Toàn Không
Tôn-giả A-nan-Đà, là
dòng dõi hoàng tộc, con người chú ruột của Thái-tử Sĩ-Đạt-Ta, tức là em họ của
đức Phật. Tôn-giả A-nan-Đà là bậc kỳ tài hiếm có trên thế-gian này, vì Ngài có
một bộ óc siêu phàm tuyệt vời. Ngài nhớ được tất cả những lời đức Phật giảng
dạy hàng ngày mà Ngài đã được nghe trong suốt thời gian hai mươi lăm năm làm
Thị-giả cho đức Phật.
Đức Phật xếp Tôn-giả
A-Nan-Đà vào hàng các đại đệ-tử vì các điểm đặc biệt, đó là: “Sức học uyên
thâm, trí nhớ vô cùng đúng, kiên trì chuyên chú cần mẫn, và khéo biết ý Phật”. Những bộ Kinh ngày nay chúng ta được
đọc là do sự đóng góp của Ngài và năm trăm vị Thánh Tăng thời ấy đọc lại thành
Kinh sau khi đức Phật nhập Niết-bàn chừng ba bốn tháng.
1)-
A-Nan-Đà làm Thị-giả của Phật.
Khi đức Phật trú tại
thành Vương-Xá, lúc đó có rất nhiều đệ-tử Tỳ-kheo từ Trưởng-Lão trở xuống cũng
trú tại thành Vương-Xá, tất cả đều ở vây quanh Phật trong Kỳ-viên Tịnh-xá, bấy
giờ Ngài bảo các Tỳ-kheo:
- Các thầy nên biết, hiện nay
Ta đã già rồi (Lúc này Phật đã 55 tuổi), thân thể càng ngày càng suy yếu, nên
Ta cần có người chăm sóc. Các thầy hãy cử cho Ta một thầy Thị-giả, làm sao để
chăm sóc Ta xứng ý, chứ không phải không xứng ý, ghi nhớ lời Ta nói mà không
quên mất ý nghĩa.
Lúc ấy Tôn-giả
Câu-lân-Nhã liền đứng dậy, chắp tay hướng về đức Phật thưa rằng :
- Thưa đức Thế-Tôn, con xin
được làm Thị-giả, con xin nguyện hầu hạ Thế-Tôn xứng ý, chứ không phải không
xứng ý, con ghi nhớ những lời Ngài nói mà không quên mất ý nghĩa.
Đức Thế-Tôn bảo:
- Này Câu-lân-Nhã, chính thầy
tuổi đã già, thân thể càng ngày càng suy yếu; chính thầy cũng cần có Thị-giả,
Thầy nên ngồi xuống đi.
Cũng như vậy, hai mươi
mốt vị Tôn-giả, hoặc Tôn-giả Trưởng-Lão lần lượt đứng dậy, chắp tay hướng về
đức Phật xin được làm Thị-giả; các vị Tôn-giả đều nguyện hầu hạ xứng ý Phật, và
ghi nhớ những lời Ngài giảng dạy mà không quên ý nghĩa, nhưng tất cả đều bị
Phật từ chối.
Khi ấy, Tôn-giả Đại
Mục-kiền-Liên suy nghĩ: “Đức Thế-Tôn muốn vị nào làm thị-giả, ý Ngài đặt vào vị
Tỳ-kheo nào? Ngài muốn ai chăm sóc cho xứng ý, và ghi nhớ lời Ngài dạy mà không
quên mất ý nghĩa? Có lẽ ta nên nhập Như-kỳ tưởng-định để quán sát tâm niệm của
toàn thể đại-chúng”. Nghĩ
rồi, Tôn-giả liền thực hành ngay và biết Thế-Tôn muốn chọn Tôn-giả A-Nan-Đà, vì
ý Ngài đặt vào A-Nan-Đà; biết vậy xong, Tôn-giả xuất định, và thưa với
đại-chúng:
- Chư Tôn-Hiền biết không?
Đức Thế-Tôn muốn chọn: Tỳ-kheo A-Nan-Đà làm Thị-giả, bây giờ chúng ta nên cùng
nhau đến chỗ Tôn-giả A-Nan-Đà khuyến dụ thầy ấy chịu làm Thị-giả.
Bấy giờ Tôn-giả Đại
Mục-kiền-Liên và các thầy Tỳ-kheo cùng nhau đến chỗ Tôn-giả A-Nan-Đà, chào hỏi
nhau xong, Tôn-giả Đại Mục-kiền-Liên bảo:
- Này Hiền-giả A-Nan, thầy
biết không? Đức Thế-Tôn muốn: đại-chúng Tỳ-kheo cử một thầy làm Thị-giả cho
Ngài, đã có hai mươi mốt Tỳ-kheo từ bậc Trưởng-lão trở xuống tình nguyện
xin được làm Thị-giả, nhưng đều bị đức Thế-Tôn từ chối, không chấp thuận. Tôi
đã nhập định để quán sát, được biết đức Thế-Tôn muốn chọn Thầy làm Thị-giả, vì
ý Ngài đặt vào Thầy. Ngài muốn: Thầy chăm sóc, vì Thầy xứng ý Ngài chứ không
phải không xứng ý; Thầy ghi nhớ lời dạy của Ngài mà không quên mất ý nghĩa.
Tôn-giả A-Nan-Đà nói:
- Thưa Tôn-giả Đại
Mục-kiền-Liên và các vị Tôn-giả, tôi không thể lãnh trách nhiệm hầu hạ đức
Thế-Tôn nổi, vì với đức Thế-Tôn khó xứng ý, khó hầu hạ, nghĩa là khó làm
Thị-giả. Cũng như con voi rất hùng mạnh, kiêu dũng, sức mạnh cường thịnh, đủ
ngà, đủ vóc, khó gần gũi, khó làm xứng ý, nghĩa là khó mà coi sóc. Thưa Tôn-giả
Đại Mục-kiền-Liên, với đức Như-Lai cũng lại như thế, khó gần gũi, khó xứng ý,
khó làm Thị-giả, vì vậy, tôi không thể làm Thị-giả được.
Tôn-giả Đại
Mục-kiền-Liên nói:
- Này Hiền-giả A-Nan: Thầy
hãy nghe tôi nói, người trí nghe thí dụ liền hiểu ý nghĩa của nó. Cũng như hoa
Ưu-đàm-bát-La đúng thời mới xuất hiện ở thế-gian chứ không phải lúc nào cũng
xuất hiện, dù trăm nghìn vạn ức năm cũng chưa chắc xuất hiện. Này Hiền-giả: đức
Như-Lai, Vô-Sở-Trước, Chính-Đẳng Chính-Giác cũng lại như vậy, đúng thời mới
xuất hiện ở thế-gian; Thầy nên mau nhận làm Thị-giả của đức Như-Lai, Thầy sẽ
được kết quả rất lớn, và rất tốt đẹp.
- Thưa Tôn-giả Đại
Mục-kiền-Liên, nếu đức Thế-Tôn thuận cho tôi tám điều nguyện ước thì tôi mới có
thể làm Thị-giả, đó là:
1) Tôi nguyện không mặc áo
Cà-Sa của đức Thế-Tôn dù cũ hay mới.
2) Tôi nguyện không ăn thực
phẩm do Thiện-tín dâng đến đức Phật.
3) Tôi nguyện không gặp đức
Thế-Tôn không đúng lúc.
4) Tôi nguyện không ở chung
cùng một phòng-thất với đức Thế-Tôn.
5) Đức Thế-Tôn hoan-hỷ chấp
thuận cùng tôi đi đến nơi nào có thí-chủ thỉnh tôi đến.
6) Đức Thế-Tôn hoan-hỷ cho
phép tôi được tiến dẫn những vị khách đến xin yết kiến Ngài.
7) Đức Thế-Tôn cho phép tôi
đến thưa hỏi mỗi khi có điều hoài nghi phát sinh.
8) Đức Thế-Tôn hoan-hỷ lập
lại bài Pháp mà Ngài đã giảng trong lúc không có mặt tôi.
Thưa Tôn-giả Đại
Mục-kiền-Liên, nếu đức Thế-Tôn chấp thuận cho tôi tám điều, gồm bốn điều nguyện
và bốn điều ước vừa kể, thì tôi mới có thể làm Thị-giả được.
Tôn-giả Đại
Mục-kiền-Liên sau khi khuyên Tôn-giả A-Nan-Đà nhận làm Thị-giả, Tôn-giả cùng
các vị Tôn-giả Tỳ-kheo từ giã Tôn-giả A-Nan-Đà và trở về chỗ Phật. Tôn-giả Đại
Mục-kiền-Liên trình lên đức Phật về sự ưng chịu của Tôn-giả A-Nan-Đà nhận làm
Thị-giả với tám điều thỉnh nguyện kể trên và xin đức Thế-Tôn chấp thuận.
Sau khi nghe Tôn-giả
Đại Mục-kiền-Liên đọc tám điều thỉnh nguyện của Tôn-giả A-Nan-Đà, đức Phật bảo:
- Này Đại Mục-kiền-Liên,
Tỳ-kheo A-Nan-Đà thông minh, mẫn tiệp, dự đoán sẽ có những lời tị hiềm, như có
người nói: “Tỳ-kheo
A-Nan-Đà vì áo mặc nên hầu hạ đức Thế-Tôn”. Hoặc nói: “Tỳ-kheo
A-Nan-Đà vì miếng ăn nên hầu hạ đức Thế-Tôn”. Những dự đoán đó là pháp-vị qúy hóa
của Tỳ-kheo A-Nan-Đà, Tỳ-kheo A-Nan-Đà khéo biết thời, biết lúc nào nên đến gặp
Như-Lai, lúc nào không nên đến gặp Như-Lai; Tỳ-kheo A-Nan-Đà biết lúc nào chúng
Tỳ-kheo, chúng Tỳ-kheo Ni nên đến gặp Như-Lai, đối với chúng Ưu-bà Tắc và Ưu-bà
Di cũng như thế; Tỳ-kheo A-Nan-Đà biết lúc nào các Sa-môn, Bà-la-Môn, Phạm-chí,
Dị-học nên đến gặp hoặc bàn luận hay không nên đến gặp hoặc bàn luận với
Như-Lai. Tỳ-kheo A-Nan-Đà biết thức ăn loại nào Như-Lai dùng rồi sẽ được biện
tài thuyết pháp, thức ăn loại nào sau khi dùng rồi sẽ không được biện tài
thuyết pháp, đó là những pháp vị đáng khen ngợi của Tỳ-kheo A-Nan-Đà.
Do những lời chấp thuận
và khen ngợi của đức Phật, nên ngay ngày hôm sau Tôn-giả A-Nan-Đà bắt đầu làm
Thị-giả Phật. Tôn-giả A-Nan-Đà làm Thị-giả Phật cho đến khi đức Phật nhập
Niết-Bàn. Trải qua hai mươi lăm năm làm Thị-giả, Tôn-giả A-Nan-Đà theo đức Phật
đi du-hóa khắp mọi nơi trên đất Ấn-Độ. Tôn-giả rất chuyên cần chăm sóc đến mọi
nhu yếu của đức Phật với một lòng kính ngưỡng và tôn quý.
2)-
A-Nan-Đà bị nạn Ma-Đăng-Già.
Một hôm Vua Ba-Tư-Nặc
nước Xá-Vệ, nhân ngày giỗ của phụ-Vương làm lễ trai Tăng. Vua cho sắm sửa các
món ăn qúy báu và đích thân Vua đến thỉnh Phật cùng các vị Bồ-Tát vào cung thụ
trai; ngoài ra, Văn-Thù Bồ-Tát được chỉ định phân chia đại chúng Tỳ-kheo đi dự
cúng dàng tại một số nhà Trưởng-giả trong thành. Riêng Tôn-giả A-Nan-Đà đã được
một vị ở xa mời riêng trước nên chưa về kịp để đi thụ trai cùng Tăng chúng, lúc
ấy đang trên đường trở về một mình, Tôn-giả không biết việc các Bồ-Tát và chúng
Tăng đều được Vua và các trai chủ mời vào thành thọ trai. Tôn-giả ôm bình bát
đi khất thực theo thứ lớp từng nhà đúng theo phép khất thực. Khi lần lượt đi
đến một nhà kia, Tôn-giả (vì trẻ, lại đẹp trai) bị một người đàn bà dùng bùa
yêu tà chú mê hoặc cám dỗ; đang khi người đàn bà ấy còn đang cám dỗ, ve vuốt,
và sắp tới giai đoạn hoại giới thể A-Nan-Đà.
Lúc ấy Phật đã biết
trước việc này, thụ trai xong, Ngài liền cùng các Bồ-Tát về ngay, có Vua, các
quan Đại-Thần, Trưởng-giả, Cư-Sĩ đi theo để xin nghe pháp. Vừa về an tọa
xong tại đại giảng đường, trên đầu Phật phóng ra hào quang Bách-Bảo Vô-úy,
trong hào quang nở ra Bảo-Liên-Hoa nghìn cánh, trên Bảo-Liên-Hoa có Hóa-Phật
ngồi kiết già thuyết thần-chú. Ngài liền sai Văn-Thù Bồ-Tát đem chú đi cứu hộ
A-Nan-Đà, khi Bồ-Tát Văn-Thù đem chú đến, tà chú của dâm nữ liền bị tiêu diệt
ngay, nên Tôn-giả A-Nan-Đà liền hết mê hồi tỉnh; Bồ-Tát Văn-Thù liền dẫn cả hai
người về nơi Phật ngự.
Tôn-giả A-Nan-Đà vừa về
tới nơi liền đảnh lễ Phật, nức nở rơi lệ, nói lời hối hận việc xẩy ra vì do
thiếu đạo lực, nên không chống trả nổi tà chú. Để có thể tu hành đủ đạo lực,
Tôn-giả A-Nan-Đà khẩn khoản thỉnh cầu Phật giảng ba thứ thiền quán mà mười
phương Chư Phật đã tu được thành chính giác; vì nhân duyên này, Phật thuyết cho
A-Nan-Đà, Vua Ba-Tư-Nặc, Đại-chúng, Bồ-Tát nghe Kinh Lăng-nghiêm. (Trích
Kinh Lăng-Nghiêm, Hòa-Thượng Thích-Duy-Lực dịch năm 1993, trang 8 và 9).
3)-
Tôn-giả A-Nan-Đà đại ngộ.
Mặc dù là một đệ-tử
thông suốt giáo lý, Tôn-giả A-Nan-Đà chỉ là bậc hữu học cho đến ngày đức Phật
nhập diệt, Tôn-giả vẫn chưa đắc qủa Thánh; sau khi đức Thế-Tôn nhập đại
Niết-Bàn, Tôn-giả Đại Ca-Diếp là vị Tổ thứ nhất kế truyền Chính Pháp Nhãn-Tạng
do đức Phật phó chúc.
Ngày bắt đầu kết tập,
chỉ có năm trăm vị A-La-Hán (Thánh Tăng) mới đủ tư cách kết tập; do đó Tôn-giả
Đại Ca-Diếp cùng các vị Thánh Tăng vào động, còn các vị Tỳ-kheo chưa chứng quả
Thánh, các Vua, Quan, Cư-sĩ, Nhân dân, đều phải ở ngoài.
Tôn-giả A-Nan-Đà đã là
Thị-giả của Phật, biết nhiều, nhớ giỏi, nhưng vẫn chưa chứng qủa Thánh nên cũng
phải ở ngoài; một trở ngại lớn lao trong việc kết tập là mỗi vị Thánh Tăng chỉ
được nghe một phần khi Phật giảng, chứ không vị nào được nghe nhiều như Tôn-giả
A-Nan-Đà, nên việc kết tập có thể thiếu sót.
Do đó, khi bắt đầu kết
tập Kinh điển, Tôn-giả Đại Ca-Diếp nói với các vị Thánh-Tăng rằng:
- Tôn-giả A-nan-Đà đã là
Thị-giả của Phật, ông có nhiều cơ hội gần Phật, thường hằng ngày được nghe
giảng dạy. Ông lại là người có trí tuệ rất sáng suốt, mặc dù ông chưa chứng quả
Thánh, nhưng hễ ông nghe Chính pháp như mước rót vào đồ đựng, không chút nào dư
lại, mà cũng không vương vãi ra ngoài, nếu việc kết tập có ông tham dự sẽ tránh
được nhiều điều thiếu sót.
Đại hội Thánh-Tăng nghe
Tôn-giả Đại Ca-Diếp nói thế, đều im lặng làm thinh, tỏ dấu rằng cũng hợp ý cả,
nhưng không biết làm sao để ra ngoài nguyên tắc “Chỉ có Thánh
Tăng mới đủ tư cách tham dự kết tập Kinh điển của Phật”.
Cũng vì sau khi năm
trăm vi Thánh Tăng vào động rồi, thì cửa động được khóa lại. Khi ấy Tôn-giả A-Nan-Đà
ở bên ngoài cảm thấy tủi hổ cho thân phận vì đã nương nhờ nơi đức Phật mà được
đại-chúng nể nang, cho dù có trí nhớ siêu phàm, mà chưa chứng qủa Thánh, cũng
không được tham dự kết tập, thật là tủi nhục vô cùng. Bởi vì trong lúc Phật còn
tại thế không chịu tinh tấn tu hành, nên mới có ngày nay tủi nhục! Nghĩ vậy,
Tôn-giả không dằn lòng được sự hối thúc tu hành bèn đến gõ cửa động kêu cầu
Tôn-giả Đại Ca-Diếp mà nói lớn lên rằng:
- Trong khi đức Thế-Tôn phó
chúc và truyền cái áo Cà-Sa Kim-Lư cho Tôn-Huynh (Tôn-giả Sư huynh) đó, vậy đức
Thế-Tôn còn truyền pháp gì riêng cho Tôn-Huynh nữa hay không?
Tôn-giả Đại Ca-Diếp
nghe hỏi, liền cất tiếng nói lớn vọng ra:
- A-Nan!
Tôn-giả A-Nan-Đà đứng
ngoài ứng khẩu thưa:
- Dạ.
Tôn-giả Đại Ca-Diếp
liền nói rằng:
- Cây trụ cờ phướn trước cửa
đổ rồi!
Tôn-giả A-Nan-Đà không
hiểu tại sao Tôn-giả Ca-Diếp nói thế với ý nghĩa gì, tại sao lại nói cây trụ cờ
phướn đổ rồi? (trong khi cây trụ cờ phướn không đổ) Tôn-giả A-Nan vô cùng thắc
mắc, bèn hỏi lại:
- Cây trụ cờ phướn đâu có đổ,
Tôn Huynh nói như vậy có ý nghĩa gì?
Bên trong im lặng,
không thấy Tôn-giả Đại Ca-Diếp trả lời, Tôn-giả A-Nan-Đà thắc mắc không hiểu:
tại sao Tôn Huynh nói cây trụ cờ phướn đổ? Rồi Tôn-giả A-Nan-Đà thắc mắc ngày
thắc mắc đêm, ăn không được, ngủ không được, và thắc mắc mãi về lời nói ấy (đây
là đại nghi tình, đại thắc mắc của Thiền tông mà Tôn-giả A-Nan không biết là
mình đang tham thiền, tìm đọc cuốn “Pháp Môn Đốn Ngộ” của cùng tác giả). Sau
bẩy ngày vẫn còn thắc mắc mê man như thế, trong khi Tôn-giả đang nghiêng mình
nằm xuống về phiá bên tay phải, thì đột nhiên tỏ ngộ (Kiến tánh), và tâm tánh
sáng suốt vô cùng. Liền khi ấy, như trút được gánh nặng nghìn cân, vui mừng,
Tôn-giả vội vàng đến gõ cửa động xin mở cửa để vào báo tin mừng. Tôn-giả Đại
Ca-Diếp biết được nói vọng ra:
- Nếu đã ngộ rồi thì tự vào,
sao còn nhờ mở cửa?
Tôn-giả A-Nan-Đà liền
biến mình nhỏ lại chui qua khe cửa mà vào, rồi đảnh lễ Thánh chúng; đại hội
Thánh chúng vui mừng đón tiếp Tôn-giả A-Nan-Đà đã đại ngộ, và liền cử Tôn-giả
lên tòa cao ngồi trùng tuyên Kinh Giáo của Phật!
4)-
Tôn-giả A-Nan-Đà làm Tổ thứ hai.
Sau khi kết tập xong bộ
Tăng Nhất và toàn bộ Đại-Tạng Kinh xong, toàn thể Thánh chúng vui mừng nhẹ nhõm
vô cùng, Tôn-giả Đại-Ca-Diếp liền truyền giao chính pháp cho Tôn-giả A-Nan làm
Tổ thứ hai.
Bấy giờ vô số Bồ-Tát
đến dự, có các Thiên Vương và Thiên chúng các cõi Phạm Thiên, Hóa Tự Tại, Tha
Hóa Tự Tại, Đâu Suất, Diệm Ma, Đạo-Lợi, Tứ Thiên Vương đến dự.
Cũng có các Vương và
chúng của tám bộ là:
1-
Đề-Bà (Deva: Thiện, hưởng phúc vi diệu).
2-
Càn-Thát-Bà (Grandhava:
Thần hầu Đế-Thích để ca và tấu nhạc).
3-
Dạ-Xoa (Yaksa: Yểm-Quỷ giữ các cửa thành cõi Đạo-Lợi).
4-
Na-Dà (Naga: Rồng giữ địa luân và các cung điện cõi Trời, làm
mưa v.v..).
5-
A-Tu-La (A Sura: Phi
Thiên, Thần).
6-
Ca-Lâu-La (Garuda:
Chim Súy-Điểu, Chim Cánh-Vàng, hai cánh soè ra đến 360,000 dặm (theo quyển
Nhị-Khóa Hiệp-Giải trang 278). Có 4 loại chim bằng noãn, thai, hóa, thấp sinh,
bắt 4 loại Rồng noãn, thai, hóa, thấp sinh để ăn).
7-
Khẩn Na-La (Kini Nara:
Nghi Nhân, Nhân Phi Nhân, giống người mà có sừng, cũng là Thần đánh nhạc cho
Đế-Thích).
8-
Ma-Hầu La-Già (Mahoraga:
Đại Phúc-Hành, đầu Rắn mình người, Thần Rắn, Địa Long Thần, Đại Mãng Thần) đến
dự. (Ghi chú: Bát bộ kể trên, nhục nhãn loài người không thể trông thấy được.
Hai bộ Thiên và Long,
thần nghiệm khá nhất, nên gọi là Thiên Long Bát Bộ. Thiên Long Bát Bộ thường
hầu Phật mỗi khi Phật thuyết pháp).
Lúc ấy Bồ-Tát Di-Lạc
bảo chúng hội:
- Các Đại-Sĩ, hãy khuyên các
thiện nam tín nữ đọc tụng, thọ trì Tăng Nhất Tôn Pháp, giảng nói rộng rãi khiến
Trời Người vâng làm.
Khi Ngài nói những lời
trên xong, tất cả hội chúng đều nói: “Chúng tôi ủng hộ triệt để, quyết không dừng nghỉ nửa
chừng”.
Tôn-giả A-Nan cũng nói:
- Nay tôi đem Tăng Nhất A-Hàm
này giao cho Hiền giả Ưu Đa-La, hãy khéo tụng đọc, chớ để thiếu sót, vì bộ Kinh
này nêu lên lời dạy 37 đạo Phẩm.
Tôn-giả Đại Ca-Diếp
nghe nói thế liền hỏi:
- Hiền giả A-Nan, Tăng Nhất
A-Hàm lại có thể xuất sinh 37 đạo phẩm và các pháp đều do đây sinh sao?
Tôn giả A-Nan đáp:
- Đúng thế, thưa Tôn Huynh
Đại Ca-Diếp, không những thế mà chỉ một bài kệ trong đây cũng xuất sinh 37 đạo
phẩm; ngoài ra nghĩa của bốn bộ A-Hàm cũng chỉ trong một bài kệ cũng đầy đủ hết
lời chư Phật. Bài kệ là:
Các điều ác chớ làm,
Vì sao thế? Các điều ác
cấm làm là đầy đủ cấm giới, các điều lành vâng làm là đầy đủ hạnh thanh bạch;
tâm ý trong sạch là tự sạch ý mình, trừ tà chấp điên đảo, lời chư Phật dạy là
bỏ các ngu dốt. Thưa Tôn-huynh, người giữ giới thanh tịnh thì tâm ý của họ lại
bất tịnh sao? Người mà ý thanh tịnh thì không điên đảo, vì không điên đảo nên
ngu dốt diệt, ba mươi bảy đạo phẩm liền được thành tựu; đã thành đạo qủa há
chẳng phải là các pháp ư?
Tôn-giả Đại Ca-Diếp lại
hỏi:
- A-Nan, tại sao lại đem Tăng
Nhất A-Hàm giao phó Ưu-Đà-La mà chẳng giao cho Tỳ-kheo khác?
- Thưa Tôn-Huynh, 91 kiếp
xưa, có đức Tỳ-Bà-Thi Như-Lai, Ngài đã giao phó Tăng Nhất cho Tỳ-kheo Ưu-Đa-La,
lúc đó có tên là Câu Ưu-Đa đọc tụng. Rồi 31 kiếp xưa có Thi-Khí Như-Lai, cũng
trao Tăng Nhất cho Ưu-Đa-La lúc ấy có tên là Mục-Gia Ưu-Đa-La tụng đọc. Cũng ở
kiếp 31 ấy, lúc có Tỳ-Xá-Phù Như-Lai, cũng lại trao Tăng Nhất cho Ưu-Đa-La lúc
này có tên là Long Ưu-Đa-La đọc tụng. Tôn-giả nên biết, trong Hiền kiếp này, 3
vị Như-Lai ra đời trước kia cũng đều đem Tăng Nhất trao cho Ưu-Đa-La đọc tụng
như thế cả. Ngày nay có Thích-Ca Như-Lai, tuy đã nhập Niết-Bàn, nhưng Ngài đã
đem hết giáo pháp trao cho Tôn-giả, rồi Tôn-giả lại trao hết cho tôi, nay tôi
lại trao hết lại cho Ưu-Đa-La.
Còn nữa, Tôn-giả nên
biết, một hôm Thế-Tôn đi kinh hành trong vườn Cam-lê, lúc đó tôi thấy Thế-Tôn
mỉm cười, tôi liền vái mà hỏi: “Như-Lai không cười vô cớ, xin Ngài giải thích cho sự mỉm
cười vừa rồi”. Phật bảo tôi rằng:
“Ở đời qúa khứ trong
Hiền kiếp này, có một vị vua tên Ma-Ha Đề-Bà, dùng chính pháp cai trị, vua có
đủ bảy báu là Xe báu, Voi báu, Ngựa báu, Châu báu, Ngọc-nữ báu, Cư-sĩ báu, và
Chủ-binh báu, Vua lấy đức trị dân trong thời gian lâu dài. Khi ấy, vua bảo
người thợ hớt tóc rằng: “Nếu trên đầu ta có tóc bạc hãy cho ta hay”. Người
hớt tóc nghe lệnh vua, qua một số năm, thấy đầu vua có tóc bạc, liền tâu vua: “Thưa Đại
Vương, đầu Ngài đã có tóc bạc mọc rồi”. Vua
bảo người ấy nhổ sợi tóc bạc ấy để lên tay vua. Khi vua trông thấy tóc bạc liền
tự nói: “Trên
đầu ta có tóc bạc là báo hiệu già sắp chết, nên ta phải xuất gia tu đạo”. Bấy
giờ vua bảo Thái-tử lớn nhất là Trường-Thọ:“Con biết
chăng, tóc ta đã bạc, ý ta muốn xuất gia học đạo để lià các khổ, con hãy nối
ngôi ta, lấy chánh pháp giáo hóa cai trị, chớ sai lời ta dạy, vì nếu sai lời ta
dạy thì sẽ ở trong khổ sở sau này”.
Sau khi truyền ngôi,
vua đến nơi thanh tịnh, cạo bỏ râu tóc, khéo tu phạm hạnh, hành 4 đẳng tâm Từ,
Bi, Hỷ, Xả, đến khi mạng chung sinh lên cõi Trời Phạm Thiên.
Vua Trường-Thọ nhớ lời
cha dạy, dùng chính pháp cai trị, cũng làm Chuyển-luân Thánh-Vương. Rồi cũng
dùng đường lối của vua cha, khi có tóc bạc liền dặn bảo và truyền ngôi cho con
trưởng là Thiện-Quán, và cũng tu hành y như vua cha, kết cục khi mạng hết cũng
sinh lên cõi Phạm-Thiên.
Vua Thiện-Quán cũng làm
theo lời dạy của cha ông, dùng chính pháp cai trị, làm Chuyển Luân Thánh-Vương,
cũng có bảy báu v.v...
Tôn-huynh nên biết, Vua
Ma-ha Đề-Bà khi đó đâu phải người nào xa lạ, vua bấy giờ nay là Phật Thích-Ca.
Vua Trường-Thọ nay là thân A-Nan đây, còn vua Thiện-Quán lúc đó nay là Tỳ-kheo
Ưu-Đa-La, đã từng nhận Vương pháp chưa từng bỏ mất, cũng chẳng dứt. Vua
Thiện-Quán đã làm hưng phục lệnh vua cha, dùng chánh pháp cai trị, chẳng dứt
lời vua cha dạy, vì lời dạy của phụ vương khó làm trái được; tôi quán nghĩa này
nên đem Tăng-Nhất trao cho Tỳ-kheo Ưu-Đa-La.
Sau khi Tôn-giả Đại
Ca-Diếp đến núi Kê-Túc nhập diệt định để chờ đức Phật Di-Lặc ra đời thấy thân
áo bát, Tôn-giả A-Nan-Đà đi truyền Chính-Pháp khắp nơi, và hóa độ chúng-sanh
rất nhiều.
Một lần, Tôn-giả
A-Nan-Đà đến tịnh-xá Trúc-Lâm thì nghe một vị Tăng tụng bài kệ rằng:
Nếu người sống trăm tuổi,
Tôn-giả bèn kêu vị Tăng
ấy mà bảo rằng :
- Bài kệ của thầy đọc đó
không nhằm nghĩa của Phật nói. Thầy nên đọc lại như thế này mới đúng:
Nếu ngưòi sống trăm tuổi,
Khi Tôn-giả đi rồi, Chủ
trì nghe vị Tăng thưa lại, bèn nói rằng:
- Ông A-Nan-Đà già cả lẫn
lộn, nên bày không trúng, đừng tụng theo mà sai lầm.
Ngày khác Tôn-giả trở
lại, cũng nghe vị Tăng ấy tụng sai lầm y như bữa trước, Ngài hỏi lại mới biết
rằng thầy Chủ trì cản trở, Tôn-giả tự nghĩ: “Cái bệnh ngu si của người ta thật khó hóa độ”. Ngài
liền nhập định mà cầu bậc Tôn Thánh làm chứng, bỗng đâu đất liền chấn động, ánh
sáng chói lòa phát chiếu, rồi có một vị Đại-sĩ xuất hiện ngay bên vị Tăng và
nói:
- Bài kệ ngươi tụng không
phải ý của Chư Phật, nay gặp Tôn-giả A-Nan-Đà chỉ bảo thì ngươi phải tuân theo
mới được.
Vị Đại-sĩ nói xong liền
biến mất, vị Tăng thấy vậy thất kinh, liền phát tâm cung kính mà tụng bài kệ
theo lời dạy của Tôn-giả; về sau vị Tăng ấy chứng qủa thứ hai.
5)-
Tôn-giả A-Nan-Đà nhập diệt.
Về sau, một hôm,
Tôn-giả A-Nan-Đà nhớ lại lời thỉnh cầu của Vua A-xà-Thế rằng: “Khi nào
Tôn-giả nhập Niết-Bàn thì cho Vua hay trước”, nên Tôn-giả đi đến gặp người Thủ môn
canh giữ cổng thành Hoàng-cung mà nói rằng:
- Ta là A-Nan-Đà sắp nhập
Niết-Bàn, nên tới đây báo cho Vua A-xà-Thế biết.
Quan Thủ-môn thưa rằng:
- Bây giờ Thánh-Thượng còn
đang an giấc, nên chưa dám thưa trình.
Tôn-giả bảo vị quan ấy:
- Thôi được, khi nào đức Vua
thức dậy ông thưa trình cũng được.
Nói xong, Tôn-giả từ
biệt nước Ma-kiệt-Đà, rồi ngồi thuyền ra sông Hằng mà qua xứ Phệ-xá-Ly; trong
khi ấy, Vua A-xà-Thế ngủ trên Long-Sàng, và Ngài đang trong giấc mộng chiêm
bao. Vua mơ thấy một Bảo-Cái có treo bảy món báu vật, xem rất trang nghiêm rực
rỡ, Vua còn mơ thấy có vô số người đang ngưỡng mộ lễ bái Bảo-Cái; thình lình
một trận mưa gió bão đùng đùng nổi lên rất là dữ tợn, làm cho các món trân-bảo,
anh-lạc đều rơi rớt tứ tung cả; Vua thấy vậy thì trong lòng kinh sợ, vì kinh sợ
nên giật mình thức dậy, và lúc ấy mới biết là chiêm bao.
Trong lúc Vua còn đang
ngồi suy nghĩ điềm mộng ấy hung kiết thế nào, thì bỗng có quan Thủ-môn đến tâu
trình sự việc Tôn-giả A-Nan-Đà đến cáo biệt, và đã đi đến xứ Phệ-xá-Ly để nhập
Niết-Bàn rồi. Vua nghe xong liền khóc rống lên một cách thảm thiết, và Vua lập
tức truyền lệnh cho ngựa xe cấp tốc thân hành đi mà yêu cầu Tôn-giả trở lại.
Khi tới bờ sông Hằng,
Vua trông thấy Tôn-giả A-Nan-Đà đang ngồi Kiết-già trong một chiếc thuyền ở
giữa dòng sông, Ngài đứng nơi mé bờ sông mà đảnh lễ Tôn-giả, và kêu lớn lên
rằng:
- Xin: Tôn-giả thương tình xứ
Ma-kiệt-Đà mà trở lại, và xin đừng vội nhập diệt.
Còn về Vua xứ
Phệ-xá-Ly, vì một nhân duyên được nghe tin Tôn-giả A-Nan-Đà đến nước mình, nên
đem binh tới bờ sông Hằng mà chực rước, nhà Vua ở nơi bờ sông bên kia, ngó qua
mà lễ lạy Tôn-giả, và kêu lớn lên rằng:
- Thỉnh cầu Tôn-giả ghé qua
bờ sông nước Phệ-xá-Ly chúng tôi, để tạm thọ lễ cúng dường xong Ngài hãy nhập
Niết-Bàn.
Khi thấy hai Vua đều có
lòng buồn rầu quyến luyến, Tôn-giả A-Nan-Đà an ủi:
- Niết-Bàn là một cảnh
an-tịnh, cứu-cánh, xin hai vi Đại-Vương đừng lấy sự sống chết thường tình mà
sầu thảm. Chốc lát nữa đây, tôi sẽ độ cho năm trăm vị Tiên, và truyền trao
Chính-Pháp, sau đó tôi sẽ nhập diệt tại giữa dòng sông này, để lấy lòng bình
đẳng mà hóa độ.
Tôn-giả vừa nói dứt,
thì năm trăm vị Tiên ở núi Tuyết-sơn (Hy-Mã-Lạp-Sơn) dùng thần-thông mà đi trên
không đến đảnh lễ Tôn-giả và thưa:
- Chúng tôi tu Tiên ở núi
Tuyết-sơn đến đây, nguyện nhờ Tôn-giả A-Nan-Đà mà chứng Phật qủa, xin Ngài
từ-bi độ thoát cho chúng tôi.
Tôn-giả A-Nan-Đà nói:
- Ta đang đợi các ông đây.
Nói xong, Tôn-giả thị
hiện thần-thông làm mặt nước sông Hằng biến hóa ra một giải đất liền, mặt toàn
là vàng ròng rực rỡ; Ngài bảo các vị Tiên hạ xuống mà ngồi, rồi Ngài thuyết
pháp Đại-thừa cho Tiên chúng nghe, thuyết pháp xong, Tôn-giả nói:
- Các đệ-tử trước kia của ta
chắc cũng sắp đến đây.
Tôn-giả vừa nói xong,
thì năm trăm vị A-La-Hán dùng thần-thông đi trên không đến đảnh lễ; Ngài liền
yêu cầu các vị A-La-Hán độ cho các vị Tiên xuất gia, và thọ Cụ-túc giới; xong
việc truyền Giới, Tôn-giả chọn một vị Tiên là Thương-Na Hòa-Tư đã đắc A-LA-Hán
mà bảo rằng :
- Xưa đức Thế-Tôn đem
Chính-Pháp Nhãn-Tạng mà phú chúc cho Tôn-giả Đại Ca-Diếp Sư huynh ta, rồi sau
truyền lại cho ta. Nay ta phó chúc cho ông, vậy ông phải hết lòng trân trọng
lãnh ( lĩnh ) thọ mà hộ trì, hầu ngày sau siển dương Phật-Pháp mà hóa độ cho
chúng sanh; hãy nghe ta nói kệ mà ấn tâm:
Lâu nay phú có pháp,
Sau đó Tôn-giả kêu vị
Tiên tên Mạt-Điền Để-Ca cũng đã đắc A-La-Hán mà dặn rằng:
- Lời thụ ký trước của đức
Thế-Tôn có nói: “Sau khi Như-Lai nhập-diệt năm trăm năm, thì ông phải đến
nước Kỳ-Tân mà truyền Đại-Pháp, để độ thoát cho loài hữu tình”.
Xong việc truyền Pháp
và dặn dò, Tôn-giả bảo một nghìn đệ-tử trở về, rồi Ngài thu hồi thần-thông để
mặt sông trở lại mặt nước như cũ.
Vì cả hai nước đều hết
lòng kính phụng và mong muốn được giữ Xá-Lợi của Tôn-giả, nên Ngài bảo các
đệ tử sau khi Ngài nhập diệt rồi thì trà-tỳ, lấy Xá-lợi chia cho hai nước, cõi
Trời Đạo-Lợi và Long cung; rồi Ngài ngồi kiết già trong thuyền ngay giữa dòng
sông mà tịch. Khi ấy chư Thiên và Long-Vương tới lễ bái trên không, và rải hoa
cúng dường; Vua hai nước và Thần-Dân hai bên bờ thấy thế thì tất cả đều qùy lễ
và chảy nước mắt; các đệ tử sắp đặt việc trà tỳ và phân xá lợi để xây dựng
Bảo-Tháp cúng dường đời đời. Khi ấy tôn-giả A-nan-Đà đã 120 tuổi thọ..,
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét