Việc kiểm soát và khống chế áp suất máu cao bằng
cách dập tắt triệu chứng thực ra là một thảm họa. Chỉ số áp suất
máu cao được đưa về chỉ số an toàn bằng thuốc hóa dược và thuốc tim
mạch là một việc lừa dối bệnh lý. Vì chỉ số áp suất máu an toàn
đó là chỉ số giả. Do nguyên nhân của hội chứng áp suất máu cao vẫn
chưa được xử lý triệt để, cho nên áp suất máu thực của bệnh nhân,
vẫn ở dạng tiềm ẩn, nguy hiểm và đó cũng là mối đe dọa tính mạng
luôn treo lơ lững trên đầu của bệnh nhân có bệnh áp suất máu cao.
Bởi
vậy y lý của Đông Y xếp thủ pháp Y Khoa dập tắt triệu chứng mà không
xử lý nguyên nhân vào loại Y Thuật Bá đạo. Đông Y không lấy việc dập
tắt triệu chứng làm cứu cánh, mà lấy việc xử lý nguyên nhân bệnh
lý làm Y Thuật chính thống, và xếp thủ pháp này vào hàng Thánh
Đạo hay Vương Đạo. Trong việc xử lý bệnh Huyễn Vựng, Trúng Phong (áp
suất máu cao, đột quị, tai biến mạch máu não). Đông Y cũng xử lý
theo chiều hướng xử lý nguyên nhân, và đưa lại cho bệnh nhân chỉ số
áp suất an toàn là chỉ số áp suất máu thực chứ không phải là chỉ
số giả luôn tàng ẩn nguy hiểm của thủ thuật dập tắt triệu chứng.
Trong
khái niệm bệnh lý của Đông Y không có khái niệm về Áp Suất Máu Cao.
Mà chỉ có khái niệm về bệnh Huyễn Vựng và Trúng Phong. Lưu ý, khái
niệm Trúng Phong ở đây không phải là bệnh trúng gió mà dân gian
thường nói tới. Trúng Phong là bệnh lý do Phong Tà tắc bế mà sinh ra
Nội Nhiệt, dẫn đến phong hỏa lộng hành thốc huyễn lên cao mà sinh ra
đột quị.
Đông Y chia khái niệm Tà Khí ra hai loại, Ngoại tà và Nội tà. Ngoại tà là khí hóa của khí hậu bên ngoài, bao gồm Phong, Hàn, Táo, Nhiệt, Thử, Thấp tức là Gió, Lạnh, Hanh Khô, Nóng, Nắng và Ẩm Thấp. Ǹội tà tức là khí hóa bên trong cơ thể, gọi là Ngũ Khí, bao gồm, Phong thuộc gan, Hàn thuộc thận, Táo thuộc phế, Nhiệt thuộc tâm và Thấp thuộc Tỳ. Trong đó Gan thuộc Phong nhưng rất kỵ nhiệt. Hàn thuộc Thận lại cực sợ ẩm thấp, Nhiệt thuộc tâm lại kiêng cữ phong, Tỳ là thấp, Táo thuộc phế nhưng cả hai lại đại kỵ với hàn lạnh. Nếu các tạng phủ lâm nhiễm những cữ kỵ lâu ngày thì sinh nên chứng bệnh nguy nan. Gan bị gặp tà nhiệt thì Phong bế tắc. Tim gặp phong tà thì hỏa vượng mà sinh huyễn vựng. Thận bị Thấp thì suy. Tỳ gặp hàn thì hư.
Đông Y chia khái niệm Tà Khí ra hai loại, Ngoại tà và Nội tà. Ngoại tà là khí hóa của khí hậu bên ngoài, bao gồm Phong, Hàn, Táo, Nhiệt, Thử, Thấp tức là Gió, Lạnh, Hanh Khô, Nóng, Nắng và Ẩm Thấp. Ǹội tà tức là khí hóa bên trong cơ thể, gọi là Ngũ Khí, bao gồm, Phong thuộc gan, Hàn thuộc thận, Táo thuộc phế, Nhiệt thuộc tâm và Thấp thuộc Tỳ. Trong đó Gan thuộc Phong nhưng rất kỵ nhiệt. Hàn thuộc Thận lại cực sợ ẩm thấp, Nhiệt thuộc tâm lại kiêng cữ phong, Tỳ là thấp, Táo thuộc phế nhưng cả hai lại đại kỵ với hàn lạnh. Nếu các tạng phủ lâm nhiễm những cữ kỵ lâu ngày thì sinh nên chứng bệnh nguy nan. Gan bị gặp tà nhiệt thì Phong bế tắc. Tim gặp phong tà thì hỏa vượng mà sinh huyễn vựng. Thận bị Thấp thì suy. Tỳ gặp hàn thì hư.
Phế
bị lạnh thì cảm mạo...v..v..
Gan
nhiệt, Thận suy, Tỳ hư, Tâm loạn là bốn nguyên nhân chủ yếu làm nên
chứng Huyễn Vựng, Trúng Phong mà Tây Y gọi là chứng đột quị, nhồi
máu cơ tim, tai biến mạch máu não.
Đông
Y xử lý bệnh lý này bằng thảo dược mang đầy đủ các tính chất
Tính, Vị, Khí để điều hòa Tinh, Khí, Thần, cùng với các liệu pháp
dưỡng sinh, và ẩm thực để đưa mối quan hệ nội tại Huyết tàng Tinh,
Tinh sinh khí, Khí dưỡng Thần, Thần điều Huyết vào trạng thái nhu
thuần, ổn định để đào thải tận gốc rễ của bệnh lý. Liệu pháp của
Đông Y tuy chậm mà chắc chắn và an toàn tuyệt đối là vậy.
Về
thực tế lâm sàng. Hội chứng áp suất máu cao nếu được xử lý theo liệu
pháp Tinh, Khí, Thần một cách hợp lý thì hoàn toàn có thể tránh
được chứng đột quị, tử vong, hoặc di chứng của tai biến não.
Tùy
theo chứng bệnh do huyết trệ mà Tinh nặng trược, không được tinh khiết
trong sạch mà nên bệnh thì xử lý khâu Gan nhiệt, Thận hư mà liễm
khí. Bệnh do Khí ứ trệ, cương thống thì điều hòa ở Tỳ Vị. Bệnh do
tâm thần hoảng loạn, bức bối, sợ sệt, lo lắng...thì dưỡng lại Tâm
Phế. Tùy chứng mà ra toa điều phương, ắt sẽ xóa được gốc bệnh, mà
đưa lại sức khỏa an toàn cho người bệnh.
Nói
tóm lại, Đông Y xử lý bệnh huyễn vựng, trúng phong tức là hội chứng
và di chứng của áp suất máu cao bằng cách tùy chứng mà Bình Can,
Bổ Thận, Điều Hòa Tỳ Vị và Dưỡng Tâm Phế.
Bằng
các thủ thuật này người bệnh có hội chứng áp suất máu cao, điều
trị rốt ráo theo thuật dưỡng sinh của Đông Y thì hầu như hoàn toàn
không bị cái án đột quị treo lơ lững trên đầu nữa.
Trong
những trường hợp bệnh nhân có cơn huyễn vựng cấp, có nghĩa là có
cơn áp suất máu, tăng cao một cách đột ngột có các triệu chứng gây
nguy cơ đột quị, như khi đo áp suất máu, chỉ số áp suất máu trên
180/100, nhịp tim quá thấp hoặc quá cao. Bệnh nhân người ngai ngái như
sốt, mặt phừng, mắt đỏ, bải hoải tay chân, tay trái tê xuội...thì
phương pháp điểm huyệt, day bấm huyệt vẫn có tác dụng đưa bệnh nhân
về trạng thái an toàn nhan và kịp thời hơn các phương pháp cấp cứu
của Tây Y, nếu như người bệnh hoặc nhân viên trị liệu nắm rõ các
phương pháp.
Và
các phương pháp này không có gì phức tạp cả. Nó đơn giản đến mức
cho dù một người không có am hiểu gì Y Lý vẫn có thể ứng dụng được
một cách dễ dàng.
Trong
các trường hợp có trịêu chứng nguy hiểm có thể đe dọa đến đột
quị thì dùng các liệu pháp đã chú thích rõ ràng ở dưới các đồ
hình dưới đây :
Trong
các trường hợp áp suất máu cao thường xuyên có những cơn huyễn vựng
chỉ số áp suất máu khi đo vượt ngưỡng an toàn, thì trước khi tìm ra
gốc bệnh để xử lý từ từ thì cũng phải dùng thủ thuật điểm huyệt
dập tắt triệu chứng dưới đây, để đưa chỉ số áp suất máu về chỉ số
an toàn là ít nhất cũng phải được 135/ 85, nhịp tim từ 70 đến 80 lần
phút. Thì chúng ta xử lý theo hướng dẫn dưới đây :
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét