Chúng ta tu Phật, ai cũng biết
mình đang mang cái thân vô thường, tạm bợ. Nhưng nếu biết nương nó, khéo tu thì
chúng ta sẽ đi đến chỗ giải thoát sanh tử. Mà giải thoát sanh tử thì sống chừng
bao lâu? Sống mãi không có ngày cùng, sống hoài không chết. Như vậy Phật pháp
là những phương thuốc trị tâm bệnh. Khi lành rồi, chúng ta không còn bị vô
thường chi phối, vì vậy sống mãi vô cùng tận.
Bậc đem phương thuốc đó chỉ dạy
cho người, không phải vua thầy thuốc là gì? Gọi vua thầy thuốc được rồi, tại
sao nói không ai hơn? Không ai hơn nghĩa là có người bằng. Tại sao có người
bằng? Vì nếu chúng sanh chịu khó tu hành đến khi công đức viên mãn thì sẽ thành
Phật. Như vậy là Phật đã thành, chúng ta là Phật sẽ thành. Khi thành Phật rồi
thì có thua Phật bậc nào đâu. Nếu thành Phật thì Phật hồi xưa đến đâu chúng ta
đến đó, ngang bằng Phật mới gọi là Phật, nếu thấp hơn Phật thì không gọi là
Phật được, mà cốt thành Phật thì sau nầy sẽ bằng Phật. Đó là ý nghĩa của Vô
thượng Y vương.
Hiểu rõ ý nghĩa đó, chúng ta
biết có quả vị ngang bằng Phật, chứ không có người hơn Phật nên gọi là Vô
thượng. Vì đến đó là giác ngộ viên mãn rồi. Đức Phật là bậc Vô thượng Y vương
nên Ngài dạy chúng ta trị bệnh để hết sanh tử khổ đau. Vậy bệnh đó là bệnh gì?
Ở đây tôi sẽ lần lượt nêu ra.
Như trong kinh thường nói,
chúng sanh có bệnh gì thì Phật có pháp ấy để đối trị. Nên từ chữ Hán gọi “Tùy
bệnh dữ dược”, nghĩa là theo bệnh cho thuốc. Người ta bị bệnh gì thì mình cho
thuốc ấy để trị lành bệnh. Thầy thuốc ở thế gian khi chẩn mạch biết bệnh rồi thì
phải tìm, phải chọn đúng với bệnh đó. Trị đúng thì bệnh mới lành.
Ở đây Phật cũng xét kỹ chúng
sanh có bệnh gì, Phật cho thuốc ấy. Nhưng bệnh của chúng sanh là tâm bệnh. Thầy
thuốc thế gian thì trị thân bệnh, còn Phật thì trị tâm bệnh. Trong kinh Phật thường
nói chúng sanh có tám muôn bốn ngàn phiền não thì Phật có tám muôn bốn ngàn
pháp môn.
Hiện giờ trong chúng ta có ai
không bệnh không? Tâm chúng ta hoàn toàn tốt, hoàn toàn tỉnh giác hay vẫn đầy
đủ tham, sân, si. Như vậy, mỗi khi chúng ta sanh một niệm xấu, một niệm ác, là
đã có một bệnh. Có bệnh thì phải lấy thuốc Phật uống vô cho lành bệnh.
Quí Phật tử tu theo Phật phải
biết thuốc gì để trị bệnh mình? Có nhiều vị tu cũng đã lâu mà hỏi dùng thuốc gì
trị bệnh thì lắc đầu không biết. Chỉ tụng kinh niệm Phật vậy thôi. Đó là vì
chưa hiểu chính xác đường lối tu của Phật dạy. Tu theo Phật năm mười năm mà
phiền não vẫn còn nguyên, bệnh nào tật ấy không thay đổi. Rồi nói thuốc của
Phật không giá trị, không hết bệnh. Thế là bỏ thuốc luôn.
Như vậy Phật tử mới thấy rằng,
chúng ta tu mà chưa nắm vững được đường lối, thì không biết mình tu cái gì,
không biết mình bị bệnh gì, không biết dùng thuốc gì để trị… lỗi tại không rành
không hiểu. Đó là một điểm yếu mà chúng ta cần phải biết. Nói pháp Phật là
thuốc trị bệnh mà người ta hỏi bệnh gì và dùng pháp gì để trị thì không biết,
như vậy làm sao hết bệnh được.
Thường thường chúng ta có bệnh
về thân, thì bác sĩ chẩn mạch xong cho thuốc trị. Nếu cho thuốc mà chúng ta
không uống thì có lành không? Chắc chắn là không rồi. Vậy mà vẫn có người đến
xin bác sĩ cho tôi khỏi bệnh, chớ không cần chẩn mạch. Quí vị nghĩ người đó có
thể trị lành bệnh không? Bởi vì bác sĩ chẩn bệnh để cho thuốc trị bệnh mà bệnh
nhân chỉ cầu xin bác sĩ cho hết bệnh, chớ không cần cho thuốc, không chịu uống
thuốc thì bệnh làm sao lành được.
Phật tử chúng ta cũng giống như
những bệnh nhân đó vậy. Phật dạy tu, nghĩa là mình có bệnh gì thì dùng pháp đó
để trị. Thế nhưng Phật tử chỉ chắp tay cầu Phật gia hộ cho con được bình yên,
Phật gia hộ cho con mạnh khỏe, chứ không chịu tu. Nghĩa là không chịu uống
thuốc, không chịu trị bệnh mà xin Phật cho mạnh khỏe, bình yên thôi. Phật đã
từng tuyên bố rằng: “Ta không có quyền ban phước, giáng họa cho ai”. Nếu Phật
ban phước, giáng họa được thì Phật không dạy chúng ta tu nhân quả. Tạo nhân
lành thì hưởng quả lành, tạo nhân ác thì hưởng quả ác. Chúng ta tạo chúng ta
hưởng, Phật không có can thiệp chút nào hết. Phật chỉ dạy chúng ta biết đường
lối tu để dẹp phiền não, hết khổ đau. Nhưng chúng ta không chịu tu, cứ xin Phật
cho hết phiền não, hết khổ đau thì xin chừng nào mới được?
Thêm một hạng người nữa, như
bác sĩ chẩn mạch cho toa xong, bảo mua thuốc đó uống sẽ lành bệnh. Nhưng người
ấy đem toa về nhà đọc hoài, đọc thuộc lòng mà không chịu mua thuốc uống. Người
nầy có hết bệnh không? Phật tử có giống như vậy không? Chắc cũng như vậy.
Phật dạy những bài pháp cho
mình tu nhưng chúng ta cứ lấy kinh ra đọc tới, đọc lui cho Phật nghe, như vậy
là tu rồi đó. Đêm nào cũng đem đọc cho Phật nghe, mà bệnh vẫn còn nguyên. Mới
thấy chúng ta từ lầm lẫn nầy sang lầm lẫn khác, nên tu không có kết quả. Chúng
ta phải tu cách nào cho đúng lời Phật dạy? Đó là điều mà tôi nói ở đây.
Phật là vua thầy thuốc, có
những toa thuốc hay trị tất cả bệnh của chúng sanh. Chúng ta bệnh phải dùng
những toa thuốc đó thì bệnh mới lành. Muốn lành bệnh chúng ta phải chịu uống
thuốc, chớ không thể đọc toa thuốc hoặc chắp tay xin thầy thuốc cho lành bệnh.
Đó là hai điểm tôi nhắc cho quí vị nhớ rõ.
Quí vụ có biết mình bao nhiêu
bệnh, đã lành hết chưa? Về thân thì nay yếu mai đau, về tâm thì sao cứ phiền
não hoài. Chừng nào trong chúng, trong gia đình mà cả tháng chúng ta cứ cười
vui, không buồn không giận ai hết, không một chút than thở gì, đó mới là ít
bệnh. Nếu lại có người chỉ mang một ít bệnh, nhưng bệnh đó lại quan trọng thì
thế nào? Trong kinh Phật có kể lại: một hôm Phật hỏi các vị Tỳ Kheo:
-Nếu các ông nhốt bốn con rắn độc chung một nhà thì thế nào?
-Nếu các ông nhốt bốn con rắn độc chung một nhà thì thế nào?
Các thầy Tỳ Kheo bạch rằng:
-Chúng con ngủ không yên.
Phật hỏi:
-Làm thế nào các ông ngủ mới
yên?
Các thầy Tỳ Kheo bạch rằng:
-Chúng con phải đuổi mấy con
rắn độc ra khỏi nhà thì ngủ mới yên.
Phật nói:
-Cũng vậy, nếu mấy ông còn tham
sân si trong tâm thì các ông ngủ không yên. Vì tham sân si còn hại hơn rắn độc
nữa. Rắn độc cắn chỉ chết một thân nầy, tham sân si tạo nghiệp chịu khổ không
biết khi nào mới hết.
Như vậy, hiện giờ nội tâm chúng
ta đã hết tham sân si chưa hay còn đủ? Nếu còn đủ chúng ta có yên lòng ngủ
không? Nó độc hơn rắn độc mà chứa nó, thì làm sao chúng ta yên được? Vậy mà
Phật tử không biết đuổi rắn độc ra, lại đi xin Phật cho con bình yên. Thử hỏi
làm sao bình yên được?
Chúng ta tu là mong hết khổ, để
đi tới an lạc giải thoát. Nếu còn tham sân si là còn đau khổ. Cho nên dù tu năm
mười năm mà tham sân si không hết thì việc tu đó vô hiệu rồi. Hiện nay, chẳng
những người tại gia cư sĩ mà cả hàng xuất gia, có ai hết tham sân si chưa? Chưa
ai hết. Như vậy thì chúng ta chưa có bình an, phải không? Bởi vì trong nhà còn
rắn độc thì làm sao bình an được. Đó là một lẽ thật.
Thế nên, muốn được bình an phải
đuổi ba con rắn độc ấy đi. Phật dạy phương pháp đuổi nó, chúng ta phải khéo
nghe và khéo tu thì sẽ đuổi được bọn chúng ra khỏi nhà.
Trước tiên tôi nói về con rắn
tham. Muốn đuổi rắn tham ra khỏi nhà thì phải dùng thuốc gì? Trước khi nói cách
đuổi, tôi giải thích rõ tham có nhiều loại. Thông thường có năm thứ: tham tài,
tham sắc, tham danh, tham thực, tham thùy. Đó là năm thứ tham. Năm thứ tham nầy
phải trị bằng thuốc gì?
1. Người tham tiền của nhiều thì dùng thuốc bố thí để trị. Tại
sao bố thí lại trị được bệnh tham tiền của? Bởi vì tham nên được ít muốn nhiều,
được nhiều muốn nhiều hơn nữa. Như gia đình mình mỗi tháng có một triệu bạc thì
sống thoải mái, nếu tháng đó có được triệu rưỡi thì sao? Dư năm trăm phải
không? Người tham khi dư năm trăm, liền muốn kiếm thêm năm trăm nữa cho được
hai triệu.
Do đó trị bệnh tham, Phật dạy
phải bố thí. Khi dư năm trăm, chúng ta xem ai nghèo thiếu, ai khổ hơn mình thì
giúp cho họ. Bố thí như vậy vừa được việc lợi ích cho người, vừa hết lòng tham
cho mình. Có dư liền cho thì đâu còn tham, dư mà tích lủy hoài thì đó là tham.
Nên trong kinh Phật thường dạy, lòng tham như túi không đáy, bỏ bao nhiêu nó
cũng tuột hết, không biết tới đâu là đầy, tới đâu là đủ. Vì vậy chúng ta có dư
nên giúp người nghèo thiếu, đó là biết trị bệnh tham tài.
2. Tham sắc dùng thuốc gì để trị? Nếu người tham sắc phải dùng
thuốc quán bất tịnh để trị. Quán bất tịnh có hai cách: một là quán nơi thân
mình có ba mươi sáu vật nhơ nhớp. Hai là quán thân người chết, từ khi mới tắt
thở lần lần tới sình thối v.v… quán như vậy sẽ hết tham sắc. Tại sao?
Vì thấy thân nầy nhơ nhớp, bẩn
thỉu đáng gớm thì thân người khác cũng nhơ nhớp, bẩn thỉu như thế, có gì để yêu
thích. Nói tóm lại thân mình, thân người chỉ là một cái bô đậy kỹ vậy thôi. Quí
vị trong nhà có một cái bô đã khó chịu rồi, huống hồ thêm hai ba cái nữa thì
đáng gớm không?
Khi đức Phật gần thành đạo dưới
cội Bồ Đề, Ma vương đến phá Ngài bằng cách hiện hình những thiếu nữ kiều diễm
ca múa, để Ngài nhớ trở về hoàng cung. Ngài liền quở: “Đi, các người là đãy da
hôi thúi. Ta không có dùng”. Chúng hổ thẹn rút lui hết. Sau đó, chúng hiện ra
một đám đầu trâu mặt ngựa hung dữ, cầm gươm giáo bao vây muốn khiến cho Ngài
run sợ. Nhưng đức Phật chỉ an tịnh ở trong chánh định, không thèm nghĩ, không
thèm thấy nó. Lát sau bọn chúng cũng bỏ đi. Nên trong kinh nói rằng, đức Phật
dùng cung thiền định, kiếm trí tuệ mà diệt ma quân.
Chúng ta tu là dùng thiền định,
trí tuệ để dẹp sạch ma quân. Nhưng bây giờ có nhiều người ngồi thiền hoặc niệm
Phật để bắt ấn, đọc chú hoặc vẽ bùa để trấn ma. Đó là đã đi lệch hướng rồi.
Chúng ta phải dùng thiền định, dùng trí tuệ để dẹp ma chứ. Không phải dùng bùa,
dùng chú. Bùa chú như vậy là lạc vào ngoại đạo rồi. Quí vị phải nhớ thật kỹ.
Nói thân nầy nhơ nhớp, có người
không bằng lòng, vì họ cho rằng mình vệ sinh sạch sẽ thì làm sao nhơ nhớp được?
Tôi nói một thí dụ rất đơn giản để minh chứng điều nầy. Nếu thân nầy sạch thì
nó luôn toát mùi thơm như hoa sen rồi, chúng ta đâu cần phải dùng xà bông thơm.
Nhưng vì nó hôi quá nên phải dùng xà bông thơm, dùng nước hoa cho bớt hôi. Vì
biết mình dơ nhưng muốn giấu, không cho người ta biết nên dùng cái nầy cái kia
để khỏa lấp đi. Đó là chúng ta chưa thấy lẽ thật.
Thêm một điều nữa, biết rõ thân
mình nhớp nhúa, nhưng nghe ai nói “chị nầy hôi quá” thì buồn liền. Sự thật mình
nhớp nhưng nghe người ta chê lại buồn. Như vậy rõ ràng chúng ta không dám nhìn
nhận sự thật. Chúng ta chỉ tưởng tượng chứ không thấy đúng lẽ thật.
Người biết tu rồi phải nhìn
thấu đáo sự thật. Thân nầy nhớp nhúa, chúng ta nhận là nhớp nhúa nên khi ai
chê, mình chấp nhận đúng như vậy. Chúng ta kiểm lại từ đầu đến chân có cái gì
không nhớp đâu. Như quí nhất là con mắt, nhưng khi ghèn chảo đổ ra có gớm
không? Rồi đến lỗ mũi, nước mũi chảy ra có gớm không? Kế đến là miệng, miệng
khi khạc nhổ ra rồi, có can đảm liếm lại không? Như vậy tất cả từ đầu đến chân
toàn là nhơ nhớp, mà chúng ta cứ tưởng nó sạch. Tưởng tượng thì không phải lẽ
thật. Đó là cái thấy sai lầm, không có trí tuệ. Chúng ta biết rõ thân nầy nhớp
nhúa, mà đã nhớp nhúa thì tại sao lại mê đuổi theo nó? Đó là điểm thứ nhất.
Thứ hai, nếu người bệnh tham ái
trầm trọng, thấy ai cũng dễ thương hết, thì Phật dạy quán thây chết. Từ lúc tắt
thở cho đến một giờ, hai giờ, tới bầm xanh rồi sình lên v.v… Bây giờ nói gần
nhất như người thân của mình, hoặc anh em cha mẹ, khi tắt thở chừng vài chục
tiếng đồng hồ, mình dám lại gần không? Đó, lúc sống là cha, là mẹ, là anh, là
em, mà chết liền thành thây ma, gớm sợ đủ thứ hết. Như vậy, mới thấy rằng thân
đó không thật quí. Nếu thật quí thì chúng ta đâu có sợ.
Phật bảo ai bệnh nặng về sắc,
thì phải luôn luôn quán thân là nhớp nhúa. Từ tóc, lông, răng, móng, da, thịt,
gân, xương, ba mươi sáu vật xét cho thật kỹ, vật nào cũng nhớp hết. Quán như
vậy mà không hết bệnh thì phải quán thây chết. Đó là cách trị bệnh tham sắc.
Lâu nay quí vị có trị bệnh đó
chưa? Tu mà không chịu trị bệnh, nên bệnh còn hoài. Rồi than sao tôi tu lâu quá
mà những thói xấu không chịu hết. Vì có chịu quán đâu, không chịu uống thuốc mà
cứ đọc toa thuốc của Phật suốt ngày thì làm sao hết bệnh được. Đó là bệnh thứ
hai.
3. Bệnh tham danh. Tham danh là muốn chức phận cao, muốn được
người ta khen ngợi v.v… Phật dạy bệnh tham danh lấy thuốc vô thường để trị. Giả
sử người ra ứng cử Tổng thống được đắc cử, người đó hưởng địa vị ấy được bao
lâu? Bốn năm, tám năm rồi cũng hết. Sau đó cũng thành thường dân trở lại, đâu
có bền, đâu có lâu dài mà phải chịu bao nhiêu thứ khổ sở. Đó là dùng thuốc vô
thường để trị bệnh tham danh. Song muốn uống cho hết gốc thì phải thêm thang thuốc
quán “khổ” nữa.
Bởi vì người cầu danh trước khi
được cũng khổ, sau khi được cũng khổ. Như trước khi được làm Tổng thống phải
vận động, chạy ngược chạy xuôi cầu mong người ta bỏ phiếu cho mình, vận động là
khổ rồi. Đến khi đắc cử có vui không? Phải lo đủ thứ việc, rồi lại sợ người ta
đoạt mất ghế nữa. Đó, được và gìn giữ cho đừng mất cũng khổ. Đến khi lỡ rớt
xuống có khổ không? Khổ. Như vậy quán ba thời đều là khổ: trước khổ, giữa khổ,
sau cũng khổ. Một cái vô thường mà muốn được, phải khổ như vậy thì muốn làm gì?
Muốn được khen ngợi làm gì, muốn chức tước cao làm gì? Nhớ quán như thế, tự
nhiên mình hết tham danh vọng chức tước cao. Đó là phương thuốc trị bệnh tham
danh.
4. Bệnh tham ăn. Bệnh tham ăn nầy ai cũng có hết. Ăn thì muốn
ăn thật ngon, cho vừa với cái lưỡi tham vị ngon. Bệnh tham ăn nầy phải dùng
thuốc để trị? Phải dùng hai thứ thuốc trị mới lành.
Thuốc thứ nhất là quán thức ăn nhơ nhớp, không sạch. Khi còn ở
trên mâm, nó thơm tho hấp dẫn nhưng nhai nuốt rồi nó mất. Sau khi mất, tới hồi
trả ra rất ghê gớm. Như vậy, nó có thật ngon không? Nếu thật ngon thì trước sau
đều ngon. Khi đem vô ngon, lúc trả ra cũng phải ngon. Nhưng đàng nầy đem vô thì
ưa, mà đem ra thì gớm. Như vậy đâu phải thật ngon. Đó là nói tiêu hóa được, còn
như ăn không tiêu hóa, ăn vô khỏi cổ mà bao tử không chịu chứa, bắt ụa ra thì
có gớm không? Như vậy ngon chỗ nào? Chúng ta xét thức ăn nhơ nhớp không có gì
quan trọng, ăn để sống chứ không phải ăn để tìm vị ngon. Mà không tìm vị ngon
thì bớt tham ăn.
Thuốc thứ hai, chúng ta xét thức ăn ngon chỉ có mấy phút ở
lưỡi thôi, khi nuốt vô liền hết ngon. Cái ngon đó là cảm giác tạm bợ, vô
thường, không lâu bền. Vì vô thường nên không quan trọng. Lại thêm nữa, người
có của tiền dư dả, muốn ăn gì đều được nấy. Ăn đủ thức ăn ngon sẽ dẫn đến kết
quả mập phì, bị bệnh cao huyết áp, bệnh tiểu đường, bệnh tim mạch, đủ thứ bệnh
v.v… như vậy ăn càng ngon thì càng khổ, càng bệnh chớ có lợi gì đâu.
Tóm lại, cái mà chúng ta nói
ngon đó không phải là lẽ thực, không phải là kế lâu dài, chỉ là tạm bợ. Nếu
chúng ta lệ thuộc nó thì phải khổ thôi. Quán cái ngon là vô thường, là nhơ nhớp
thì lần lần hết ham muốn ăn ngon. Như vậy, dùng thuốc quán vô thường, quán bất
tịnh để trị bệnh tham ăn.
5. Bệnh tham ngủ. Bệnh nầy trong chùa dễ mắc lắm. Vì phải thức
khuya dậy sớm, nên người nào tham ngủ nhiều sẽ khó thức lắm. Hồi tôi còn ở
trường, có mấy huynh đệ thường dặn: “Khuya nhớ kêu tôi dậy đi công phu nghe”.
Tới khuya đánh kẻng tôi kêu, lắc qua lắc lại một hồi, huynh ấy nói đau đầu quá,
rồi ngủ tiếp không thèm dậy công phu luôn. Đó là bệnh tham ngủ. Bởi tham ngủ
nên mất hết thì giờ tu hành của mình.
Làm sao trị bệnh tham ngủ? Muốn
trị bệnh nầy cũng có hai thứ thuốc. Một là thuốc vô thường. Hồi xưa, mỗi khi
tụng kinh thường nghe câu: “Thị nhựt dĩ quá, mạng diệt tùy giảm, như thiểu thủy
ngu…” nghĩa là ngày nay đã qua, mạng cũng theo đó mà giảm, như cá cạn nước… Như
vậy, cuộc sống thật ngắn ngủi, thật tạm bợ mà mình cứ lo ngủ, tức là giết hết
thì giờ quí báu rồi. Cho nên phải siêng năng thức dậy tu.
Hai là lấy roi tinh tấn để quất ma ngủ. Nghe tiếng kẻng, chưa chịu dậy thì phải rầy cho nó trổi dậy
liền. Tu hành mà lười biếng là cái nhân đọa vào đường ác. Nên phải mạnh
mẽ, phải tinh tấn, nhắc như vậy cho mình cố gắng lên. Đó là dùng thuốc tinh tấn
và thuốc quán vô thường để trị bệnh lười biếng. Nhờ thế ma ngủ lui mất.
Tóm lại để trị năm thứ bệnh
tham đó, chúng ta phải biết dùng các toa thuốc sau:
-Tham tài dùng thuốc bố thí.
-Tham sắc dùng thuốc quán bất
tịnh.
-Tham danh dùng thuốc quán vô
thường và quán khổ.
-Tham ăn dùng thuốc quán bất
tịnh và quán vô thường.
-Tham ngủ dùng thuốc quán vô
thường và roi tinh tấn.
Trong năm thứ tham nầy, không
ai giống ai, kẻ tham thứ nầy, người tham thứ kia không giống nhau. Cho nên mỗi
thứ đều có thuốc để trị. Như vậy là trị được bệnh tham. Trị được bệnh tham là
đuổi con rắn tham ra rồi.
Đến con rắn sân. Người bị bệnh
sân lấy thuốc gì để trị. Một là nhẫn nhục, hai là từ bi. Khi người ta nói trái
ý hoặc làm tổn thương đến danh dự của mình, lúc cơn giận bừng bừng nổi lên.
Chúng ta liền dùng thuốc nhẫn nhục. Nhẫn làm sao, uống bằng cách nào?
Khi nóng giận bừng bừng nổi lên
thì nó sẽ phát ra lời nói, phát ra hành động. Vì vậy, lửa sân vừa dấy lên thì
chúng ta phải trị bằng thang thuốc nhẫn nhục. Song nhẫn bằng cách nào, làm sao
nhẫn? Nói nhịn là được, nhưng sự thực nói nhịn không thì chưa đủ sức để nhịn.
Chúng ta phải nói rõ rằng “Nhịn là khôn, nói là dại”, nhắc tới nhắc lui câu đó
chừng hàng chục lần thì hết giận.
Bởi khi giận nói ra liền nói
bậy. Có khi nào mình nổi nóng mà nói đàng hoàng đâu. Nổi nóng thì toàn là nói
bậy, nói lời không hay, nói lời thô tục v.v…Vì vậy mà phải tự nhắc “nhịn là
khôn, nói là dại”. Chúng ta muốn khôn, không muốn dại thì nhịn, làm thinh bỏ
qua. Nhưng bỏ qua một lát thì dễ, đến chừng nhớ lại, cũng nổi nóng nữa. Bây giờ
phải làm sao trị cho dứt tận gốc mới được? Nên phải dùng thuốc quán từ bi để
trừ căn.
Quàn từ bi là quán thế nào? Như
khi ta nổi giận lên, lúc đó thấy người làm cho mình giận dễ thương hay dễ ghét?
Rất dễ ghét mà còn muốn chửi, muốn đánh cho đã giận. Nên phải dùng thuốc quán
từ bi. Nhưng quán từ bi bằng cách nào? Họ chửi mình làm sao quán từ bi được?
Tôi sẽ chỉ cho quí vị quán từ bi không khó.
Ví dụ chúng ta vào bệnh viện
tâm thần thăm một người quen. Vừa bước vào cửa rào, gặp một người điên chỉ vô
mặt mình chửi, lúc đó chúng ta xử trí ra sao? Họ chửi mình không có duyên cớ gì
hết, không động phạm gì hết, như vậy đáng giận không. Nếu giận, mình chửi mình
đánh lại thì người ngoài cuộc sẽ nói mình như thế nào? Kẻ đánh lộn với người
điên là kẻ điên luôn rồi, chứ còn gì nữa.
Như vậy để phân biệt ai là kẻ
điên, ai là người tỉnh thì khi gặp kẻ điên loạn làm bậy, mình phải tỉnh không
cự lại họ. Người ta điên nên người ta bậy, người ta sai. Còn mình bình tỉnh thì phải
sáng suốt mới đúng chứ. Nên khi người vô cớ chửi mình, làm nhục mình, chúng ta
phải nghĩ người đó không được minh mẫn nên họ mới nói bậy, làm bậy. Người đó
đáng thương chứ không đáng giận. Xét như vậy chúng ta thương họ, tội nghiệp họ
nên không giận. Nhờ thế trị hết gốc giận luôn. Quí Phật tử phải khéo tu mới hết
nóng giận. Nhiều vị nói tánh tôi nóng quá, nên mỗi bửa đốt hương nguyện Phật
cho con hết nóng, Phật cho được không? Phật không thể cho mình hết nóng mà Phật
chỉ dạy pháp tu, chúng ta ứng dụng theo đó tu tập thì sẽ hết nóng giận. Phương
pháp trị nóng giận là hạnh nhẫn nhục và quán từ bi.
Trong kinh Phật có kể lại một câu chuyện: Hôm đó Ngài khất thực tại một khu
làng của các vị Bà la môn. Bổn đạo Bà la môn thấy Phật oai nghi nghiêm trang tề
chỉnh, tướng mạo rất đẹp nên họ vây quanh chiêm ngưỡng Phật. Sau khi thọ trai
xong, Phật nói pháp cho họ nghe. Nghe xong họ phát tâm qui y Phật. Đôi ba lần
như vậy nên xóm Bà la môn đó theo Phật hết.
Bấy giờ vị thầy của họ tức quá, ông đợi đức Phật đến, rồi lẽo đẽo theo sau
kêu tên của Phật chửi. Chửi một hồi, ông thấy Phật vẫn cứ ung dung đi, không để
ý gì cả, ông bèn chận đường Phật hỏi:
-Cù Đàm, thua tôi chưa?
Phật trải tọa cụ ngồi xuống, đọc bài kệ:
Kẻ hơn thì thêm oán
Người thua ngủ chẳng yên
Hơn thua hai đều xả
Ấy được an ổn ngủ.
Người thua ngủ chẳng yên
Hơn thua hai đều xả
Ấy được an ổn ngủ.
Phật im lặng, ngoại đạo tưởng Phật thua. Nhưng sự thật ai còn chê người,
còn giành phần hơn thì kẻ đó là người bất an. Như vậy mới thấy nhịn là khôn,
chửi là dại.
Chúng ta thấy ngay cả đức Phật ngày xưa, đâu phải ai cũng cung kính hết,
vẫn có người chửi như thường. Nếu gặp người chửi. Ngài cũng chửi lại thì bây
giờ chúng ta có lạy Phật không? Cũng vậy, giới tu sĩ chúng ta nếu bị người mắng
chửi, liền nổi tức cự lộn với người ta, rốt cuộc lỗi hết về mình. Vì sao? Vì đã
là tu sĩ mà còn nóng giận sân si như vậy, thì đâu thể gọi được là kẻ tu
hành được. Làm sao dạy dỗ hàng Phật tử? Chửi càng hơn, càng thắng thì càng bị
người ta coi thường.
Nên người tu hành phải lấy hạnh nhẫn nhục làm đầu. Lúc nào, hoàn cảnh nào,
dù thuận hay nghịch, mình cũng phải hoan hỷ, cũng phải bỏ qua hết. Như vậy mới
gọi là tu, tu thì mới trị hết các bệnh. Nên nhớ chúng ta muốn tu thì phải cố
gắng trị bệnh của mình cho lành. Đó là thuốc trị bệnh sân.
Đến bệnh si. Si mê là điều rất nguy hiểm. Bởi si mê nên chúng ta chấp những
cái không thật cho là thật, tưởng tượng những điều không đúng chân lý không
đúng với lẽ thật.
Vì si mê nên sanh ra tham, vì si mê nên sanh ra nóng giận. Nên nói si mê là
nguy hiểm nhất. Vậy dùng thuốc gì để trị si mê?
Phật dạy dùng trí tuệ để trị bệnh si mê. Si mê là bóng tối mà trí tuệ là ngọn
đèn, là ánh sáng. Có đèn thì không tối, còn tối thì không đèn. Kẻ si mê thì
không có trí tuệ, người có trí tuệ thì hết si mê. Do si mê nên có những bệnh
như ngã ái, ngã mạn… ngã ái là gì? Là thương, là quí thân nầy. Ngã mạn là gì?
Là cho mình hơn thiên hạ, mình trên hết. Bởi thấy hơn nên khinh người nầy, chê
người kia. Như vậy từ si mê thấy thân nầy là quí, là thiệt nên thương nó, đó là
ngã ái. Thấy thân mình là quan trọng, là cao hơn người nên sanh ngã mạn.
Người si mê sanh ngã ái, ngã mạn phải dùng thuốc gì để trị? Mỗi tối, chúng
ta từ cư sĩ cho đến xuất gia đều tụng Bát Nhã hết phải không?
Bây giờ tôi chỉ nhắc lại một câu thôi: “Quán Tự Tại Bồ tát hành thâm Bát
Nhã Ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách”.
Chiếu kiến ngũ uẩn giai không là sao? Là soi thấy thân năm uẩn nầy không thiệt,
nhờ soi thấy thân năm uẩn không thiệt nên qua hết khổ nạn.
Chúng ta tụng kinh Bát Nhã bao nhiêu năm rồi, có chiếu liến ngũ uẩn hay là
đọc trả bài cho Phật? Phật dạy phải soi thấy năm uẩn nầy không thiệt. Đã không
thiệt thì còn gì yêu mến nó, còn gì quí trọng nó. Nhưng vì chúng ta tụng mà
không chịu chiếu, không chịu soi nên tụng hoài mà cái ngã vẫn y nguyên, không
mất chút nào hết. Năm uẩn có chia ra làm hai: một là vật chất, hai là tinh thần.
-Vật chất: Sắc uẩn do đất, nước, gió, lửa, bốn chất hợp lại thành nên không
thiệt, nó là giả dối.
-Tinh thần: Thọ uẩn là những cảm giác khổ vui hoặc không khổ không vui…
Những cảm giác ấy có một chút rồi qua, đâu còn hoài nên nói không thiệt. Tưởng uẩn
là những bóng dáng tưởng tượng, không có thiệt. Hành uẩn là những suy tư, suy
tư là dòng sinh diệt. Thức uẩn là những ý thức phân biệt sinh diệt liên tục,
nên cũng không thiệt.
Xét kỷ ngũ uẩn về hai mặt tinh thần và vật chất đều là duyên hợp, hư giả không
thiệt. Biết rõ nó không thiệt, tánh nó là không thì khổ nạn nào cũng qua. Phật
dạy kỹ quá, bắt đọc mỗi đêm mà khổ nạn nào chúng ta cũng cứ chịu chứ qua không
nổi. Nếu thấy thân nầy không thiệt, năm uẩn không thiệt thì giả sử ai có chửi,
mình có quan trọng không? Thân đã không thiệt thì lời chửi có thiệt đâu, có
nghĩa gì đâu mà buồn. Thấy rõ như vậy thì ngã ái, ngã mạn theo đó nó hết. Đó là
tu Bát nhã, là trí tuệ.
Bát nhã có chia ra ba phần: một là Văn tự Bát Nhã, hai là Quán chiếu Bát
nhã, ba là Thật tướng Bát nhã. Ngài Thái Hư (Trung Quốc) dùng một thí dụ rất
hay về ba thứ Bát nhã nầy. Ngài nói như có người cần qua sông, họ bước xuống
thuyền, được ngồi trên thuyền, đó là Văn tự Bát nhã. Xuống thuyền rồi thì quay
chèo cầm dầm bơi. Đó là Quán chiếu Bát nhã. Bơi cho thuyền cập bến sang sông
rồi mình lên bờ, đó là Thật tướng Bát nhã.
Như vậy, chúng ta đang tu là tu Bát nhã nào? Văn tự Bát nhã. Nhưng xuống
thuyền rồi, cứ ngồi yên đó không chịu bơi chèo gì hết, thì chừng nào mới qua
bên kia sông? Nên biết chúng ta tu chưa đúng với những gì Phật dạy. Chiếu kiến
là quán, quán rồi mới đi tới thật tướng. Nếu chúng ta không chịu quán, chẳng
khác nào xuống thuyền muốn qua sông, mà không chịu bơi chèo, cứ ngồi ỳ đó hoài
thì bao lâu mới qua được bờ bên kia? Chắc tới thuyền mục cũng không qua được.
Cứ dùng văn tự cho đó là đủ, không chịu quán chiếu. Bởi không quán chiếu nên
không thể tiến lên, không dẹp được phiền não. Vì vậy tu mười năm, hai mươi năm
mà phiền não vẫn y nguyên. Đó là lỗi lầm lâu nay chúng ta mắc phải.
Do quán chiếu soi rọi thấy thân nầy tạm bợ, hư giả nên chúng ta không ái
nó. Không ái nó thì chúng ta không ngã mạn. Như vậy tu là diệt trừ bệnh cho
mình. Muốn trừ bệnh thì phải dùng thuốc. Nếu được toa thuốc mà mình không mua
thuốc uống thì cái toa cũng trở thành vô nghĩa. Phật dạy phải quán chiếu để
thấy rõ năm uẩn không thiệt mà mình cứ đọc cho Phật nghe hoài thì chừng nào hết
bệnh? Tu như vậy thì chừng nào mới thành Phật.
Ở đây tôi chỉ nói những bệnh căn bản là tham sân si, để quí vị biết từng
thứ thuốc mà trị bệnh. Bây giờ có thứ thuốc nào trị bá bệnh không? Cũng có
thuốc trị bá bệnh, nhưng trị bá bệnh thì chậm lành hơn. Thuốc nào bệnh nấy thì
mau lành, còn thuốc trị bá bệnh thì chỉ có giá trị nhè nhẹ thôi. Thuốc trị bá
bệnh là gì?
Nếu người tu thì dùng “Lục tự Di Đà” làm thuốc trị bá bệnh. Khi vừa nổi
sân, chúng ta nhớ niệm “Nam mô A Di Đà Phật”, niệm một hồi quên sân phải không?
Vừa có việc gì buồn, niệm Phật một hồi quên buồn, đó là thuốc trị bá bệnh.
Thuốc bá bệnh thì yếu hơn một chút, phải siêng năng cần mẫn trị mới lành, nếu
không thì không lành. Đó là thuốc trị bá bệnh của người tu Tịnh độ.
Nếu người tu Thiền thì thuốc trị bá bệnh là gì? Khi nào vừa dấy niệm chạy
theo cảnh, chúng ta liền buông, vì sao phải dùng thuốc đó? Vì tất cả buồn,
thương, giận, ghét đều từ ý niệm dấy lên. Do khởi niệm mới tới buồn, thương,
giận, ghét. Nếu vừa khởi niệm liền buông bỏ không theo, như vậy vừa trị, vừa
ngừa bệnh. Khi nó mới dấy chưa thành bệnh thì không gọi là trị. Vừa dấy lên
mình liền buông tức là ngừa bệnh. Buông hết, đến một lúc nào đó tâm không còn
buồn giận, tức hết đau khổ. Đó là thuốc trị bá bệnh trong nhà thiền.
Nhưng có người tu tập theo thiền một năm hai năm, niệm cứ khởi hoài nên
than sao tu mà niệm không lặng. Vậy phải làm sao cho có kết quả. Chỗ nầy,
tôi dẫn lời Lục Tổ Huệ Năng trong kinh Pháp Bảo Đàn: “Bất phạ niệm khởi,
duy khủng giác trì”, nghĩa là không sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm. Dấy niệm là
mê, biết nó hư dối không theo, đó là giác. Giả sử một ngày dấy lên một trăm lần
niệm, tức một trăm lần mê thì sẽ có một trăm lần giác. Như vậy đâu có thiệt
thòi gì, chỉ sợ mê mà mình không giác, đó mới là thiệt thòi.
Như vậy, người tu Tịnh độ thì niệm danh hiệu Phật để tiêu mòn các bệnh. Còn
người tu Thiền nhìn lại mình, tức là phản chiếu bằng trí tuệ. Vừa dấy niệm liền
buông đi, lần lần niệm dứt sạch, bệnh được lành. Đó là dùng trí tuệ phá tan các
mầm bệnh. Như vậy, tu Tịnh độ cũng có thuốc trị bá bệnh, tu Thiền cũng có thuốc
trị bá bệnh. Song pháp nào cũng phải thực hành đến nơi đến chốn mới có kết quả,
chớ còn thực hành nữa chừng hay chút ít thì không bao giờ có kết quả.
Người học Phật mà không biết pháp, không biết bệnh thì khó trị lành. Hôm
nay tôi hướng dẫn quí vị ba căn bệnh ngặt nghèo là tham sân si. Quí vị cố gắng
dùng thuốc, chớ không nên học thuộc lòng toa thuốc, cũng không nên chắp tay xin
thầy thuốc cho con hết bệnh. Được vậy, chúng ta tu sẽ có kết quả, không nghi.
***
Hòa
thượng THÍCH THANH TỪ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét