20/06/2025

Hồ Tây bát cảnh

 

Hồ Tây nay - Bát cảnh đâu? (ảnh minh họa st trên net)

 

Hồ Tây, một thắng cảnh ở Hà Nội, nơi nổi tiếng với với nghề dệt lụa, dệt lĩnh đen, làm giấy và trồng hoa nổi tiếng Thăng Long xưa.

Cảnh đẹp Tây Hồ đã đi vào lòng người, vào thơ, ca, văn học và truyền thuyết bao đời nay.

Nên, nói đến hồ Tây là nhắc lại Tây Hồ bát cảnh, một tập thơ của Lê Vĩnh Hựu làm khoảng năm 1735 - 1739, đã ca tụng cảnh đẹp của hồ Tây:

1 - Bến trúc Nghi Tàm

Chính là chỉ làng Nghi Tàm xưa có trồng một thứ trúc vàng có tên là trúc ngà ở vùng xung quanh làng. Từ xa trông hàng ngàn, hàng vạn cây đứng trước gió, ánh sáng vàng trông rất đẹp. Chính nơi này chúa Trịnh Giang đã cho mở một bến tắm, hàng năm mùa hè cùng các cung nữ lên đó tắm mát và nghỉ ngơi.

 2 - Rừng bàng của Chúa

 Thuộc về làng Yên Thái có một núi đất cao 400-500 trăm thước, rộng chừng một mẫu. Chúa Trịnh Giang cho trồng nhiều cây bàng để lấy bóng râm nghỉ mát. Từ trên đỉnh nhìn xuống, hàng ngàn, hàng vạn cây, cây nào cũng tỏa ra cành lá xum xuê, sắc lá theo từng mùa thay đổi. Nhìn từ xa như những chiếc lọng đỏ, lọng xanh rất đẹp mắt, người dân quanh đó quen gọi là rừng bàng.

 3 - Đàn thề Đồng Cổ

 Được lập trước cửa đền Đồng Cổ trên bờ hồ thuộc làng Thụy Chương dưới thời Lý Thái Tông. Đàn được xây hai tầng, tầng trên thờ thần, tầng dưới vua ngự, mỗi năm hai kỳ xuân thu, nhà vua ra đó làm lễ tế rồi hạ lệnh trăm quan văn võ đứng trước đàn thề rằng: “Làm con phải hiếu, làm tôi phải trung, bất hiếu bất trung, thần minh giết chết”. Về sau đàn đấy đổi làm nơi công cộng của nhân dân, hằng ngày có nhiều người đặc biệt là thanh niên nam nữ đến trước đàn thề nguyền, xin thần linh minh chứng cho lòng chung thủy của mình.

 4 - Tượng Phật say

 Trước làng Thụy Chương đời Lê Trung Hưng có ngôi chùa chỉ có mỗi một pho tượng tay chống gậy, chân có vẻ bước liêu xiêu. Một hôm Trạng Quỳnh đến làng Thụy mua rượu vào thăm chùa thấy tượng ông làm mấy câu thơ:

Ông đứng chi mà đứng mãi đây?

Dập dềnh như tỉnh lại như say?

Vãi nào đã chuốc cho ông rượu?

Còn có cho vay một nậm đầy.

Từ đấy người ta gọi tượng là Phật say làng Thụy, mỗi tháng hai kỳ khách thập phương thi nhau mang rượu đến lễ, sau này tượng cũng bị mất.

 5 - Sâm cầm Hồ Tây

 Trước kia khoảng tháng Chạp đến tháng Giêng lại có từng đàn chim sâm cầm bay về kín mặt hồ. Nghe đồn chim ấy chỉ ăn sâm nên thịt rất bổ, vì vậy nghề đánh chim đã trở thành một nghề của mấy làng xung quanh hồ.

 6 - Cánh đồng hoa Nghi Tàm

 Những ruộng dọc bên hồ Tây đều trồng hoa, nhưng chỉ có đồng hoa ở trước chùa Kim Liên, làng Nghi Tàm là đẹp, được chọn làm hoa tiến vào Phủ Chúa và Cung Vua.

 7 - Làng Khán Xuân

 Là một làng ở bên bờ phía Nam hồ. Đời chúa Trịnh Giang lập một ly cung và những dãy nhà như quán hàng ở xung quanh, hàng năm mùa hè ra đó nghỉ mát. Đêm đến nội thần và cung nữ mở chợ bày hàng mua bán, hát xướng làm vui. Những đêm mở chợ, làng Khán Xuân lại sáng rực một góc thành vì đèn nến thắp sáng trưng. Chính vì vậy mà chợ đêm Khán Xuân trở thành một hoạt cảnh đẹp trong kinh thành Thăng Long.

 8 - Tiếng đàn hành cung

 Được đặt ngay tại Chùa Trấn Quốc thời chúa Trịnh. Sau này nơi đây hàng đêm vẫn rộn tiếng đàn của các cung nữ làm người trông coi chùa và trở thành nguồn cảm hứng thi ca của tao nhân mặc khách đến vãn cảnh Hồ Tây.

 Tám cảnh đẹp của hồ Tây cho ta cảm nhận về những vùng danh thắng của Thăng Long xưa. Hồ Tây không chỉ có lịch sử với những câu chuyện truyền thuyết, mà gắn với nó là những danh thắng nổi tiếng đi vào những tác phẩm thơ, ca, văn học nổi tiếng. Chính điều này làm cho Hồ Tây thêm gắn bó, có ý nghĩa sâu sắc đối với mảnh đất Thăng Long – Hà Nội này.

 

 

15/06/2025

Đôi nét về một kiến trúc cổ của Việt Nam - tháp Bình Sơn

 

 Tháp Bình Sơn (còn gọi là tháp Then, tháp chùa Vĩnh Khánh) nằm trong khuôn viên chùa Vĩnh Khánh ở thị trấn Tam Sơn, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc.


Là ngọn tháp tiêu biểu cho kiến trúc chùa tháp thời Lý - Trần ở Việt Nam và là ngọn tháp đất nung đời Trần cao nhất còn lại đến ngày nay, tháp Bình Sơn với hình khối thanh thoát, đường nét mềm mại, trang trí phong phú điêu luyện, là di tích lịch sử và di tích nghệ thuật có giá trị cao trên lãnh thổ Việt Nam. Tháp Bình Sơn đã được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt còn lại cuối cùng từ thời Lý- Trần vào tháng 3/2016. 


 Tương truyền, ngọn tháp nguyên bản có 13 tầng, trên nóc tháp có một hình khối búp hoa sen chưa nở bằng đất nung tạo cho tháp một dáng vẻ thanh thoát vươn cao.


 Do những thăng trầm của lịch sử, phần chóp tháp đã bị vỡ, tháp hiện chỉ còn 11 tầng tháp và 1 tầng bệ, có chiều cao đo được 16,5 mét.


 Tháp cấu tạo với bình đồ hình vuông nhỏ dần về phía ngọn với cạnh của tầng dưới cùng là 4,45 mét, cạnh của tầng thứ 11 là 1,55 mét.


 Theo khảo sát, tháp được xây dựng bằng 13.200 viên gạch nung, gồm 2 loại trong đó có một loại hình vuông kích thước là 0,22m × 0,22m, một loại hình chữ nhật kích thước 0,45m × 0,22m.


 Trong lòng tháp là một khoảng rỗng nhỏ chạy suốt chân tháp lên đến ngọn.


 Mặt ngoài của tháp trang trí hoa văn rất phong phú, đẹp nhất là từ bệ tháp đến hết tầng 2, có chiều cao dưới 6 mét, là khoảng cách mắt thường có thể cảm nhận dễ dàng.


 Ở hai tầng này có họa tiết trang trí kỹ lưỡng, phức tạp mà nổi bật nhất là những hàng hoa cúc, cánh sen, lá đề, hoa mặt nhẵn, rồng chạm nổi, cùng mô típ “sư tử hí cầu”…


 Những tầng trên trang trí thưa dần và hình dáng cũng đơn giản hơn với các họa tiết như hoa chanh, lá sòi (hoa dấu phảy)…


 Hoa văn trang trí tinh xảo trên mỗi hòn gạch chứng tỏ bàn tay người thợ vô cùng điêu luyện

Một nét độc đáo khác của tháp Bình Sơn là tòa tháp này được xây dựng không cần vôi vữa. 


 Để làm điều này, những người xây dựng tháp đã sử dụng những viên gạch được chế tác có mấu và có gờ chỉ để giữ lấy nhau, đó là phương pháp xây gạch khẩu ở chân bệ.


 Ngoài ra, còn một cách khác là mỗi viên gạch có một lỗ hình thang, hai viên gạch xếp sát nhau, tạo thành một mộng cá và người ta đổ chì vào mộng cá đó để giữ hai viên gạch với nhau, đó là phương pháp xây bằng cá chì.


Về mặt tín ngưỡng, có nhiều truyền thuyết liên quan đến tháp Bình Sơn, cho thấy vị trí đặc biệt của tháp trong văn hóa tâm linh và ý thức cộng đồng của người dân bản địa.


 Đầu tiên có thể kể đến truyền thuyết về xuất xứ cây tháp, vốn là một tháp lớn dựng trong vườn tháp ở giữa cánh đồng Nẫu xã Tứ Yên, Lập Thạch, sau một đêm mưa bão thì nhảy về vị trí hiện nay…

Một truyền thuyết khác nói về chiếc giếng bên cạnh tháp với con vịt bằng vàng, là dấu tích nền móng một cây tháp khác có màu xanh bên tháp Bình Sơn, đã bay lên trời.

Ngoài ra còn có truyền thuyết về thủ lĩnh địa phương Ngụy Đồ Chiêm, là con một người đàn bà bán quán nước chân tháp, đã ôm kiếm chạy vào cây tháp rồi biến mất khi bị quân triều đình đến đánh dẹp.


 Sau nhiều thế kỷ tồn tại, tháp Bình Sơn từng đứng trước nguy cơ sụp đổ vào thập niên 1960 do các trận lụt liên miên làm sói lở chân tháp.

Nhu cầu tu bổ tháp được đặt ra cấp thiết trong bối cảnh miền Bắc đang trong giai đoạn chiến tranh khốc liệt.


 Từ tháng 5/1972, quá trình phục chế tháp theo lối thủ công được thực hiện.

Việc làm gạch để thay thế và bổ sung những chỗ bị vỡ trên tháp, bị nát, bị khuyết, bị lũ quét, phải kéo dài đến hai năm.


 Ngày nay, tháp Bình Sơn được coi là một trong những di tích lịch sử và nghệ thuật – kiến trúc có giá trị quan trọng bậc nhất trên lãnh thổ Việt Nam.


 Với những giá trị tiêu biểu của mình, tòa tháp đã được xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt từ năm 2015.