Ở
Việt Nam thời bao cấp, việc phân phối hàng hóa, nhu yếu phẩm hàng ngày cho người
dân được thực hiện qua chế độ tem phiếu.
Tem
phiếu dành cho các cán bộ, công nhân viên làm việc trong cơ quan, xí nghiệp quốc
doanh. Hàng hóa thông qua chế độ tem phiếu thường có giá thấp hơn rất nhiều so
với giá bên ngoài thị trường (chợ đen).
Theo đó, lương của người lao động sẽ được quy ra hiện vật.
Sổ
gạo hay lúc đầu tên là cuốn sổ lương thực. Chế độ này được áp dụng vào khoảng
những năm 1960, đầu tiên là lương thực, sau đổi thành tem phiếu bao gồm các loại
mặt hàng, số lượng mà một gia đình được phép mua, dựa trên quy chuẩn như cấp bậc
và niên hạn.
Tem
phiếu mua nhu yếu phẩm hàng ngày sẽ có chế độ riêng tùy vào vị trí công việc,
nghề nghiệp mà cán bộ công chức nhà nước và người dân lao động được phát khác
nhau. Theo đó, tem phiếu được phân chia cho những cán bộ viên chức cấp cao như
sau:
–
Tiêu chuẩn đặc biệt A1 dành cho cán bộ cao cấp
–
Phiếu A dành cho bộ trưởng
–
Phiếu B dành cho thứ trưởng
–
Phiếu C là trưởng các vụ, cục, viện
Những
người thuộc đối tượng này đều có các cửa hàng riêng phục vụ ở phố Nhà Thờ, Tông
Đản và Vân Hồ ở thủ đô.
Trong
thời kì bao cấp, có rất nhiều loại tem phiếu, trong đó có những loại quan trọng
nhất sau đây:
Gạo
Từ
năm 1955, Nhà nước tạm thời bán gạo định lượng cho các hộ gia đình ở thành phố.
Mỗi thành phố áp dụng một tiêu chuẩn khác nhau.
Bắt
đầu từ ngày 1/3/1957, Nhà nước thực hiện chế độ cung cấp gạo ăn hàng tháng cho
tất cả bộ đội, CBCNV, học sinh các trường chuyên nghiệp, học sinh trường phổ
thông hưởng học bổng toàn phần, bệnh nhân tại các bệnh viện, trạm điều dưỡng…
Giá thống nhất và ổn định là 0,4 đ/kg.
Vải
Từ
1962, định lượng phân phối như sau:
–
CBCNVC 5m/người, năm.
–
Nhân dân thành phố, thị xã 4m/người, năm
–
Nhân dân nông thôn 3m/người, năm
Các
loại phiếu vải cũng chia ra hai loại nam và nữ. Phiếu vải nữ có quyền được mua
mỗi năm 2m lụa đen hay các loại vải tương tự để may quần.
Các mặt hàng thực phẩm (thịt, đường, sữa…).
Sữa
là mặt hàng chỉ dành cho trẻ em và người ốm.
Chất đốt
(dầu, than, củi)
–
Các hộ gia đình ở thành phố, thị xã từ 4 người trở lên được cấp than là chủ yếu
và được mua 10kg củi/hộ (để nhóm lò).
–
Các hộ dưới 4 người được dùng dầu hoàn toàn.
–
Diện đối tượng được cung cấp tem phiếu chất đốt ở miền núi thì chỉ được mua củi.
–
Diện đối tượng được cung cấp tem phiếu chất đốt ở các nơi khác thì được mua
than.
Sổ cung cấp phụ tùng xe đạp
Từ
năm 1965, Nhà nước quy định tiêu chuẩn của mỗi CBCNVC nhà nước là được phân phối
1 chiếc xe đạp trong cả đời công tác. Ai đã có xe đạp thì được đăng ký để xin sổ
mua phụ tùng. Việc phân phối này khá phức tạp. Mỗi đợt có “tiêu chuẩn” đưa về
cơ quan và xí nghiệp như xích, líp, xăm, lốp… là lại có một cuộc bình xét.
Bìa mua hàng gia đình
Các
hộ gia đình (kể cả thành thị và nông thôn)
được cấp bìa mua hàng để được mua các mặt hàng như: chiếu, xà phòng, diêm, kim
chỉ… và trong các dịp lễ tết thì được mua các loại chè, thuốc, bánh, mứt, kẹo…
–
Ngày Quốc khánh (2/9), các bìa được cung cấp bánh, kẹo, thuốc lá, chè.
–
Ngày tết Trung thu, được cung cấp bánh nướng, bánh dẻo.
–
Ngày tết Nguyên đán được cung cấp phong phú hơn cả: Mỗi hộ được mua 1 túi hàng
Tết.
Ngoài
các loại tem phiếu trên, còn có nhiều thứ giấy tờ có thể mua hàng: giấy giới
thiệu, giấy chứng nhận kết hôn, giấy báo tử, bệnh tật… cũng có giá trị để xét
cho hưởng chế độ cung cấp định lượng.
-
Tang ma (có giấy báo tử) thì gia đình được mua 1 quan tài theo giá cung cấp kèm
theo một số vải tang (người dân tộc: 10m/người; người Kinh: 6m/người)…
-
Có giấy khai sinh (cho trẻ sơ sinh) thì được mua xoong nồi, chậu tắm, vải làm
tã lót…
-
Có giấy kết hôn được mua 1 màn đôi, 2kg bánh kẹo, 10 bao thuốc lá, ngoài ra tuỳ
nơi, tuỳ lúc mà còn có thể được mua cả 1 giường đôi, chậu tắm trẻ con, 1 xoong
hoặc nồi nhôm, 1 phích nước…
Chế
độ tem phiếu và sổ lương thực thì đến giai đoạn 1985 – 1989 mới chấm dứt hẳn.
Âu cũng một thời, chắc chỉ những
người độ tuổi 60, 70 trở đi mới biết và nhớ thôi.