Nguyễn Trãi
Ngô Tất
Tố dịch
Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt
ở yên dân,
Quân điếu phạt trước
lo trừ bạo;
Như nước Đại Việt
ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến
đã lâu,
Nước non bờ cõi đã
chia,
Phong tục Bắc Nam
cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý,
Trần; bao đời xây nền độc lập;
Cùng Hán, Đường, Tống,
Nguyên; mỗi bên hùng cứ một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc
khác nhau,
Song hào kiệt thời
nào cũng có.
Cho nên:
Lưu Cung tham công
nên thất bại;
Triệu Tiết chí lớn
phải vong thân;
Cửa Hàm Tử bắt sống
Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết
tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét.
Chứng cứ còn ghi.
Vưà rồi:
Nhân họ Hồ chính sự
phiền hà
Để trong nước lòng
dân oán hận
Quân cuồng Minh
thưà cơ gây loạn
Bọn gian tà còn bán
nước cầu vinh
Nướng dân đen trên
ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới
hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ
muôn ngàn kế
Gây thù kết oán trải
mấy mươi năm
Bại nhân nghĩa nát
cả đất trờị
Nặng thuế khóa sạch
không đầm núi.
Người bị ép xuống
biển dòng lưng mò ngọc,
Ngán thay cá mập
thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi
đãi cát tìm vàng,
Khốn nỗi rừng sâu
nước độc.
Vét sản vật, bắt dò
chim sả, chốn chốn lưới chăng.
Nhiễu nhân dân, bắt
bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống
côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ
góa bụa khốn cùng.
Thằng há miệng, đứa
nhe răng,
Máu mỡ bấy no nê
chưa chán,
Nay xây nhà, mai đắp
đất,
Chân tay nào phục dịch
cho vừa ?
Nặng nề những nổi
phu phen
Tan tác cả nghề
canh cửi.
Độc ác thay, trúc
Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước
Đông Hải không rửa sạch mùi!
Lòng người đều căm
giận,
Trời đất chẳng dung
tha;
Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy
nghĩa
Chốn hoang dã nương
mình
Ngẫm thù lớn há đội
trời chung
Căm giặc nước thề
không cùng sống
Đau lòng nhức óc,
chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há
phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận,
sách lược thao suy xét đã tinh,
Ngẫm trước đến nay,
lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ
Những trằn trọc
trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi
đồ hồi
Vừa khi cờ nghĩa dấy
lên,
Chính lúc quân thù
đang mạnh.
Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao
buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa
thu,
Việc bôn tẩu thiếu
kẻ đở đần,
Nơi duy ác hiếm người
bàn bạc,
Tấm lòng cứu nước,
Vẫn đăm đăm muốn tiến
về Đông,
Cỗ xe cầu hiền,
Thường chăm chắm
còn dành phía tả.
Thế mà:
Trông người, người
càng vắng bóng,
Miịt mù như nhìn chốn
bể khơi.
Tự ta, ta phải dốc
lòng,
Vội vã hơn cứu người
chết đói.
Phần vì giận quân
thù ngang dọc,
Phần vì lo vận nước
khó khăn,
Khi Linh Sơn lương
hết mấy tuần,
Lúc Khôi Huyện quân
không một đội.
Trời thử lòng trao
cho mệnh lớn
Ta gắng trí khắc phục
gian nan.
Nhân dân bốn cõi một
nhà,
Dựng cần trúc ngọn
cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng
phụ tử,
Hòa nước sông chén
rượu ngọt ngào.
Thế trận xuất kỳ, lấy
yếu chống mạnh,
Dùng quân mai phục,
lấy ít địch nhiều.
Trọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng
hung tàn,
Lấy chí nhân để thay
cường bạọ
Trận Bồ Đằng sấm
vang chớp giật,
Miền Trà Lân trúc
chẻ tro bay.
Sĩ khí đã hăng
quuân thanh càng mạnh.
Trần Trí, Sơn Thọ
nghe hơi mà mất vía,
Lý An, Phương
Chính, nín thở cầu thoát thân.
Thừa thắng đuổi
dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,
Tuyển binh tiến
đánh, Đông Đô đất cũ thu về.
Ninh Kiều máu chảy
thành sông, tanh hôi vạn dặm
Tụy Động thây chất
đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Phúc tâm quân giặc:
Trần Hiệp đã phải bêu đầu
Mọt gian kẻ thù: Lý
Lượng cũng đành bỏ mạng.
Vương Thông gỡ thế
nguy,
Mà đám lửa cháy lại
càng cháy
Mã Anh cứu trận
đánh
Mà quân ta hăng lại
càng hăng.
Bó tay để đợi bại
vong,
Giặc đã trí cùng lực
kiệt,
Chẳng đánh mà người
chịu khuất,
Ta đây mưu phạt tâm
công.
Tưởng chúng biết lẽ
ăn năn
Nên đã thay lòng đổi
dạ
Ngờ đâu vẫn đương
mưu tính
Lại còn chuốc tội
gây oan.
Giữ ý kiến một người,
Gieo vạ cho bao
nhiêu kẻ khác,
Tham công danh một
lúc,
Để cười cho tất cả
thế gian.
Bởi thế:
Thằng nhãi con
Tuyên Đức động binh không ngừng
Đồ nhút nhát Thạnh,
Thăng đem dầu chữa cháy
Đinh mùi tháng
chín,
Liễu Thăng đem binh
từ Khâu Ôn kéo lại
Năm ấy tháng mười,
Mộc Thạnh chia đường
từ Vân Nam tiến sang.
Ta trước đã điều
binh thủ hiểm,
Chặt mũi tiên phong
Sau lại sai tướng
chẹn đường
Tuyệt nguồn lương
thực
Ngày mười tháng
tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận
Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hăm lăm, bá tước
Lương Minh đại bại tử vong
Ngày hăm tám, thượng
thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.
Thuận đà ta đưa lưỡi
dao tung phá
Bí nước giặc quay
mũi giáo đánh nhau
Lại thêm quân bốn mặt
vây thành
Hẹn đến giữa tháng
mười diệt giặc
Sĩ tốt kén người
hùng hổ
Bề tôi chọn kẻ vuốt
nanh
Gươm mài đá, đá núi
cũng mòn
Voi uống nước, nước
sông phải cạn.
Dánh một trận, sạch
không kình ngạc
Đánh hai trận tan
tác chim muông.
Cơn gió to trút sạch
lá khô,
Tổ kiến hổng sụt
toang đê vỡ.
Đô đốc Thôi Tụ lê gối
dâng tờ tạ tội,
Thượng thư Hoàng
Phúc trói tay để tự xin hàng.
Lạng Giang, Lạng
Sơn, thây chất đầy đường
Xương Giang, Bình
Than, máu trôi đỏ nước
Ghê gớm thay! Sắc
phong vân phải đổi,
Thảm đạm thay! Ánh
nhật nguyệt phải mờ.
Bị ta chặn ở Lê
Hoa,
Quân Vân Nam nghi
ngờ, khiếp vía mà vỡ mật
Nghe Thăng thua ở Cần
Trạm,
Quân Mộc Thạnh xéo
lên nhau, chạy để thoát thân.
Suối Lãnh Câu, máu
chảy thành sông,
Nước sông nghẹn
ngào tiếng khóc
Thành Đan Xá, thây
chất thành núi,
Cỏ nội đầm đìa máu
đen.
Cứu binh hai đạo
tan tành, quay gót chẳng kịp,
Quân giặc các thành
khốn đốn, cởi giáp ra hàng
Tướng giặc bị cầm
tù,
Như hổ đói vẫy đuôi
xin cứu mạng
Thần vũ chẳng giết
hại,
Thể lòng trời ta mở
đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương
Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền,
Ra đến biển mà vẫn
hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã
Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa,
Về đến nước mà vẫn
tim đập chân run.
Họ đã tham sống sợ
chết mà hòa hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là
hơn, để nhân dân nghỉ sức.
Chẳng những mưu kế
kì diệu
Cũng là chưa thấy
xưa nay
Xã tắc từ đây vững
bền
Giang sơn từ đây đổi
mới
Càn khôn bĩ rồi lại
thái
Nhật nguyệt hối rồi
lại minh
Ngàn năm vết nhục
nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái
bình vững chắc
Âu cũng nhờ trời đất
tổ tông
Linh thiêng đã lặng
thầm phù trợ;
Than ôi! Một cỗ
nhung y chiến thắng,
Nên công oanh liệt
ngàn năm
Bốn phương biển cả
thanh bình,
Ban chiếu duy tân
khắp chốn.
Xa gần bá cáo,
Ai nấy đều hay.