nổi sóng biển luân hồi
Môi cong chua chát, tâm hồn héo
Gân vặn bàn tay, mạch máu sôi
- Tổ 5: Đề Đa Ca
- Tổ 6: Di Giá Ca
Tượng Tổ thứ 5 Đề Đa Ca trong tư thế chắp tay chào chư thiên.
Theo truyền thuyết, khi ấy ông gặp Di Già Ca là người tu đạo tiên đang cùng với
tám ngàn vị tiên đệ tử, nên chắp tay chào họ và thuyết pháp. Cả và tám ngàn chư
thiên đều nguyện theo Phật pháp, Di Già Ca cũng vậy.
Tổ thứ 6 Di Già Ca mô tả ông đang đứng giữa một chốn đông
người, tay đưa ra như bấm độn, mặt ngơ ngác hoảng hốt tìm hiểu, bởi lẽ ông đang
phân vân giữa đạo tiên mà ông tu luyện bấy lâu với đạo Phật mà ông mới tiếp
nhận từ Đề Đa Ca.
Hai pho này thể hiện rất hay một cặp Thầy - Trò, một bên tĩnh
tại bình thản cung kính, một bên còn đang hoang mang biến động khi mới bước
chân vào đạo.
Tổ thứ 7 Bà Tu Mật khi chưa xuất gia thích
kết giao bạn bè, thơ ca, uống rượu, ăn mặc lịch sự. Tượng được tạc trong tư thế
cung kính niệm phật, miệng đang há mở chào hỏi, cầu mong phúc cho người đối
diện, quần áo trang phục chỉnh tề đẹp đẽ.
Tổ thứ 8 Phật Đà Nan Đề, người béo tốt, lúc nào cũng
ung dung tự tại. Dáng vẻ tượng rất hoan hỉ, người ngả ra sau thoải mái, tay cầm
cái que đang ngoáy tai, quần áo xuề xòa buông thõng.
Tổ thứ 9 Phục Đà Mật Đa đến 50 tuổi vẫn không
nói, không đi ra khỏi nhà, vì chưa nghe được điều gì hay cả, cho đến khi Phật
Đà Nan Đề đến tận nhà truyền pháp. Vì thế tượng tạc lúc ông đã lớn tuổi, nhưng
lần đầu mới được ngộ giáo lý, thể hiện qua việc đọc cuốn sách, mặt mũi sung
sướng hân hoan.
Tổ thứ 10 Hiệp tôn giả luôn tu hành và du hành
không bao giờ ngừng nghỉ, không cả đặt lưng ngủ nữa. Truyền thuyết kể khi ông
đang đứng tựa một gốc cây thì nhận ra chú bé từ xa sẽ là bậc thánh, và ông đã
thuyết pháp cho chú bé ngay dưới gốc cây, về sau chú bé trở thành tổ thứ 11 Phú
Na Dạ Xa
Tổ 11 là Phú Na Dạ Xa, không rõ vì sao không được
nói đến và tạc tượng. Từ Tổ thứ 10 chuyển sang 12 luôn
Tổ thứ 12 là Mã Minh, theo truyền thuyết thì có thể thuyết pháp giáo hóa cho cả giống súc vật. Tượng tạc ngài đang thuyết cho cả giống Rồng.
Trong thực tế, Tổ Mã Minh là một nhà thơ, triết gia nổi tiếng
ở khoảng thế kỉ 1, là một trong 4 thánh triết trụ cột của Phật giáo Đại thừa.
Ngài là tác giả của nhiều bộ sách, trong đó có tác phẩm Đại thừa Khởi
tín luận, bộ luận căn bản cho Đại thừa.
Tổ thứ 13 là Ca Tỳ Ma La, theo truyền thuyết thì có
lần mãng xà cuốn quanh thân ông muốn ăn thịt, nhưng Tổ thuyết pháp khiến rắn
cũng kính ngưỡng, lại chỉ cho ngài một bậc thánh còn ẩn trong rừng là Long Thụ.
Ca Tỳ Ma La thuyết pháp và truyền cho Long Thụ.
Tổ thứ 14 Long Thụ (Thọ) Tôn giả cũng
là một trong 4 vị thánh triết Phật giáo Ấn Độ, luận sư vĩ đại nhất. Ngài là tác
giả bộ Trung Quán Luận và kinh Hoa Nghiêm nổi tiếng.
Thậm chí Phật tử cho rằng khi ngài nói pháp là Chuyển pháp
luân lần thứ hai (lần thứ nhất là Thích Ca thuyết pháp).
Thời sau coi ngài ngang hàng một vị Đại Bồ tát, một vị Phật
sống. Vì thế trong 18 Tổ kế đăng, chỉ duy nhất Tổ Long Thụ được tạc ngồi trên
tòa sen. Tượng Long Thụ cũng là tượng người thật duy nhất có nhục khế trên đỉnh
đầu, sánh ngang với tượng Thích Ca Mâu Ni.
Theo truyền thuyết thì Phật Thích Ca cất bộ kinh Hoa Nghiêm ở
Long cung dưới đáy biển trong 600 năm. Long Thụ đã dùng thần thông xuống tận
Long cung lấy bộ kinh đó. Tượng Long Thụ chùa Tây Phương ngồi bên cạnh con
rồng, trên đầu rồng để cuốn kinh, là để mô tả truyền thuyết này.
Tổ thứ 15 Ca Na Đề Bà không được nhắc đến.
Tổ thứ 16 La Hầu La Đa xuất thân trong gia
đình trưởng giả giàu có, ăn sung mặc sướng. Tượng ngài tạc trong dáng ngồi suy
tư khổ não, tượng quy nhất đội khăn nhà giàu trên đầu, cầm gậy thể hiện uy thế,
móng tay rất dài là biểu thị là người giàu có sung sướng thời đó (người nghèo
phải lao động không thể để móng tay dài). Bên cạnh có con hươu nghe thuyết
pháp.
Tượng La Hầu La Đa được đánh giá là pho đẹp nhất trong toàn
bộ 18 pho, mang dáng vẻ đời thường của một ông già Việt Nam, khắc khổ hà tiện,
các ngón tay được điêu khắc ở trình độ tuyệt hảo.
Tổ 15 là Thánh Thiên tôn giả, là
một trong 4 thánh triết Phật giáo, nhưng không hiểu sao lại không được vẽ hình
và tạc tượng trong hệ thống 18 Tổ.
Tổ thứ 17 là Tăng Già Nan Đề được
tạc trong tư thế ngồi thiền bên bờ sông. Kiểu ngồi thiền của Tổ rất đặc biệt,
không phải xếp bằng tròn hai tay trước bụng như thông thường, mà là tư thế dân
dã như đang ngồi nói chuyện, mặt mũi nhẹ nhõm.
Tổ thứ 18 Già Da Xá Đa khi còn bé thường mang
một cái gương để soi lại chính mình, cho đến khi đắc đạo vẫn còn có chiếc gương
đó mang theo. Vì thế tượng của Tổ trong tư thế đang bước đi, tay cầm chiếc
gương tròn quay về phía sau. Pho tượng này rất sống động qua hai ống tay áo bay
phất phơ.
Tổ thứ 19 Cưu Ma La Đa là vị thứ tư trong 4
thánh triết Phật giáo (3 vị kia gồm Mã Minh, Long Thụ, Thánh Thiên). Truyền
thuyết nói rằng Tổ vốn là một vị tu tiên trên trời, phạm lỗi mà phải xuống cõi
người. Tượng của Tổ được tạo với dáng vẻ rất béo tốt ung dung, miệng cười thỏa mãn,
tay cầm một bông hoa to.
Tổ thứ 20 Xà Dạ Đa trí tuệ thâm sâu cao
siêu, được tạc với một hình dung rất cổ quái: thân thể gày gò giơ xương, tay
đang cầm cái que gãi lưng có vẻ rất khó chịu khổ sở; thế nhưng đầu rất to thể
hiện suy nghĩ sung mãn.
Hai pho này thể hiện sự đối lập thú vị, giữa béo tốt thỏa mãn
thoải mái với gầy gò dằn vặt khổ sở.
Trên đây là 18 pho tượng Tổ kế đăng Thiền tông chùa Tây
Phương, là những tác phẩm kinh điển hàng đầu của nền nghệ thuật điêu khắc cổ
Việt Nam. Cùng với pho Quan Âm thiên thủ thiên nhãn chùa Bút Tháp, bộ tượng này
được gọi là "Tập đại thành của điêu khắc Việt Nam".
Quả thật, bộ tượng hàm chứa những nhân sinh quan của các nghệ
nhân cách đây hai trăm năm một cách sinh động, đầy sức sống. Nếu như thời Lê, các
pho tượng La hán chỉ mang tính hình tượng ước lệ sơ sài, các vị la hán được tạo
tác với khuôn mặt, hình thể đơn điệu giống nhau, không mang chiều sâu, thì bộ
tượng này có những chiều tâm thức rất rõ nét. Vui, buồn, đau khổ, vui sướng,
hoang mang, suy ngẫm, dằn vặt, thỏa mãn,... đều được thể hiện đầy đủ.
Bộ tượng Tổ này là sớm nhất, đồng thời là đẹp nhất. Chính vì
thế về sau các chùa theo Thiền tông đã bắt chước phong cách này, tạo tác các
hình ảnh tương tự để thờ trong chùa. Chẳng hạn trong nhà tổ chùa Quán Sứ có vẽ
lại các tượng này, hai dãy hành lang chùa Côn Sơn cũng treo tranh vẽ các tượng
này, hay chùa Thổ Hà còn làm bắt chước với kích thước nhỏ hơn để thờ hai bên
hành lang.
Như thế, từ những bức tượng mang tính riêng biệt, riêng có
tại chùa Tây Phương, hình ảnh này đã được chấp nhận như là chuẩn mực, khuôn mẫu
của các tượng Tổ kế đăng,
Nếu ai đã có công đi thăm các ngôi chùa miền Bắc, đừng quên
đến với chùa Tây Phương, để thăm những tuyệt tác của cha ông để lại.