24/02/2023

Thứ gì quý nhất trên đời

 

Thiền sư hỏi đệ tử: “Thứ gì quý nhất trên đời?”

Đệ tử nói: “Thứ đã mất, không thể lấy lại được”.

Thiền sư không nói gì.

Sau vài năm, những thay đổi lớn đã diễn ra.

Thiền sư hỏi lại, đệ tử trả lời: “Thứ quý nhất trên đời là có được!”

Cảm nhận: Thứ quý giá nhất trên đời này không phải là mất đi và không lấy lại được mà là những gì chúng ta có bây giờ. Hãy trân trọng tất cả những gì đang có hiện tại, đừng tiếc nuối quá khứ, đừng than trách số phận, đừng để lại bất cứ điều gì hối tiếc trong cuộc đời này!

17/02/2023

NƯỚC VIỆT NAM

Trích Việt Nam Sử lược (1919 - 1920) 

Trần Trọng Kim (1883 - 1953) 

Bản lưu tủ sách gia đình


1. Quốc-hiệu

2. Vị-trí và diện-tích

3. Địa-thế

4. Chủng loại

5. Gốc-tích

6. Người Việt-nam

7. Sự mở-mang bờ-cõi

8. Lịch-sử Việt-nam

1. QUỐC-HIỆU.

Nước Việt-nam ta về đời Hồng bàng (2897-258 tr. Tây-lịch) gọi là Văn-lang , đời Thục An-dương-vương (257-207 tr. Tây-lịch?) thì gọi là Âu-lạc . Đến nhà Tần (246-206 tr. Tây-lịch?) lược định phía nam thì đặt làm Tượng-quận , sau nhà Hán (202 tr. Tây-lịch 220 sau Tây-lịch) dứt nhà Triệu, chia đất Tượng-quận ra làm ba quận là Giao-chỉ , Cửu-chân và Nhật-nam . Đến cuối đời nhà Đông-Hán, vua Hiến-đế đổi Giao-chỉ làm Giao-châu . Nhà Đường (618-907) lại đặt là An-nam Đô-hộ-phủ .

Từ khi nhà Đinh (968-980) dẹp xong loạn Thập-nhị Sứ-quân, lập nên một nước tự-chủ, đổi quốc-hiệu là Đại-cồ-việt . Vua Lý Thánh-tông đổi là Đại-Việt , đến đời vua Anh-tông, nhà Tống bên Tàu mới công-nhận là An-nam quốc .

Đến đời vua Gia-long, thống-nhất được cả Nam Bắc (1802), lấy lẽ rằng Nam là An-nam, Việt là Việt-thường  mới đặt quốc-hiệu là Việt-nam . Vua Minh-mệnh lại cải làm Đại-nam .

Quốc-hiệu nước ta thay-đổi đã nhiều lần, tuy rằng ngày nay ta vẫn theo thói quen dùng hai chữ An-nam , nhưng vì hai chữ ấy có ngụ ý phải thần-phục nước Tàu, vậy thì ta nên nhất định lấy tên Việt-nam mà gọi nước nhà.

2. VỊ-TRÍ VÀ DIỆN TÍCH.

Nước Việt-nam ở về phía đông-nam châu Á-tế-á, hẹp bề ngang, dài bề dọc, hình cong như chữ S, trên phía Bắc và dưới phía Nam phình rộng ra, khúc giữa miền Trung thì eo hẹp lại.

Đông và Nam giáp bể Trung-quốc (tức là bể Nam-hải); Tây giáp Ai-lao và Cao-miên; Bắc giáp nước Tàu, liền với tỉnh Quảng-đông, Quảng-tây và Vân-nam.

Diện-tích cả nước rộng chừng độ 312.000 ki-lô-mét vuông chia ra như sau này:

Bắc Việt  : 105.000 km2

Trung Việt : 150.000 km2

Nam Việt  : 57.000 km2

3. ĐỊA-THẾ.

Nước ta hiện chia ra làm ba cõi: Bắc-Việt, Trung-Việt và Nam-Việt. Đất Bắc-Việt có sông Hồng-hà (tức là sông Nhị-hà) và sông Thái-bình. Mạn trên gọi là Thượng-du lắm rừng nhiều núi, ít người ở. Mạn dưới gọi là Trung-châu, đất đồng bằng, người ở chen-chúc đông lắm.

Đất Trung-Việt thì chỉ có một giải ở men bờ bể, còn ở trong có núi Tràng-sơn chạy dọc từ Bắc-Việt vào gần đến Nam-Việt, cho nên người chỉ ở được mạn gần bể mà thôi.

Đất Nam-Việt thì ở vào khúc dưới sông Mê-kông (tức là sông Cửu-long), lại có sông Đồng-nai chảy ở mé trên, cho nên đất tốt, ruộng nhiều, dân-gian trù-phú và dễ làm ăn hơn cả.

4. CHỦNG-LOẠI.

Người Việt-nam có nhiều dân-tộc ở, như là ở về miền thượng-du Bắc-Việt thì có dân Thái, (tức là Thổ), Mường, Mán, Mèo; ở về miền rừng núi Trung-Việt thì có dân Mọi, và Chàm, (tức là Hời), ở về miền Nam-Việt thì có dân Mọi, Chàm, Chà-và và Khách, vân vân. Những dân ấy ở trong ba nơi tất cả đến non một triệu người. Còn thì dân-tộc Việt-nam ở hết cả.

Số người Việt-nam ở trong ba nơi có thể chia ra như sau này:

Bắc-Việt  : 8.700.000 người

Trung-Việt : 5.650.000 người

Nam-Việt  : 4.616.000 người

Cả thảy cọng lại được độ chừng non 19 triệu người[1].

5. GỐC-TÍCH.

Theo ý-kiến của những nhà kê-cứu của nước Pháp, thì người Việt-nam và người Thái đều ở miền núi Tây-tạng xuống. Người Việt-nam theo sông Hồng-hà lần xuống phía đông-nam, lập ra nước Việt-nam ta bây giờ; còn người Thái thì theo sông Mê-kông xuống, lập ra nước Tiêm-la (tức là Thái-lan) và các nước Lào.

Lại có nhiều người Tàu và người Việt-nam nói rằng nguyên khi xưa đất nước Tàu có giống Tam-miêu ở, sau giống Hán-tộc (tức là người Tàu bây giờ) ở phía tây-bắc đến đánh đuổi người Tam-miêu đi, chiếm giữ lấy vùng sông Hoàng-hà lập ra nước Tàu, rồi dần dần xuống phía nam, người Tam-miêu phải lẩn núp vào rừng hay là xuống ở miền Việt-nam ta bây giờ.

Những ý-kiến ấy là theo lý mà suy ra đó thôi, chứ cũng chưa có cái gì làm chứng cho đích-xác. Chỉ biết rằng người Việt-nam ta trước có hai ngón chân cái giao lại với nhau, cho nên Tàu mới gọi ta là Giao-chỉ; mà xem các loài khác, không có loài nào như vậy, thì tất ta là một loài riêng, chứ không phải là loài Tam-miêu.

Dẫu người mình thuộc về chủng-loại nào mặc lòng, về sau người Tàu sang cai-trị hàng hơn một nghìn năm, lại có khi đem sang nước ta hơn bốn mươi vạn binh, chắc là nòi giống cũ của mình cũng đã lai đi nhiều rồi, mới thành ra người Việt-nam ngày nay.

6. NGƯỜI VIỆT-NAM.

Người Việt-nam thuộc về loài da vàng, nhưng mà người nào phải đi làm-lụng dầm mưa dãi nắng lắm, thì nước da ngăm-ngăm đen, người nào nhàn-hạ phong-lưu, ở trong nhà luôn, thì nước da trăng-trắng như màu ngà cũ.

Trạc người thì thấp nhỏ hơn người Tàu, mà lăn-lẳn con người, chứ không to-béo. Mặt thì xương xương, trông hơi bèn-bẹt, trán thì cao và rộng, mắt thì đen và hơi xếch về đàng đuôi, hai gò má thì cao, mũi hơi tẹt, môi hơi dày, răng thì to mà lại nhuộm đen. Râu thì thưa mà ít, tóc thì nhiều và dài, đen và hơi cứng. Dáng-điệu đi-đứng thì nhẹ-nhàng và xem ra bộ vững-vàng chắc-chắn.

Áo-quần thì dài rộng, đàn-ông thì búi tóc và quấn khăn vành rây, áo mặc dài quá đầu gối, tay áo thì chật, ống quần thì rộng. Đàn-bà ở Bắc-Việt và phía bắc Trung-Việt thì đội khăn, mà ở chỗ thành-thị thì mặc quần, còn ở nhà quê thì hay mặc váy. Ở phía nam Trung-Việt và Nam-Việt thì đàn-bà mặc quần cả, và búi tóc, chứ không đội khăn bao giờ.

Về đàng trí-tuệ và tính-tình, thì người Việt-nam có cả các tính tốt và các tính xấu. Đại-khái thì trí-tuệ minh-mẫn, học chóng hiểu, khéo chân tay, nhiều người sáng dạ, nhớ lâu, lại có tính hiếu học, trọng sự học thức, quý sự lễ phép, mến điều đạo đức: lấy sự nhân, nghĩa, lễ, trí, tín làm 5 đạo thường cho sự ăn ở. Tuy vậy vẫn hay có tính tình vặt, cũng có khi quỉ-quyệt, và hay bài-bác nhạo-chế. Thường thì nhút-nhát, hay khiếp-sợ và muốn sự hòa-bình, nhưng mà đã đi trận-mạc thì cũng có can-đảm, biết giữ kỹ-luật.

Tâm-địa thì nông-nổi, hay làm liều, không kiên-nhẫn, hay khoe-khoang và ưa trương-hoàng bề ngoài, hiếu danh-vọng, thích chơi bời, mê cờ-bạc. Hay tin ma quỷ, sùng sự  lễ-bái, nhưng mà vẫn không nhiệt-tin tông-giáo nào cả. Kiêu-ngạo và hay nói khoác, nhưng có lòng nhân, biết thương người và hay nhớ ơn.

Đàn-bà thì hay làm-lụng và đảm-đang, khéo chân, khéo tay, làm được đủ mọi việc mà lại biết lấy việc gia-đạo làm trọng, hết lòng chiều chồng, nuôi con, thường giữ được các đức tính rất quý là tiết, nghĩa, cần, kiệm.

Người Việt-nam từ Bắc chí Nam, đều theo một phong-tục, nói một thứ tiếng[2] cùng giữ một kỷ-niệm, thật là cái tính đồng-nhất của một dân-tộc từ đầu nước đến cuối nước.

7. SỰ MỞ-MANG BỜ-CÕI.

Người nòi-giống Việt-nam ta mỗi ngày một nẩy-nở ra nhiều, mà ở phía bắc thì đã có nước Tàu cường-thịnh, phía tây thì lắm núi nhiều rừng, đường đi lại không tiện, cho nên mới theo bờ bể lần xuống phía nam, đánh Lâm-ấp, dứt Chiêm-thành, chiếm đất Chân-lạp, mở ra bờ-cõi bây giờ.

8. LỊCH-SỬ VIỆT-NAM.

Từ khi người Việt-nam lập thành nước đến giờ, kể hàng mấy nghìn năm, phải người Tàu cai-trị mấy lần, chịu khổ-sở biết bao nhiêu phen, thế mà sau lại lập được cái nền tự-chủ, và vẫn giữ được cái tính đặc-biệt của giống mình, ấy là đủ tỏ ra rằng khí-lực của người mình không đến nỗi kém-hèn cho lắm. Tuy rằng mình chưa làm được việc gì cho vẻ-vang bằng người, nhưng mình còn có thể hy-vọng một ngày kia cũng nên được một nước cường-thịnh.

Vậy ghi-chép những cơ-hội gian-truân, những sự biến-cố của nước mình đã trải qua, và kể những công-việc của người mình làm từ đời nọ qua đời kia, để cho mọi người trong nước đều biết, ấy là sách Việt-nam sử.

Nay ta nên theo từng thời-đại mà chia sách Việt-nam sử ra 5 phần để cho tiện sự kê-cứu:

Phần I : Thượng-cổ thời-đại.

Phần II : Bắc-thuộc thời-đại.

Phần III : Tự-chủ thời-đại.

Phần IV : Nam-bắc Phân-tranh thời-đại.

Phần V : Cận-kim thời-đại.

Chú thích cuối trang

▲ Số này là theo sách Địa-lý của ông H. Russier (1939) chép lại chứ không chắc đã đúng số nhất-định của người mình.

▲ Tuy rằng mỗi nơi có một ít tiếng thổ-âm riêng và cái giọng nói nặng nhẹ khác nhau, nhưng đại-để thì vẫn là một thứ tiếng mà thôi.

Mẹo hay cuộc sống trên bao thuốc lá đầu TK20

Đầu những năm 1900, trong mỗi gói thuốc lá hiệu Gallaher đều có đính kèm một tấm thẻ mẹo hay cuộc sống.



Thuốc lá mà lại giúp người? Nghe thì thấy sai sai, nhưng mà đó đúng là chuyện đã xảy ra, và những mẹo hay từ trăm năm trước này vẫn có thể áp dụng ở thời điểm bây giờ nhé:

Đầu những năm 1900, trong mỗi gói thuốc lá hiệu Gallaher đều có đính kèm một tấm thẻ mẹo hay cuộc sống. Thuốc lá mà lại giúp người? Nghe thì thấy sai sai, nhưng mà đó đúng là chuyện đã xảy ra, và những mẹo hay từ trăm năm trước này vẫn có thể áp dụng ở thời điểm bây giờ nhé:

1. Cách ngăn chó dữ

Bạn dùng một chiếc que, gậy, thậm chí chỉ là khăn tay hoặc mũ, đưa thẳng ra trước mặt giữa bạn và con chó (như trong hình). Con chó sẽ có phản ứng tránh né chiêu phòng thủ này, cho bạn thời gian và cơ hội để có thêm phản ứng tốt hơn chống lại chúng.

meo 01

2. Cách hút dằm khỏi tay

Thay vì tìm cách dùng kim để chọc và khều dằm ra (cách này có thể khiến bạn bị đau thêm), hãy tìm một cái chai miệng lớn, đổ nước nóng vào gần đến miệng chai, sau đó áp tay phần đang bị dằm chặt trên miệng chai. Lực hút trong chai sẽ hút tay bạn, kết hợp với hơi nóng sẽ nhanh chóng kéo dằm trồi ra.

meo 02

3. Cách tưới cây khi vắng nhà

Bạn dùng một cái chậu lớn đựng đầy nước, đặt nó ở hơi cao hơn so với các chậu cây, sau đó kéo sát các chậu cây lại gần. Tiếp đó, bạn chập 2-3 sơi len lại với nhau, nhúng hẳn vào trong nước, một đầu buộc vật nặng để dằn chúng trong chậu nước và đầu kia thì dẫn xuống các chậu cây, như thế này, bạn không còn phải lo cây cối của mình khô héo trong thời gian bạn vắng nhà nữa.

meo 03

4. Cách quẹt diêm trước gió

Ai đã từng dùng diêm đều hiểu sự khốn khổ, chật vật khi quẹt diêm trước gió, đó là do chưa biết đến mẹo như trong hình: trước khi quẹt, bạn khía vài đường mỏng ở gần đầu que diêm. Các vảy gỗ sẽ bắt lửa và giữ ngọn lửa cháy lớn hơn, lâu hơn.

meo 04

5. Cách tự chế bình dập lửa

Bạn hòa tan khoảng 400gr muối và 200gr sal-ammoniac vào khoảng 1l nước, đựng trong những chai thủy tinh mỏng dung tích khoảng nửa lít. Nếu chẳng may có cháy, bạn ném một hoặc nhiều chai này vào lửa (nếu cần), sẽ ngăn được lửa lan ra hoặc bùng phát.

meo 06

6. Cách tháo nhẫn đã bị chật

Chiếc nhẫn dù đầy tình cảm nhưng đến một lúc nào đó bạn cũng cần xem xét để tháo ra, chẳng hạn như lúc bạn tăng cân, mang thai... những lúc này cố quá chỉ hại người mà thôi. Lúc bạn còn có thể chịu được, hãy bôi xà bông nhiều nhiều lên ngón tay để tháo nhẫn ra nhé.

 7. Cách luộc quả trứng bị nứt

Bạn chỉ cần thêm một chút giấm vào nước luộc trứng.

 8. Cách bảo quản trứng

Có một yêu cầu nhỏ là trứng này cần là trứng mới, sau đó, để bảo quản, bạn chỉ cần bỏ chúng vào một chiếc hộp hoặc thùng đựng muối khô, vùi chúng xuống dưới muối và để ở nơi khô mát thì sẽ có thể giữ trứng được lâu.

 9. Cách tách hai chiếc cốc thủy tinh bị chồng lên nhau

Hai chiếc cốc thủy tinh bị chồng lên, bạn cứ cố gắng tách ra không khéo thì vỡ hết cả đôi. Cách đơn giản và hiệu quả nhất trong trường hợp này là bạn đổ nước lạnh vào cốc trên, và nhúng cốc dưới vào nước ấm, sẽ có thể tách chúng ra rất dễ dàng.

 10. Cách làm sạch chai lọ

Để làm sạch bên trong chai, bạn cho nước và một chút cát vào, đậy kín lại rồi lắc kỹ, sau đó súc sạch, để ráo là sẽ được một cái chai sạch không tì vết.

15/02/2023

Quà Hà Nội

 Trích trong "Hà Nội băm sáu phố phường" - Thạch Lam



Quà Hà Nội xưa nay vẫn có tiếng ngon lành và lịch sự. Ở các thôn quê, chút "quà Hà Nội" là của mong đợi, và tỏ được lòng quý hóa của người cho. Con cháu ngày giỗ ky đưa về dâng cha mẹ, hay các bà mẹ ra tỉnh mua về cho các con, và chồng đi làm Nhà nước ngày nghỉ mua tặng cho cô vợ mới cưới ... Bao nhiêu ý tốt tình hay gửi vào trong chút quà nơi đô hội, món quà đem đến cho khắp nơi các vị sành và trang nhã của băm sáu phố phường.

Hàng Quà Rong

Người Hà Nội, ăn thì ngày nào cũng ăn, nhưng thường không để ý. Nếu chúng ta về ở tỉnh nhỏ ít lâu, hay ở ngay Hải Phòng, Nam Định nữa, chúng ta mới biết quà ở Hà Nội ngon là chừng nào. Cũng là thứ bún chả chẳng hạn, cũng rau ấy, thế mà sao bún chả của Hà Nội ngon và đậm thế, ngon từ cái mùi thơm, từ cái nước chấm ngon đi.

Trong một ngày, không lúc nào là không có hàng quà. Mỗi giờ là một thứ khác nhau; ăn quà cũng là một nghệ thuật: ăn đúng cái giờ ấy và chọn người bán ấy, mới là người sánh ăn.

Tang tảng sáng, tiếng bánh Tây đã rao, lẫn với tiếng chổi quét đường. Đó là quà của những người thợ đi làm sớm. Rồi, có từng độ, phố xá vang lên tiếng rao "bánh rán nóng, trinh một, xu đôi" của một lũ trẻ con. Cái bánh rán vừa cứng và xấu, thật làm giảm thanh thế của quà Hà Nội, do một cửa hàng nào đó muốn kiếm lời, cứ muốn bắt thiên hạ ăn bánh rán lúc còn ngái ngủ.

Này đây mới là quà chính tông: bánh cuốn, ăn với chả lợn béo, hay với đậu rán nóng. Nhưng là bánh cuốn Thanh Trì mỏng như tờ giấy và trong như lụa. Vị bánh thơm bột mịn và dẻo. Bánh chay thì thanh đạm, bánh mặn đậm vì chút mỡ hành. Người bán bánh cuốn Thanh Trì đội mẹt và rổ trên đầu, từng tụm năm, bảy người từ phía Lò Lợn đi vào trong phố, dáng điệu uyển chuyển và nhanh nhẹn.

Rồi mùa nực thì hàng xôi cháo: cháo hoa quánh mùi gạo thơm, xôi nồng mùi gạo nếp. Xôi đậu, xôi lạc, xôi vừng mỡ và dừa. Ở, cái xôi vừng mỡ, nắm từng nắm con, ăn vừa gậy vừa bùi. Mà có đắt gì đâu! Ăn một, hai xu là đủ rồi. Mùa rét thì xôi nóng, hãy còn hơi bốc lên như sương mù, ăn vừa nóng người vừa chắc dạ.

Và có ai ngẫm nghĩ kỹ cái vị hành khô chưng mỡ ở trong bát ngô nếp bung non; hàng giòn và thơm phức, những hạt ngô béo rưới chút nước mỡ trong ... Ngô bung (xôi lúa) thì có nhiều hàng ngon, nhưng ngon nhất và đậm nhất là ngô bung của một bà già trên Yên Phụ. Cứ mỗi sáng, bà từ ô xuống phố, theo một đường đi nhất định, đã ngoài hai mươi năm nay, để các nhà muốn ăn cứ việc sai người ra đừng chờ. Bà đội thúng ngô, tay thủ vào cái áo cánh bông, và cất lên cái tiếng rao, tựa như không phải tiếng người, một tiếng rao đặc biệt và kỳ lạ: "Eéé ...éc", "Eé ...ééc ...".

Đối với các bà, các cô đi chợ, cô hàng vải, cô hàng rau v.v ... là những người ưa món quà gì vừa rẻ vừa ngon, lại vừa no lâu các cô khó tính, sành ăn và hay xét nét lắm đã có món quà của cô hàng cơm nắm lẳng lơ với hai quang thúng bỏ chùng. Món quà này sạch sẽ và tinh khiết, từ quà cho đến cả quang thúng, cả cô hàng, tóc vấn gọn, áo nâu mới, quần sồi thâm, cô hàng trông cũng ngon mắt như quà của cô vậy. Cơm nắm từng nắm dài, to nhỏ có, nằm trên chiếc mẹt phủ tấm vải màu trắng tinh để che ruồi, muỗi. Con dao cắt, sáng như nước, và lưỡi đưa ngọt như đường phèn. Cơm cắt ra từng khoanh, cô hàng lại cẩn thận gọt bỏ lớp ngoài, rồi lại cắt ra từng miếng nhỏ, vuông cạnh và dài, để bày trên đĩa. Cô muốn xơi với thứ gì? Với chả mới nhé hay giò lụa mịn màng? Các cô vừa ăn vừa nhai nhè nhẹ và thong thả hỏi han thân mật cô hàng: cùng bạn làm ăn cả, một gánh nuôi chồng nuôi con, đóng góp thì nhiều. Âu cũng là cái phận chứ biết làm thế nào.

Đối với các bà ăn rở và thích của lạ miếng và độc nữa đã có bà hàng tiết canh và lòng lợn. Một mâm đầy một bát tiết canh đỏ ối, ngòng ngoèo sợi dừa trắng, điểm xanh mấy lá húng tươi. Thế mà họ ăn ngon lành, một lúc hai, ba bát. Rồi đánh thêm một đĩa lòng vừa dồi, cổ hũ với tràng giòn. Ăn xong quét miệng đứng dậy, bước đi thành chậm chạp. Sao bằng ra đầu phố ăn một bát phở bã của anh hàng phở áo cánh trắng, gilet đen, và tóc rẽ mượt? Nồi nước sôi sùng sục, tỏa mùi thơm ra khắp phố. Nếu là gánh phở ngon cả Hà Nội không có đâu làm nhiều, thì nước dùng trong và ngọt, bánh dẻo mà không nát, thịt mỡ gầu giòn chứ không dai, chanh ớt, và hành tây đủ cả. Chả còn gì ngon hơn bát phở như thế nữa. Ăn xong bát thứ nhất, lại muốn ăn thêm bát thứ hai. Và anh hàng phở chả phải gánh nặng đi đâu cả, chỉ việc đỗ một chỗ nhất định, cũng đủ bán một ngày hai gánh như chơi. Và người hàng phố tìm dấu hiệu để gọi tên anh cho dễ nhớ: anh phở trọc, anh phở Bêrê, anh phở Mũ Dạ, anh phở Cao ... và dặn thằng nhỏ chớ mua hàng khác về "ông không ăn mà chết đòn".

Phở là một thứ quà đặc biệt của Hà Nội, không phải chỉ riêng Hà Nội mới có, nhưng chính là vì ở Hà Nội mới ngon. Đó là quà tất cả suốt ngày của tất cả các hạng người, nhất là công chức và thợ thuyền. Người ta ăn phở sáng, ăn phở trưa, và ăn phở tối.

Phở bán gánh có một vị riêng, không giống như phở bán ở hiệu. Các gánh phở có tiếng ở Hà Nội đều được người ta đặt tên và tưởng nhớ: phố Ga, phố Hàng Cót, phố Ô Quan Chưởng, phố Cửa Bắc v.v ...

Bây giờ nhiều tài năng trẻ trong nghề phở mới nhóm lên và trái lại, những danh vọng cũ trên kia không chắc còn giữ được "hương vị xứng kỳ danh" nữa. Có người nào thứ chịu khó đi khảo nếm lại một lượt xem sao? Một vòng quanh Hà Nội bằng vị phở, chắc có lắm điều mặn, chát, chua, cay đấy.

Nhưng có một nơi phở rất ngon mà không có ai nghĩ đến và biết đến: ấy là gánh phở trong nhà thương. Trong nhà thương vốn có một bà bán các thứ quà bánh ở một gian hàng dựng dưới bóng cây. Cái quyền bán hàng đó là cái quyền riêng của nhà bà, có từ khi nhà thương mới lập. Bà là người ngoan đạo nên tuy ở địa vị đặc biệt đó bà cũng không bắt bí mọi người và ăn lãi quá đáng. Thức gì bán cũng ngon lành, giá cả phải chăng. Nhưng gánh phở của bà thì tuyệt: bát phở đầy đặn và tươm tất, do hai con gái bà làm, trông thực muốn ăn. Nước thì trong và lúc nào cũng nóng bỏng, khói lên nghi ngút. Rau thơm tươi, hồ tiêu bắc, giọt chanh cốm gắt, lại điểm thêm một chút cà cuống, thoảng nhẹ như một nghi ngờ. Mà nhân tâm tùy thích, nhà hàng đã khéo chiều: ai muốn ăn mỡ gầu, có, muốn ăn nạc, có, muốn ăn nửa mỡ, nửa nạc, cũng có sẵn sàng.

Cứ mỗi buổi sáng, từ sáu giờ cho đến bảy giờ, chỉ trong quảng ấy thôi, vì ngoài giờ gánh phở hết, chung quanh nồi nước phở, ta thấy tụm năm tụm ba, các bệnh nhân đàn ông và đàn bà, các bác gác san, các thầy y tá, và cả đến các học sinh trường Thuốc nữa. Chừng ấy người đều hợp lòng trong sự thưởng thức món quà ngon, nâng cách ăn phở lên đến một nghệ thuật đáng kính.

Cùng một thứ quà nước và mặn như phở, Hà Nội còn có hãng mì và mằn thắn. Hai món này chắc hẳn là món ăn của người Tàu, cho nên hễ người Tàu làm thì ngon hơn, cũng như họ làm ngon nhiều món khác.

Cái chí của Việt ta cũng khác: món quà bán thì cứ muốn bán cho rẻ và nhiều, thích thế để xiêu lòng khách còn cái phẩm có tốt hay không, không quan tâm đến. Cho nên bát mằn thắn của người mình thì có đủ cả rau thơm, xà xíu, đôi khi mấy miếng dồi, và một phần chia tám quả trứng vịt. Mằn thắn thì làm rất to bột, nặn xuề xòa để trông càng to hơn, nhưng nhân thì hết sức kín đáo và nhỏ bé, vì được một tí thịt chỗ bạc nhạc, mua rẻ của các hàng thịt lậu ôi ở ngoại ô, lúc trút hàng bán rẻ. Nước cũng rất nhiều nữa, dềnh lên như ao sau trận mưa, nhưng nhạt ví như nước bèo. Ấy thế mà tất cả chỉ bán có năm xu. Tưởng đắt hàng là phải.

Thế mà không: người Hà Nội ăn quà sành, nên khó mà lấy nhiều làm hoa mắt người ta được. Có lẽ người bán nghĩ rằng quà rao là sực tắc, hai thanh tre gõ vào với nhau như tiếng guốc đi của một gái về đêm, mà sực tắc chính là hai tiếng Tàu Thực đắc mà ra. Thực đắc là ăn được, cho nên quà chỉ cốt ăn được, không cốt gì ăn ngon.

Về thức quà này, tôi lại nhớ đến một câu chuyện nhiều ý nghĩa, và có thể làm một bài học hay cho người mình. Trong lúc mọi người bán hàng Việt Nam mỏi vai lê gánh khắp phố mòn đốt tre vì tiếng gọi mà vẫn không bán được mấy, thì bỗng nhiên một hôm ở một phố ở Hà Nội nhỏ hẹp và đông đúc, nẩy ra một chú khách bán hàng rất dở người. Chú ta cũng bán mì với mằn thắn, cũng với giá năm xu, nhưng mì thì chỉ có mì không và mằn thắn chỉ có mằn thắn trần, đủ mười lăm cái. Nhưng nước rất trong và rất ngọt,mì thì đậm vị và dẻo, mằn thắn thì bột mềm và mỗi cái có nhân một con tôm. Ăn mãi vẫn ngon không thấy chán.

Bán hàng không cần gánh đi đâu, và cũng không cần gì bát. Ai muốn ăn thì đến hàng mà ăn, ai muốn mua đem bát lại mua, và người nhà mang về, chứ một bậc thang ngắn bác cũng không chịu bước lên. Bác bán hàng cửa quyền như thế, người ta tuy tức vì cái làm bộ kiêu kỳ của bác, chê vì quà của bác đắt hơn quà của các hàng thường, nhưng người ta vẫn phải mua, vì quà của bác ngon. Người mua ngày dần đông: một bác bán không đủ, phải làm hai gánh, rồi ba, rồi bốn, rồi năm sáu. Mỗi gánh bác phải thuê người bán, mỗi tháng công năm đồng. Những người này bèn cách ăn bớt: một lượng bát mì bác bán, cứ ba bó mì thì họ lại bớt một; mười lăm cái mằn thắn thì họ bán có mười hai.

Nhưng mắc lòng, hàng bác vẫn bán chạy. Mỗi gánh ít nhất bác cũng được lãi ba đồng một ngày. Sáu gánh vị chi là mười tám, một tháng lãi năm trăm hơn. Sáu tháng sau khi bác ở Hải Phòng đặt chân lên Hà Nội, bác đã nghiễm nhiên trở nên một người giàu.

Thế mới biết nghề gì là không có lãi, mà cái nghề mà chúng ta tưởng là hèn mọn ấy lại chóng làm người ta giàu hơn chánh vạn nghề khác. Miễn là thức hàng bán xứng với đồng tiền, đừng lừa dối người mua của ngon thì người ta ăn, đắt rẻ không kỳ quản. Đó là một sự thất giản dị trong nghề buôn bán, mà tiếc thay, nhiều nhà buôn người mình không biết đến, hoặc người mình làm tồi bán rẻ hoặc họ đánh lừa được người mua thì lấy làm sung sướng.

Tôi quên nói nốt rằng chú khách bán mằn thắn trên kia, giá cứ giữ lối bán gánh như thế thì không sao. Có tiền, chú lại muốn làm ông chú hiệu chú mở hàng cao lâu to ở phía Mã Mây. Cái chí này thì không có gì đáng trách. Nhưng chú lại muốn giống các chủ khác ở chỗ đánh bạc chú đánh phán thán, rồi chú thua. Ba tháng sau, chú vỡ nợ.

Nhưng đấy là tại chú, chứ không phải là tại cái cửa hàng của chú, và cái phương pháp bán hàng của chú vẫn giữ nguyên giá trị khiến chúng ta nên theo.

Sau khi vỡ nợ, tay trắng trở về, chú lại ghé lưng xuống gánh lấy gánh hàng mằn thắn cũ tiếng vẫn rao vàng, và cái miệng vẫn tươi cười như trước Đó là một tấm gương mà chúng ta lại càng nên theo nữa.

 

14/02/2023

Rượu - Thuốc.

Nhân bữa riệu Mình đãi Ta.

Mượn để minh hoạ


Rượu - như các nhà khoa học hiện đại khẳng định là do người Ba tư hoặc Trung quốc phát minh ra từ khoảng 7.000 đến hơn vạn năm trước (dựa vào các di chỉ khảo cổ tìm được). 

Vấn đề này thật ra còn nhiều tranh cãi bởi nhiều luận cứ khoa học từ các tài liệu cổ còn tồn tại.

Bản thân mình, một kẻ hiếu tửu, cũng cho rằng không phải vậy.

Từ xa xưa, có lẽ là tính cớ mà khỉ - vượn phát hiện các hố, vũng trũng nhỏ hoặc hốc cây (nơi chim, sóc, chuột... trữ thức ăn) có chứa hoa quả tập trung rụng xuống, rồi bởi khí hậu, thời tiết, điều kiện ánh sáng thích hợp mà nên men thành rượu. Uống vào thấy hưng phấn và gây nghiện... Nhớ là, khi đó các tiêu chuẩn vệ sinh chưa hề có nhé (tỷ như đến tận đầu TK 20 mà dân ta nhiều vùng vẫn dùng nước ao tù vừa tắm giặt vừa làm nước uống đấy thôi). Trong nhiều sách vẫn hay đề cập đến Bách hoa tửu do các bầy khỉ, vượn làm đó.

Tích luỹ kinh nghiệm lâu dài, lưu truyền cùng với sự tiến bộ của văn minh nhân loại mà công nghệ sản xuất rượu càng nâng cao, chủ động về chất lượng và năng suất hơn đồng thuận với sự lạm dụng rượu của con người mà sản sinh ra nhiều loại rượu như đến bây giờ.

Rượu, trong nhiều thời kỳ, nhiều nền văn hoá là đồ thờ cúng, phương tiện giao tiếp (như trầu cau của VN), thuốc, dinh dưỡng hoặc thậm trí để trả công... chứ không thuần tuý là đồ uống giải trí. Thế nên vị thế rượu càng ngày càng tăng, nhiều loại trở thành "truyền thuyết". 

Âu cũng chỉ bởi nghiện mà ra thôi.

Trở lại việc chính. Rượu là một thức uống có tác dụng dinh dưỡng và chữa bệnh.

Là dinh dưỡng khi ta dùng để chống lạnh, chống cảm và kích thích tiêu hoá.

Là thuốc vì nó có thể làm dịu căng thẳng, kích thích hưng phấn và cảm hứng sáng tạo (đấy, nhìn các tác phẩm danh tiếng lưu truyền là do các nghệ sỹ đã dùng rượu mới có đó nhe); tốt cho tim mạch (chả cứ vang, rượu tốt nào cũng thế); ngăn sỏi thận; cải thiện khả năng tình dục (5 xu rượu xem, cả nhà cùng vui ấy chứ); tốt cho trí não, cân bằng đường huyết, chống lão hoá, chống béo phì, ngừa ung thư...

Vậy sao số ít người lại có ác cảm với rượu thế nhỉ???

Đừng lạm dụng là được mà.