Đề tài chúng tôi nhắc nhở hôm
nay là: “Người tu Phật là tìm trở về nguồn gốc an lạc giải thoát”. Quí vị chú ý
nghe lãnh hội đầy đủ thì mới tốt. Đức Phật sau khi thành đạo dưới cội bồ đề,
ngài tìm những người bạn đồng tu là năm anh em Kiều Trần Như để thuyết pháp.
Bài pháp đầu tiên là Tứ đế hay Tứ diệu đế, mà đế đầu tiên trong Tứ đế là Khổ
đế: cái khổ là lẽ thực trong cuộc đời nầy. Vậy Phật nói khổ, tại sao chúng tôi
lại nói người tu tìm về nguồn gốc an lạc giải thoát, tức là vui. Như vậy có
trái bản ý của đức Phật hay không? Tôi xin thưa: Khi người ta mới nhìn qua đạo
Phật thấy dường như đạo Phật bi quan, yếm thế. Nhưng đi sâu, thấm nhuần giáo lý
của Phật rồi, chúng ta thấy ngược lại. Đức Phật nói khổ là chỉ trên quả, mà quả
là cái người ta dễ thấy, dễ biết. Khi biết được quả đó rồi thì ngài liền chỉ
đến nhân. Nguyên nhân nào tạo ra quả khổ ấy. Khi biết được nhân rồi thì dẹp hết
nhân thì quả không còn.
Ngày nay các nhà khoa học luôn
phăng tìm manh mối của vạn tượng sum la nầy, căn cứ trên quả mà phăng tới nhân,
không bao giờ từ nhân đi tới quả. Vì quả là cái dễ thấy, thấy quả rồi chúng ta
phăng tìm ra nhân dễ dàng, còn trước nói nhân sau đó mới chỉ quả thì khó hơn.
Như bây giờ chúng ta có cây cam, được quả ăn cam, biết quả cam ngọt. Những
người thưởng thức mùi vị quả cam đó hỏi rằng: cam nầy từ đâu mà có? Tự nhiên
chúng ta sẽ phải giải thích. Từ hạt cam ươm lên, nẩy mầm lên cây, có lá, đơm
hoa , kết quả. Vậy quả là cái hiện thấy, chứng minh được, còn nhân thì đã cũ,
đã xưa rồi, chúng ta không thể nào chỉ cho người khác thấy tường tận.
Đó là việc dễ làm, vì nó cụ thể
cho tinh thần Phật dạy rất thích hợp với khoa học hiện giờ, hay ngược lại khoa
học hiện giờ rất thích hợp với tinh thần đạo Phật dạy. Vì vậy, nếu người không
hiểu, nghe đức Phật nói cuộc đời là khổ, mang thân nầy khổ thì cho rằng đạo
Phật bi quan, đạo Phật chán đời…
Khổ đó là quả, chúng ta biết
rồi phải phăng tìm nguyên nhân của nó. Nếu biết được nhân nào tạo ra quả khổ
thì chúng ta liền dẹp bỏ, tự nhiên quả khổ không còn. Nếu quả khổ không còn,
lúc đó là khổ hay vui. Thông thường thế gian nói hết khổ tức là vui. Vui không
riêng có mà chỉ khi nào hết khổ. Đó là tinh thần của Phật dạy. Phật nói khổ để
chúng ta tìm nguyên nhân gây ra khổ, phải biết rõ nguyên nhân gây ra đau khổ và
dứt bỏ nó. Dứt bỏ rồi chúng ta mới hết khổ, tức là được an lạc giải thoát.
Vậy mục tiêu của đức Phật là
dạy chúng ta hết khổ được giải thoát, chứ không phải dạy chúng ta chịu khổ.
Phương pháp tu đó không hề bi quan. Quí vị nhìn những người tu hành biết đạo lý
sâu, sống được với đạo, có thường lắc đầu, chắc lưỡi, thở dài không, hay là
thường cười hoài? Bao nhiêu đó cũng tự trả lời những vấn đề chúng ta cần hiểu
rồi. Người biết tu thì phăng tận nguồn gốc nguyên nhân đau khổ, dẹp bỏ qua một
bên nên đau khổ đâu còn. Khổ hết thì được an vui.
Nhưng đáng thương cho Phật tử
chúng ta ngày nay tu mà không tìm nguyên nhân của khổ để dẹp bỏ, lại cứ cầu
Phật cho con hết khổ hoài. Gặp việc buồn, gặp việc khổ liền vô chùa thắp hương,
lạy Phật tha thiết, xin Phật chứng minh ban cho con ân huệ để cho con hết khổ.
Việc gì cũng dựa vào quyền lực của đức Phật chớ không bỏ ra công phu tu hành.
Đạo Phật là một đạo thực tế chứ
không phải huyền bí, nhưng Phật tử chúng ta quen bệnh yếu đuối nên xem Phật
giống như ông thần. Gặp việc gì khổ quá chỉ xin với Phật cho bớt khổ, chớ không
biết tu cho bớt khổ. Đó là điểm yếu đuối, sai lầm của Phật tử chúng ta. Người
tu thì phải tìm về nguồn an lạc giải thoát. Quí vị có biết nguồn an lạc giải
thoát từ đâu mà ra không?
Tôi xin nêu vài điều căn bản cho
quí vị thấy nguồn gốc của an lạc giải thoát. Trong kinh Phật thường nói: “Chúng
sinh có tám điều khổ: sanh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ, oán
tắng hội khổ, cầu bất đắc khổ và ngũ ấm xí thạnh khổ. Đó là bát khổ”.
Chúng ta thấy trong kinh Phật
nói khổ nhiều hơn vui. Vậy, chúng ta xét kỹ xem, cái khổ đó là khổ do tất cả
mọi người hay chỉ là cái khổ đối với những ai không biết đạo lý.
Thứ nhất như nói: “Sanh là
khổ”. Theo nhà Phật thì sanh gồm hai phần. Thứ nhất, sau khi ra khỏi lòng mẹ đau
đớn nhọc nhằn. Thứ hai, trong cuộc sống của chúng ta, nếu không biết tu, không
hiểu đạo thì cả cuộc đời chỉ toàn là đau khổ, không chút an vui.
Như vậy khổ là lúc sanh ra khổ
và trong cuộc sống khổ. Khi sanh ra có đứa bé nào cười không, hay đều khóc oa
oa? Đó là vì ra đời phải khó khăn đau đớn mới ra được, nên lọt khỏi lòng mẹ là
nó khóc. Cái khóc ấy nói lên sinh ra là khổ. Rồi từ bé đến già mấy mươi năm,
một cuộc đời khổ nhiều vui ít. Quí vị thử kiểm lại xem trong suốt một đời,
những gì chúng ta mong muốn đa phần được như ý hay thiểu phần được như ý? Chắc
rằng không có ai nói đa phần như ý.
Người thì gia đình ấm no có cơm
ăn áo mặc nhưng con cháu khó dạy. Người thì con cháu dễ dạy nhưng gia đình lại
chật vật thiếu thốn v.v… đủ thứ thuận nghịch, không khi nào được thỏa mãn như ý
mình. Vì vậy, đa số đều bất như ý, con người sinh ra ai cũng mơ ước tràn đầy
hạnh phúc, nhưng trải qua bốn năm mươi tuổi nhìn lại cuộc đời thấy không có
hạnh phúc mà bất hạnh lại nhiều. Ít hôm nghe tin người thân mất hoặc phải đi xứ
nầy xứ khác v.v… hay có chuyện làm mình phải buồn, phải khổ. Không ai
được hạnh phúc an vui trọn vẹn. Cả một đời người ba phần tư là đau khổ, chỉ một
phần tư an vui thôi, thực tế là như vậy. Bởi vì chúng ta có các thứ khổ do
người thân xa lìa, khổ do thân bệnh hoạn, khổ vì hoàn cảnh đói thiếu, khổ vì
con cái khó dạy, đủ thứ khổ không phải một thứ.
Chúng ta đã biết sanh là khổ,
bây giờ chúng ta biết làm sao cho hết khổ? Làm sao chúng ta sống trong cõi khổ
mà luôn được an vui. Không có gì khó hết, nếu sống trong cuộc đời nầy mà chúng
ta biết rõ rằng đời là tạm bợ, có rồi sẽ mất, không ai còn mãi. Như vậy, ngày
nào chúng ta còn sống thì ngày ấy còn tốt, còn có thì giờ cho chúng ta tự tu,
cho chúng ta làm những điều thiện, lợi ích cho mọi người. Một ngày sống là một
ngày vàng, chúng ta phải sử dụng hết để lo cho mình và cho người được an ổn.
Một ngày sống chúng ta làm được một điều lành chúng ta nên buồn hay vui? Làm
một điều lành là chúng ta được một nguồn vui. Chúng ta chuyển duộc sống khổ đau
nầy bằng một cuộc sống tràn đầy hạnh phúc. Ngày nào chúng ta cũng mót từng chút
một để mà được vui.
Tôi nói như vậy sẽ có vị nghĩ,
nếu người giàu có thì giúp đở người nầy người kia dễ, còn như chúng ta không có
điều kiện thì giúp được ai, làm sao có niềm vui. Tôi xin nhắc lại trên đời có
nhiều niềm vui lắm, chỉ sợ chúng ta không chịu làm thôi. Thí dụ chúng ta không
có tiền cho người ăn xin hay đóng góp cứu trợ nạn lụt v.v… nhưng đang đi thấy
đứa bé bị té, chúng ta đở lên vổ về an ủi, khuyên bảo nó, như vậy có vui không?
Chúng ta không làm được việc cứu giúp bằng tiền thì chúng ta làm việc cứu giúp
bằng thân, bằng lời. Dùng thân và lời giúp đỡ người bớt khổ. Bớt khổ là họ được
vui. Cái vui đó tốn tiền nhiều hay ít? Không tốn gì hết, chỉ tốn một chút công.
Như vậy, tìm nguồn vui đâu phải khó. Chỉ cần thấy một con kiến rớt xuống vũng
nước, chúng ta vớt nó lên để trên khô, thấy nó bò mừng rỡ là chúng ta cũng vui
rồi.
Người biết tu nhìn lại bản thân
mình ngày xưa nhiều nóng giận nay giảm bớt liền cảm thấy vui. Gặp ai đang có
nguy khốn, mình ra tay cứu vớt, từ con người cho tới loài vật, giúp được loài
nào cũng có nguồn vui. Vậy, chúng ta sống để làm lợi ích cho chúng sinh. Tuy
rằng khả năng nhỏ bé, hạn hẹp, nhưng với lòng chân thành thì cũng có vui rồi.
Nếu chúng ta biết sống thì đời là khổ hay sanh là khổ, nhưng ngày nào chúng ta
cũng lượm cũng mót được nhiều niềm vui. Đó là chúng ta khéo tu, khéo hiểu Phật
pháp, chớ đừng lạy xin Phật cho con vui, Phật không cho được đâu, chúng ta phải
tự tạo lấy nguồn vui từ bản thân mình. Đó là sanh khổ, nhưng nếu chúng ta biết
sống thì sanh trở thành vui, chớ không phải khổ.
Đến khổ thứ hai: già khổ. Song
nếu chúng ta khéo chấp nhận cái giả thì chúng ta cũng vui. Tại sao già khổ? Vì
già không biết làm gì cứ đi tới đi lui, nhớ con nhớ cháu, buồn ủ rũ, hết trách
người nầy tới trách người kia, thành ra thấy tuổi già lê thê, đen tối. Nên già
là khổ. Người già nên biết dùng tuổi già trong công việc. Những vị không có
trách nhiệm như chúng tôi cứ ở tại nhà, tìm những gì hay, đẹp dạy con dạy cháu.
Đem bài kinh hay, đoạn sách ghi những tư cách tốt để dạy con cháu, đó là vui
rồi, đâu phải làm việc gì cho nhiều.
Cũng như chúng tôi, một ngày
sống là một ngày phải làm được cái gì cho mình cho người, mà làm được cho mình
cho người thì tôi vui chớ đâu có khổ. Như vậy nói già khổ hay già vui. Tự nhiên
già thế nào cũng có nhiều kinh nghiệm hơn người trẻ. Tại sao chúng ta không đem
những kinh nghiệm ấy dạy cho người sau. Vì vậy tuổi già không phải là thừa,
không phải là bỏ. Mỗi ngày chúng ta sống đều có giá trị cuộc đời già vui, chớ
không phải khổ.
Thứ ba, bệnh là khổ. Điều nầy
đa số đều chấp nhận. Có người nào đau mà không rên đâu? Rên tức là khổ chứ gì!
Nhiều người than “tôi sao bệnh hoạn lê thê, kéo dài năm nầy năm nọ, chán quá!”.
Như vậy, quí vị thấy bệnh là khổ. Nhưng với con mắt nhà Phật, bệnh cũng không
khổ. Vì sao không khổ? Là vì Phật dạy thân nầy do nhân duyên hợp, trong đó có
đất, nước, gió, lửa. Kinh Niết Bàn nói tứ đại là bốn con rắn: con rắn đất, con
rắn nước, con rắn gió, con rắn lửa.
Tôi xin nói cụ thể hơn, con rắn
nước là con rắn hổ ở dưới nước. Con rắn lửa là con rắn hổ lửa. Con rắn đất đất
là con rắn hổ đất. Con rắn gió là con rắn hổ mây. Bốn con rắn mà nhốt chung
trong cái giỏ thì nó phải cắn nhau, chống chọi nhau thôi. Người nuôi rắn thấy
bốn con cứ chống nhau, làm cho con nầy con nọ bất an hoài thì phải ráng can
thiệp cho chúng hòa với nhau thì mới yên được.
Chúng ta mang cái thân đất,
nước, gió, lửa; bốn chất đó có hòa hợp với nhau tốt không? Ít hôm thì lửa thắng
nước, lúc đó mình nóng quá phải kiếm cái gì uống cho mát. Đó là điều hòa con
rắn hổ lửa. Ít hôm nước thắng lửa thì bị lạnh run rẩy, phải kiếm cái gì uống
cho ấm. Đó là điều hòa con rắn nước. Ít hôm, con rắn đất bị rắn hổ mây
cắn, thì lúc đó chúng ta kêu trúng gió. Phải đánh gió hay tìm cách nầy cách kia
làm cho gió ra thì thân nầy mới nhẹ. Nên tôi nói rằng: “gió thổi mạnh thì đất
rung rinh”. Những thứ đó luôn luôn chống chọi nhau. Chúng ta phải điều hòa
chúng, như vậy nhàn hạ hay khổ.
Người nào hỏi ra cũng có bệnh.
Nếu không bệnh nặng thì cũng bệnh nhẹ, không bệnh nhiều cũng bệnh ít, chớ không
ai hoàn toàn không bệnh. Vì bệnh là khổ chung của tất cả mọi loài. Nhiều vị
bệnh cứ lăn lộn rên, rên đó là khổ.
Nhưng giờ đây chúng ta biết tu,
khi bệnh chúng ta phải làm sao. Chúng ta nhìn bốn con rắn nầy xem đứa nào
thắng, đứa nào bại. Biết rõ bốn con rắn độc đang chống chọi với nhau, chúng ta
không chấp nhận thân nầy thật. Tứ đại tụ hội nên có thân, nhưng vì tụ hội trong
sự chống chọi nên thân nầy khổ. Chúng ta biết rõ nó không chắc, không bền,
không có gì quan trọng nên bớt khổ.
Thường bệnh đau, chúng ta thấy
khổ vì thấy thân hơn hết, vì sợ chết. Nếu biết rõ nó là tướng duyên hợp thì hợp
cũng tốt mà tan cũng vui. Nếu nó còn thì chúng ta dùng vào việc hữu ích, nó mất
thì chúng ta ra đi một cách thảnh thơi, có gì đâu mà sợ, nếu không sợ chết thì
đau cứ mặc đau, nó đâu thiệt. Ngày xưa có một vị Thiền sư bị bệnh, thầy tri sự
lên thưa: “Hòa thượng bệnh có cái không bệnh chăng?”. Ngài đáp: “Ôi da! Ôi da!”
. Cái biết rên đó nó không có hình tướng nên không bệnh, còn thân nầy bệnh.
Như vậy, chúng ta biết
ngay nơi thân nầy là duyên hợp tạm bợ, có hợp thì phải tan, không có gì quan
trọng. Không quan trọng thì bớt khổ, đồng thời chúng ta cũng biết ngay trong
thân nầy có cái chân thật, không hình tướng, song nó là chủ trì của thân. Biết
rõ cái đó thì thân có đau, có nhức là chuyện của thân, nhìn cái đau tức là
chúng ta không đau.
***
Hòa
thượng. THÍCH THANH TỪ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét