Đề tài tôi nói chuyện hôm nay
rất đơn giản: người biết tu Phật thì rất nhẹ nhàng thảnh thơi. Người xuất gia
khi bước chân vào đạo, thường nhớ rõ câu “xả phú cầu bần, xả thân cầu đạo”, của
người xưa. Đi tu thì phải xả phú cầu bần, xả thân cầu đạo, đó là điều căn bản
của người tu hành.
Nếu chúng ta không xả bỏ vật
chất, của cải thế gian thì chúng ta làm sao bước chân vào đạo được. Khi vào đạo
rồi, nếu chúng ta không xả thân nầy, không biết hy sinh thân mình, làm lợi ích
cho đạo, lợi ích cho chúng sinh thì không xứng đáng là người tu. Cho nên câu
“xả phú cầu bần, xả thân cầu đạo” có ý nghĩa hết sức thiết thực đối với giới tu
hành của chúng ta.
Nếu chúng ta tu mà không quên
của cải sự nghiệp thế gian, chỉ quí trọng thân nầy, muốn nó được an vui sung
sướng thì chúng ta không thể tiến tu đạo nghiệp được, như vậy chữ tu hiện giờ
chúng ta đang ứng dụng có nghĩa là chúng ta phải biết xả bỏ. Xả bỏ của cải thế
gian, rồi bước sang xả bỏ cả thân mạng, không quí tiếc. Xả bỏ thân mạng chưa
đủ, chúng ta còn phải xả bỏ tam độc. Tam độc tức là tham, sân, si. Nếu chúng ta
không xả tam độc thì chúng ta không phải là người tu. Nếu đuổi được tham, sân,
si thì chúng ta được nhẹ nhàng thảnh thơi. Tu dẹp được một cái xấu, bỏ được một
điều hại thì chúng ta được nhẹ nhàng, thảnh thơi một phần. Cho nên bước thứ
nhất chúng ta tu là phải xả bỏ phiền não, mà phiền não trước tiên là tham, sân,
si.
Ở tâm chúng ta có tham, có sân,
có si, bây giờ muốn cho nó hết thì ai đuổi nó ra? Mỗi đêm chúng ta cầu Phật cho
con hết tham, sân, si được không? Chắc rằng Phật cho không được vì tham, sân,
si trú ngụ sẵn trong nội tâm chúng ta. Muốn đuổi nó thì phải loại ra, phải diệt
trừ nó. Phật ở ngoài không làm cho nó hết được. Xin hỏi Ni chúng, chúng ta tu
cũng được hai, ba mươi năm hoặc năm, mười năm, quí vị đuổi ba con rắn độc nầy
ra hết chưa? Bởi vậy ba thứ độc là căn bản cho chúng ta khổ đau, đó là điều thứ
nhất.
Thứ hai là xả luyến ái. Tại sao
chúng ta phải xả luyến ái, luyến ái là gì? Luyến ái là yêu thương. Yêu thương
người nầy, yêu thương người kia. Yêu thương trong cái ái chứ không phải yêu
thương bằng lòng từ bi, chúng ta phải xả bỏ nó, vì Phật thường dạy ái là gốc
luân hồi sanh tử. Nếu chúng ta muốn thoát khỏi luân hồi sanh tử thì chúng ta
phải xả bỏ luyến ái. Vì luyến ái mà con người phải khổ đau, nên trong bát khổ
có khổ ái biệt ly. Người nào còn ôm chặt tâm luyến ái thì nhất định người ấy sẽ
còn đau khổ. Hàng tu sĩ xuất gia chúng ta phải khéo xả bỏ luyến ái đối với
huynh đệ, bạn bè, đối với những người chung quanh.
Đừng bị trói buộc, đừng bị sợi
dây ái lôi kéo thì chúng ta mới tu đến nơi, đến chốn được. Nếu người xuất gia
không xả bỏ được luyến ái thì không thể nào thoát được luân hồi sanh tử. Đây là
điều tối quan trọng, nên Tăng Ni và Phật tử phải cố gắng xả bỏ tâm luyến ái của
mình. Tâm luyến ái sạch rồi chúng ta mới hết khổ, mới dứt được vòng luân hồi.
Muốn thế, chúng ta phải xả hết, đừng cho căn, trần, thức, ba cái đó cột trói
nhau nữa. Đây là điều thứ hai.
Chúng ta tu hay bị trần cảnh
lôi kéo, dẫn dắt nên gặp nhiều trở ngại. Mắt duyên với sắc, tai duyên với âm
thanh, mũi duyên với mùi hương, lưỡi duyên với vị, thân duyên với xúc chạm. Tất
cả những thứ duyên đó, nếu chúng ta kẹt thì sẽ bị nó lôi dẫn, không an ổn được,
người tu luôn luôn phải gỡ, đừng để sáu căn dính mắc với sáu trần. Trong nhà
Thiền thường chú trọng điều nầy. Xưa kia có người hỏi Thiền sư thế nào là giải
thoát. Ngài trả lời căn trần không dính nhau là giải thoát.
Người ta cứ nghĩ, tu giải thoát
là đi đến một xứ nào xa lạ, kỳ đặc, chứ không ngờ giải thoát là ngay nơi sáu
căn không dính với sáu trần. Nếu sáu căn còn dính kẹt với sáu trần thì chúng ta
không được giải thoát. Đó là lẽ thật. Tôi hay thí dụ: có người đi ra đường,
thấy cái gì đẹp liền thích, rồi mong mỏi cho được, vì mơ ước thành ra bị trói
buộc. Món đồ đó có dính dáng gì với mình mà bị nó trói buộc; rồi hay đổ thừa:
“bị cái đó làm cho tôi phiền não, làm cho tôi bị khổ sở”.
Cảnh bên ngoài có thật buộc
mình không? Hay là mình không khéo tu nên bị nó trói buộc. Chúng ta ít khi can
đảm nhận trách nhiệm về mình, khi bị trần cảnh bên ngoài quyến rũ, thua
nó rồi đổ thừa tại ai chứ không phải tại mình! Thí dụ thấy có một số tiền hay
một số vàng ai đánh rơi xuống đất, người ấy mừng quá lượm lên; nếu kẻ làm mất
xin người ấy trả lại, người ấy có vui không? Lượm được trong tay rồi mà phải
trả lại chắc không vui mấy. Nhưng nếu với lòng từ bi, biết rõ không phải của
mình, chủ xin lại thì mình hoan hỷ liền.
Đó là tôi nói ví dụ nhỏ, còn
nhiều sự việc lớn hơn nữa. Vì vậy, chúng ta tu phải làm sao đừng để cho căn
trần dính mắc nhau. Hồi xưa, lúc đức Phật còn tại thế có vị tiên tu chứng được
ngũ thông. Ông giảng kinh mọi người rất thích, đến trời Đế Thích cũng tới nghe
giảng. Một hôm nghe giảng xong, trời Đế Thích liền ngồi khóc. Vị ấy thấy lạ
liền hỏi: “Tại sao ông nghe tôi giảng kinh mà lại khóc”. Trời Đế Thích thưa:
“Ngài giảng kinh rất hay, nhưng tôi biết tuổi thọ ngài sắp hết rồi, nên tôi
thương khóc”.
Nghe vậy vị tiên giật mình, ông
chứng ngũ thông chứ chưa chứng được lậu tận thông nên còn mắc kẹt sanh tử.
Vị ấy liền hỏi trời Đế Thích:
“Bây giờ làm sao để thoát khỏi sanh tử?”
Trời Đế Thích giới thiệu: “Hiện
giờ chỉ có đức Thế Tôn hiệu Thích ca Mâu Ni đang trụ ở tinh xá Trúc Lâm giảng
pháp, nếu ngài đến đó cầu pháp thì đức Thích Ca sẽ giảng dạy cho phương pháp
giải thoát sanh tử”.
Nghe vậy vị tiên liền tìm đến
đức Phật. Trên đường đi, ông nghĩ không có lễ vật cúng dường thì vô lễ quá.
Thấy hai cây ngô đồng đang trổ bông thật đẹp, ông dùng thần thông nhổ hai cây
ấy để trên hai bàn tay. Đến tinh xá Trúc Lâm, vào lễ Phật rồi, ông thưa hỏi làm
sao giải thoát sanh tử.
Phật bảo : Buông.
Ông liền buông tay xuống, rớt
một cây ngô đồng.
Phật bảo: Buông.
Ông buông một tay nữa, rớt cây
thứ hai.
Phật bảo: Buông.
Ông thưa: “Tôi có hai cây ngô
đồng. Ngài bảo buông cái thứ nhất, tôi buông bớt một cây. Bảo buông cái thứ
hai, tôi buông thêm cây nữa hết rồi, còn gì nữa mà buông?”.
Phật nói: “Không phải ta bảo
ông buông cây ngô đồng. Cái thứ nhất ta bảo ông buông là buông trần cảnh. Buông
thứ hai là buông sáu căn, thứ ba là buông sáu thức. Căn - cảnh - thức hay là
căn - trần - thức buông hết thì giải thoát”.
Vị tiên liền hiểu, lãnh hội trở
về tu, được hết sanh tử.
Quí vị thấy, chúng ta tu nếu
không khéo xả thì không thể giải thoát sanh tử. Sanh tử là cái khổ đau muôn đời
muôn kiếp, chúng ta muốn thoát khỏi nó không gì hơn là phải xả bỏ, đừng để căn
– trần – thức cột trói. Đây là gốc của trầm luân, của đau khổ. Đó là phần xả
căn – trần – thức.
Còn cái xả thứ tư nữa là xả mọi
cố chấp. Chúng ta có cái bệnh cố chấp nặng. Bên ngoài thì chấp người, nơi mình thì
chấp ta. Chấp ta, chấp người, chấp phải, chấp quấy, chấp hơn, chấp thua, tất cả
các thứ chấp đều là nguyên nhân của đau khổ cả. Vì còn chấp là còn khổ, nên
người tu phải xả cố chấp. Cố chấp nhiều thì khổ nhiều, chấp ít thì khổ ít.
Người chấp hơn, chấp thua khi thấy mình hơn thì mừng, mình thua thì buồn. Hơn
thua nối tiếp nhau nên mừng, khổ cứ đến. Nhưng ở đời có ai hơn tất cả được, hơn
người nầy cũng thua người khác.
Ngày xưa, một hôm đức Thế Tôn
đi khất thực qua vùng của Bà la môn, có một ông Bà la môn thấy Ngài đi trước,
ông lẽo đẽo theo sau kêu tên Ngài chửi (vì có các Bà la môn qui y theo Phật nên
ông tức). Mặc ông chửi, Phật cứ chậm rãi đi một cách tự nhiên, không trả lời.
Hồi lâu bực quá, ông chạy tới trước hỏi:
-Ngài Cồ Đàm, Ngài có điếc
không?
Phật nói: Không.
-Sao tôi chửi mà Ngài làm thinh
không trả lời.?
Phật liền trải tọa cụ ngồi
xuống nói bài kệ:
Người hơn thì thêm oán
Kẻ thua ngủ chẳng yên
Hơn thua hai đều xả
Ấy được an ổn ngủ.
Kẻ thua ngủ chẳng yên
Hơn thua hai đều xả
Ấy được an ổn ngủ.
Như vậy, người hơn kẻ thua đều
khổ hết. Thua khổ vì nhục nhã, hơn thắng thì mừng nhưng gây ra oán thù. Nên hơn
hay thua đều xả thì được an ổn ngủ. Chẳng những hơn thua mà kể cả phải quấy,
chấp ngã, chấp nhơn đều xả hết thì đó là người an ổn bậc nhất.
Trong nhà thiền Tổ Hoàng Bá có
nói: “Đệ tử của Mã Tổ hơn tám mươi vị thiện tri thức, nhưng người tiêu chảy đầy
đất chỉ có một mình Qui Tông”. Như vậy ngài khen hay chê Qui Tông?
Tiêu chảy đầy đất là sao? Là
uống thuốc xổ. Người nào xổ đầy đất thì trong bụng sạch trống. Xổ tức là
xả, xả hết xả sạch. Người tu xả được như vậy mới là người thấy được đạo lý, là
người đến chỗ chân thật. Ngài Qui Tông là một trong số đệ tử của Mã Tổ mà Thiền
sư Hoàng Bá rất kính trọng. Như vậy chúng ta thấy, người tu phải xả bỏ đừng cố
chấp. Nếu không cố chấp thì hết khổ.
Thưa quí vị, như trước tôi đã
nói, chúng ta đi tu là xả phú cầu bần, xả thân cầu đạo. Hồi ở nhà thì xả bỏ cái
nhà, xả bỏ năm bảy người thân đi tu. Đến khi tu rồi lại mắc kẹt cái chùa, rồi
năm bảy chục đệ tử v.v… lúc đó làm sao? Như vậy có phải xả cái nầy mắc cái khác
không? Cho nên nhiều người hay chỉ trích: tu là xả phú cầu bần, xả thân cầu
đạo, mà bây giờ quí thầy, quí cô cất chùa to, thâu đệ tử nhiều, vậy có xả hay
không? Quí vị trả lời sao? Nếu chúng ta cất chùa to để làm của riêng, thâu đệ
tử nhiều để phục vụ cho bản ngã của mình, thì đó là tội lỗi. Ngược lại, chúng
ta cất chùa to để nuôi chúng có chỗ tu học. Vì muốn gầy dựng hàng hậu tấn nên
chúng ta lo giúp, hướng dẫn họ tu thì không phải có lỗi. Phải khéo hiểu như
thế, nếu không chúng ta hoang mang, sợ sệt.
Kế nói đến xả những đa mang
thành tư hữu. Quí vị nghĩ lại lúc mình đi tu, có chở đồ đạc cồng kềnh vào chùa
không, hay chỉ là một túi xách vào chùa? Nhưng ở chùa chừng mười năm, hai chục
năm, nếu phải dời đi chỗ khác thì chở chừng mấy xe? Hồi vào chùa mang theo rất ít,
khi ra đi thì chở quá nhiều. Như vậy có xả không? Những thứ đa mang mình không
xả được mà xứ ky cóp ngày càng nhiều thành ra khổ. Đó là điều tôi muốn nói,
chúng ta cần phải xả, xả được nhiều chừng nào thì thảnh thơi chừng nấy. Làm sao
lúc nhắm mắt ra đi, tất cả những gì mình lo, những gì mình sắm là của Tam bảo
chứ không phải của cá nhân, được như vậy mới tốt.
Tôi xin dẫn một câu chuyện như
sau: Ngày xưa vua nước Ba la nại có mấy bà phi tần, bà nào cũng thích đeo vòng
vàng đầy tay. Một hôm nhà vua bị bệnh, cần phải thoa trầm hương. Khi các phi
tần đến thoa, nghe tiếng kêu lổn cổn điếc tai, vua chịu không nổi bảo phải cởi
vòng vàng ra, mỗi bà chỉ đeo một chiếc thôi, chừng ấy mới hết nghe kêu rổn
rảng. Khi đó vua nghĩ đã mang nhiều thì phiền não nhiều, bây giờ nếu mình bỏ
hết thì hết phiền não. Vua lại nghĩ, ta làm vua có triều đình, có đất nước, có
quần chúng v.v… bề bộn quá, thôi xả hết đi tu chắc là hết khổ. Nghĩ vậy rồi vua
liền trao ngôi cho người khác rồi vào núi tu. Về sau vua chứng quả Độc giác phật.
Quí vị thấy, xả nhiều thì nhẹ
nhàng nhiều, tu hành mau đắc đạo. Còn cưu mang nhiều thì không được an ổn,
không thể đắc đạo.
Có một thiền khách quảy đảy đến
hỏi Thiền sư: “Thế nào là đạo”, Thiền sư bảo : “Buông”.
Thiền khách liền buông đãy
xuống, rồi lại hỏi: “Thế nào là đạo?”
Thiền sư lại bảo: “Buông”
Thiền khách nói: “Con có cái
đãy đã buông xuống rồi, không còn gì để buông nữa”.
Thiền sư bảo: “Nếu không còn gì
để buông thì ông quảy lên đi”. Ngay đó thiền khách ngộ đạo.
Chúng ta buông cho tới không còn
gì để buông nữa, thì ngay đó ngộ đạo không có gì khó. Như vậy tu là khó khăn,
cực nhọc hay tu là nhẹ nhàng, thảnh thơi? Tôi sẽ dẫn một ít thí dụ cho quí vị
thấy rõ tu là nhẹ nhàng, thảnh thơi. Thí như có người leo núi cao năm bảy trăm
thước. Đường xa mà lại tham nên mang theo nhiều đồ đạc, thành ra quảy một bị
nặng leo núi. Đi một hồi mệt quá anh ta than. Có người bạn cùng đi nói: “Anh bỏ
bớt những gì không cần đi”, anh ta lục túi bỏ bớt năm ba món. Đi được một
chút nữa cũng thấy nặng, anh than còn nặng quá, người bạn nói: “Anh bỏ bớt nữa
đi”. Anh ta soạn lại bỏ bớt nữa. Khi mới bỏ bớt thấy nhẹ, nhưng đường dốc càng
lên cao càng thấy nặng, rồi lại phải bỏ. Cứ tiếp tục bỏ như vậy cho tới khi gần
đến chót núi còn cái bị không, nhưng cũng bị vướng, khó đi, cuối cùng anh bỏ
luôn cái bị mới leo lên chót núi được.
Quí vị thấy, mình muốn leo lên
ngọn núi cao mà mang theo nhiều đồ nặng quá, làm sao leo lên nổi. Muốn leo cao
phải bỏ bớt từ từ, cho đến khi nào không còn gì để bỏ thì quí vị sẽ leo tới
chót núi.
Quí vị xét kỷ xem, bỏ là nặng
hay bỏ là nhẹ? Chúng ta tu, bỏ được tham nhẹ được một phần, bỏ được sân nhẹ
thêm một phần, bỏ được si nhẹ thêm một phần nữa. Cho nên tu là thảnh thơi.
Những người tu hay bực tức, giận hờn, rên rỉ tại vì ôm nhiều quá, không biết bỏ
thành ra đi không nổi.. nên ở trong chúng nhìn mặt là biết người nào tu khá,
người nào tu không khá. Người biết buông bỏ tu hành có kết quả, người ấy nhẹ
nhàng, thảnh thơi. Người không biết buông bỏ đụng việc gì cũng bực bội, đó là
tu không tiến.
Quí vị kiểm tra lại trong chúng
ta xem có thảnh thơi chưa. Tôi nói thí dụ thứ nhất cho quí vị thấy, chúng ta
càng bỏ càng buông thì chúng ta càng được nhẹ nhàng, thảnh thơi.
Thí dụ thứ hai, bây giờ quí vị
gánh một đôi nước nặng, có người nào đó bảo: “Đưa tôi gánh giùm cho”, lúc đó
mình nặng hay nhẹ? Rất nhẹ. Cũng như vậy, nếu chúng ta đang ôm ấp việc gì trong
lòng, nếu có ai đến giải tỏa thì chúng ta sẽ được nhẹ nhàng. Lại nữa, người
đang giận, đang thù oán ai, trong lòng có được an ổn không? Ngồi tu có yên không?
Tụng kinh niệm Phật hay làm gì cũng nhớ người mình thù, người mình giận. Nếu
chúng ta biết xả bỏ hận thù thì chúng ta sẽ thảnh thơi an ổn. Tu niệm Phật thì
nhất tâm, tụng kinh thì chuyên chú không xao lãng, tọa thiền thì dễ định. Khi
chúng ta giận ai, trong người có được mát mẻ không, hay bị lửa giận thiêu đốt?
Thường người nào giận, quí vị nhìn cặp mắt họ đỏ, mắt đỏ đẹp hay xấu? Người ta
nói mắt xanh, mắt trắng mới đẹp, còn mắt đỏ ngầu rất ghê sợ, vì lửa nóng giận
đang thiêu đốt. Chúng ta xả được thì nhẹ nhàng, mát mẻ, không bị khô cằn.
Thêm một điểm nữa, lúc nào
chúng ta gặp cảnh không được vui, chúng ta ôm ấp trong lòng buồn rầu. Như vậy
có giúp được gì trên đường tu của chúng ta không? Thường người ta cứ nghĩ buồn
đâu có tội lỗi gì. Nhưng buồn cũng là phiền não nên mới nói buồn phiền. Có buồn
có phiền tức không được an ổn. Vì vậy khi nào trong tâm có việc buồn phiền,
chúng ta phải khéo xả bỏ. Muốn xả buồn phiền chúng ta phải nghĩ làm sao? Phải
nghĩ rằng ngày mai, ngày mốt mình sẽ chết, buồn phiền làm gì. Nghĩ vậy tâm được
bình an. Cho nên người tu chúng ta phải tập buông hết hận thù, buồn phiền thì
đời tu được an ổn vô cùng. Dù ở giữa một trăm, hai trăm chúng vẫn thấy nhẹ
nhàng như thường, cho nên trong kinh có nói: “xả tất cả là được tất cả. Ai biết
xả tất cả, người đó được tất cả. Ai muốn được tất cả sẽ mất tất cả”.
Quí vị có muốn được tất cả thì
phải xả, việc gì không đáng thì buông. Những thứ tạp nhạp buồn, thương, giận,
ghét lăng xăng xả hết. Xả hết những thứ đó rồi thì chúng ta liền nhận ra được
cái chân thật hiện tiền của chính mình, không có thiếu vắng lúc nào. Tôi thường
thí dụ, đêm Rằm trên hư không trăng đang sáng, nhưng vì mây mù tiếp nối nên
không thấy ánh trăng. Bao giờ mây tan đi chúng ta sẽ thấy được vầng trăng sáng.
Nếu mây không tan mà muốn thấy trăng sáng cũng không thể thấy được. Mây dụ cho
những phiền não tạp nhạp rối ren chất chứa trong lòng, nếu xả bỏ được thì tánh
giác chân thật hiện bày. Tánh giác chân thật là vầng trăng.
Người tu là người buông
xả hết những rối ren tạp nhạp trong nội tâm mình, chỉ còn một tâm trong sáng.
Chúng ta tu vì sợ thế gian đau khổ, muốn thoát mọi sự đau khổ ấy. Vậy, quí vị
có hoan hỷ xả hay không? Vị nào hoan hỷ xả là vị ấy biết tu, vị nào còn tiếc
nuối không chịu xả là chưa biết tu, chúng ta buông xả những thứ xấu xa vô dụng
của mình là việc làm rất dễ dàng trong tầm tay chớ không khó.
Lâu nay nhiều người nói
tu sao khó quá. Tôi xin nói lại khó ở chỗ nào? Nếu tham sân si từ đâu đem lại
cho mình thì bỏ chắc khó, nhưng tham sân si, phiền não v.v… từ nơi mình, nếu
mình không thích nó thì mình bỏ chứ có gì khó. Như trong túi quí vị có những
hòn sỏi, những hòn đá, quí vị không ưng nó nữa, quí vị móc ra dễ dàng hay khó?
Nó trong túi mình móc ra có gì là khó. Khó là mình tiếc không nỡ bỏ. Tôi thấy
trong giới tu hành của chúng ta có nhiều khi cũng tiếc những cái lẽ ra không
đáng tiếc. Thí dụ như ai đó làm mình trái ý quá nặng, mình cũng nổi sân đôi
chút. Chợt có huynh đệ nhắc: “Sao huynh tu mà còn sân”. Đáp: “Không sân nó
không sợ”. Ấy tiếc cái sân hay bỏ cái sân? Muốn để dành một chút lại với thiên
hạ chơi. Người tu mà để dành như vậy biết chừng nào cho hết sân.
Chúng ta muốn để hay muốn bỏ là
quyền của chúng ta, chớ đâu phải ở ngoài. Tất cả phiền não tham sân si từ trong
nội tâm phát ra. Chúng ta biết nó dở, biết nó xấu, biết nó là đau khổ, chúng ta
can đảm dứt khoát bỏ nó thì nó sẽ hết. Đây là việc trong tầm tay, trong quyền
quyết định của mình. Phật, Bồ tát, thiện tri thức có lấy được phiền não của
mình quăng ra không? Nên người tu chúng ta phải biết rõ rằng: chúng ta có quyền
thành Phật, chúng ta có quyền dẹp phiền não. Phiền não từ trong mình ra. Giác
ngộ cũng từ trong mình có. Chúng ta bỏ được phiền não, bỏ được tham sân si, đó
là chúng ta bước vào địa vị Thánh.
Nhiều người cứ cầu ông nầy bà
kia xem mình có tu được hay không. Nếu ai đó nói quí vị tu được, nhưng quí vị
không bỏ phiền não thì có tu được không? Ngay như chúng tôi, có nhiều người đến
hỏi: “Thầy tu lâu, thầy coi con tu có được không?.
Tôi chỉ trả lời gọn thế
nầy:“Nếu Phật tử quyết chí thì tu được, không quyết chí thì tu không được”. Tu
là bỏ những gì mình đa mang, chớ đâu phải tìm kiếm những điều gì mới lạ. Cho
nên trong kinh Phật nói “vô sở đắc”, nghĩa là không có chỗ được. Tại sao? Những
gì làm phiền lụy thì chúng ta bỏ sạch thì được nhẹ nhàng thảnh thơi, chớ được
cái gì? Được nghĩa là thêm, nhưng chúng ta xả bỏ hết những phiền lụy, những
trói buộc, những đau khổ thì tự nhiên được an vui giải thoát. Điều nầy ở đâu
tới mà gọi là được. Hiểu như vậy thì mới thấy những lời dạy trong kinh rất cụ
thể rõ ràng, không có gì ngờ vực.
Nếu tất cả Ni chúng khéo
léo ứng dụng tu thì con đường đưa chúng ta tới an vui giải thoát là con đường
chắc chắn, không nghi ngờ, ở trước mắt chúng ta chớ không đâu xa. Chỉ vì chúng
ta không khéo nên chúng ta cứ lẩn quẩn than thở, không thấy được con đường sáng
suốt của Phật pháp, chỉ thấy con đường mù mịt tối tăm. Người tu khéo xả bỏ thì
việc tu có kết quả, việc tu được nhẹ nhàng, chắc chắn sẽ được giải thoát sanh
tử. Đó là ý nghĩa mà tôi muốn nhắc cho tất cả quí vị trong buổi nói chuyện hôm
nay.
***
Hòa thượng THÍCH THANH TỪ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét