19/03/2014

Xem ngày, kén giờ của Phan Kế Bính

Cách Coi Ngày Tốt Xấu



Xem ngày, kén giờ của Phan Kế Bính
Phan Kế Bính là một nhà trí thức tiến bộ, học vấn uyên thâm, đỗ cử nhân Hán học. Lại am tường văn minh Đông Tây, đã có nhiều cống hiến trong công cuộc khảo cứu văn học và lịch sử. Ông khuyên ta không nên mê tín quá vào việc xem ngày kén giờ, nhưng tại sao không bài bác thẳng thừng mà còn hướng dẫn người đọc: cưới xin, làm nhà, khai trương, xuất hành, an táng nên tìm ngày gì, kỵ ngày gì và bày cách chọn giờ hoàng đạo.
Ông có nói đến nhiều cát tinh (sao tốt), hung tinh (sao xấu), các ngày trực tốt trực xấu. Ông không đi sâu giải thích từng cát tinh hung tinh vì trong thời kỳ đầu thế kỷ đã có bản niên giám ban hành nhiều năm và nhiều người biết tiếng Hán xem được.
Có những cách tính ngày tốt xấu cơ bản như sau:
Tính theo tháng âm lịch và ngày can chi:
- Các sao tốt: Thiên đức, nguyệt đức (lục hợp), thiên giải, thiên hỷ, thiên quý (yếu yên),tam hợp (ngũ phú). Theo quan niệm xưa, những ngày có các sao này chiếu thì làm việc gì cũng tốt.
Ngoài ra còn có các sao: Sinh khí (thuận việc làm nhà, sửa nhà, động thổ), thiên thành (cưới gả giao dịch tốt), thiên quan (xuất hành giao dịch tốt), lộc mã (xuất hành di chuyển tốt), phúc sinh (được phúc tốt), giải thần (giải trừ các sao xấu), thiên ân (được hưởng phúc ân, làm nhà, khai trương)...
Theo thứ tự lần lượt từ tháng giêng, hai, ba, tư, năm, sáu, bảy, tám, chín, mười, mười một, chạp thì các sao tốt sẽ chiếu vào các ngày như sau:

Tháng
Sao
Giêng
Hai
Ba
Năm
Sáu
Bảy
Tám
Chín
Mười
Một
Chạp
Thiên đức:
Tỵ
mùi
dậu
hợi
sửu
mão
ty
mùi
dậu
hợi
sửu
mão.
Nguyệt đức:
Hợi
tuất
dậu
thân
mùi
ngọ
tỵ
thìn
mão
dần
sửu
tý.
Thiên giải:
Ngọ
thân
tuất
dần
thìn
ngọ
thân
tuất
dần
thìn.
Thiên hỷ:
Tuất
hợi
sửu
dần
mão
thìn
tỵ
ngọ
mùi
thân
dậu.
Thiên quí:
Dần
thân
mão
dậu
thìn
tuất
ty
hợi
ngọ
mùi
sửu.
Tam hợp:
Ngọ
mùi
thân
dậu
tuất
hợi
sửu
dần
mão
thìn
tỵ
Sinh khí:
sửu
dần
mão
thìn
ty
ngọ
mùi
thân
dậu
tuất
hợi.
Thiên thành:
Mùi
dậu
hợi
sửu
mão
ty
mùi
dậu
mùi
sửu
mão
tỵ.
Thiên quan:
Tuất
dần
thìn
ngọ
thân
tuất
dần
thìn
ngọ
thân.
Lộc mã:
Ngọ
thân
tuất
dần
thìn
ngọ
thân
tuất
dần
thìn.
Phúc sinh:
Dậu
mão
tuất
thìn
hợi
ty
ngọ
sửu
mùi
dần
thân.
Giải thần:
Thân
thân
tuất
tuất
dần
dần
thìn
thìn
ngọ
ngọ.
Thiên ân:
Tuất
sửu
dần
tỵ
dậu
mão
ngọ
thân
thìn
thân
mùi.

Có nghĩa là: Sao thiên đức chiếu vào những ngày ty của tháng giêng, ngày mùi của tháng hai, ngày dậu của tháng ba... Các sao khác cũng xem như vậy.
Các sao xấu: (mỗi tháng tính theo ngày âm có ba ngày nguyệt kỵ là mồng 5, 14, 23 và 6 ngày tam nương là ngày 3, 7, 13, 18, 22, 27).
Các sao xấu khác tính theo tháng âm lịch và ngày can chi như: Thiên cương, thụ tử, đại hao, tử khí, quan phù (xấu trong mọi việc lớn), tiểu hao (kỵ xuất nhập, tiền tài), sát chủ, thiên hoạ, địa hoả, hoả tai, nguyệt phá (kiêng làm nhà), băng tiêu ngoạ giải (kiêng làm nhà và mọi việc lớn), thổ cấm (kiêng động thổ), vãng vong (kiêng xuất hành giá thú), cô thần, quả tú (kiêng giá thú), trùng tang trùng phục (kỵ hôn nhân, mai táng, cải táng).
Theo thứ tự từ tháng giêng, hai, ba, tư, năm, sáu, bảy, tám, chín, mười, một, chạp thì các sao xấu chiếu như sau:

Tháng
Sao
Giêng
Hai
Ba
Năm
Sáu
Bảy
Tám
Chín
Mười
Một
Chạp
Thiên cương:
Ty
mùi
dần
dậu
thìn
hợi
ngọ
sửu
thân
mão
tuất.
Thụ tử:
Tuất
thìn
hợi
ty
ngọ
sửu
mùi
dần
thân
mão
dậu.
Đại hao, tử khí, quan phù:
Ngọ
mùi
thân
dậu
tuất
hợi
sửu
dần
mão
thìn
ty..
Tiểu hao:
Ty
ngọ
mùi
thân
dậu
tuất
hợi
sửu
dần
mão
thìn.
Sát chủ:
ty
mùi
mão
thân
tuất
sửu
hợi
ngọ
dậu
dần
thìn.
Thiên hoả:
mão
ngọ
dậu
mão
ngọ
dậu
mão
ngọ
dậu.
Địa hoả:
Tuất
dậu
thân
mùi
ngọ
tỵ
thìn
mão
dần
sửu
hợi.
Hoả tai:
Sửu
mùi
dần
thân
mão
dậu
thìn
tuất
ty.
hợi
ngọ.
Nguyệt phá:
Thân
tuất
tuất
hợi
sửu
sửu
dần
thìn
thìn
ty
mùi
mùi.
Băng tiêu ngoạ giải:
Tỵ
sửu
thân
mão
tuất
hợi
ngọ
mùi
dần
dậu
thìn.
Thổ cấm:
Hợi
hợi
hợi
dần
dần
dần
tỵ
tỵ
ty
thân
thân
thân.
Thổ kỵ
vãng vong:
Dần
ty
thân
hợi
mão
ngọ
dậu
thìn
mùi
tuất
sửu.
Cô thần:
Tuất
hợi
sửu
dần
mão
thìn
tỵ
ngọ
mùi
thân
dậu.
Quả tú:
Thìn
ty
ngọ
mùi
thân
dậu
tuất
hợi
sửu
dần
mão.
Trùng tang:
Giáp
ất
mậu
bính
đinh
kỷ
canh
tân
kỷ
nhâm
quý
mậu.
Trùng phục:
Canh
tân
kỷ
nhâm
quí
mậu
giáp
ất
kỷ
bính
đinh
mậu.

Mỗi năm có 13 ngày dương công (xấu).
Tính theo ngày tiết: 4 ngày ly và 4 ngày tuyệt (xấu)
Mỗi năm có 4 ngày tứ ly (trước tiết xuân phân, thu phân, đông chí, hạ chí một ngày), 4 ngày tứ tuyệt (trước tiết lập xuân, lập hạ, lập thu, lập đông một ngày).

Tính theo ngày trực:
- Trong 12 ngày trực có 6 ngày tốt (trực kiến ( trực mãn (3), trực bình (4), trực định (5), trực thành (9), trực khai (1, 3 ngày thường (trực chấp (6), trực trừ (2), trực thu (10), 3 ngày xấu (trực phá (7), trực nguy (8), trực bế (12).

Tính theo nhị thập bát tú:
- Trong 28 ngày có 14 ngày tốt, 14 ngày xấu nhưng nhị thập bát tú tương ứng với ngày tuần lễ. Nói chung ngày thứ tư, thứ năm hàng tuần thường là ngày tốt.

17/03/2014

 Lương y VÕ HÀ
    Được xem là cao huyết áp khi chỉ số huyết áp cao hơn 14cmHg và chỉ số huyết áp dưới lớn hơn 9cmHg. Cao huyết áp với hệ quả tai biến mạch máu não và những di chứng của nó luôn là nỗi ám ảnh của nhiều người lớn tuổi. Ngày nay, mặc dù y học đã có những bước tiến vượt bậc, các triệu chứng này hiện vẫn gây tốn kém nhiều công sức và tiền của cho xã hội.
   Tuy nhiên có một điều mà ít người quan tâm là với một số động tác đơn giản của y học dân gian, người ta có thể làm giảm cơn cao huyết áp đang phát triển để khống chế phần lớn những tác hại của nó hoặc ít ra có thể ngăn chận những diễn biến xấu hơn trong khi bệnh nhân chờ được chuyển đến bệnh viện hoặc cơ sở chuyên môn cần thiết.
 Huyết áp cao có thể là triệu chứng của nhiều căn bệnh khác nhau, do nhiều nguyên nhân khác nhau. Do đó việc điều trị dứt điểm cần sự chẩn đoán và thời gian thích hợp. Ở đây chúng tôi chỉ đề cập đến một phương pháp đơn giản mà người bệnh có thể tự thực hiện để “cắt cơn” cao huyết áp, giải tỏa kịp thời nguyên nhân gây ra tai biến về não trước khi được sự chăm sóc của thầy thuốc.
    Theo y học cổ truyền, triệu chứng huyết áp cao là một tình trạng khí nghịch do tình chí hoặc do yếu tố lục dâm (phong, hàn, thử, thấp, táo hỏa) gây ra. Giải quyết triệu chứng này đồng nghĩa với việc giáng khí, làm cho khí đang lưu chuyển ngược lên đầu sẽ hướng xuống phía dưới và tỏa ra lớp da ngoài của cơ thể.
 NHỮNG ĐỘNG TÁC CỤ THỂ GỒM :
 1. Vuốt ấm hai vành tai
Dùng ngón cái và ngón trỏ của mỗi bàn tay vuốt dọc vành tai cùng bên, từ trên xuống dưới khoảng 9, 10 lần. Vành tai và cột sống có những điểm phản xạ tương ứng với nhau, do đó vuốt ấm vành tai cũng là tác động vào cột sống lưng, vừa có tác dụng điều hòa thần kinh giao cảm, vừa kích thích sự lưu thông khí huyết ở phần vệ khí do kinh bàng quang phân bố dọc hai bên sống lưng (nếu có người thứ hai bên cạnh có thể nhờ người này trực tiếp ngồi sau lưng dùng bàn bay tay phải vuốt dọc sống lưng từ trên gáy xuống đến tận thắt lưng để gia tăng thêm tác dụng).
 2. Vuốt dọc hai bên mũi
Mỗi bàn tay vuốt một bên mũi, vuốt đều hai bên cùng một lúc. Dùng ngón tay trỏ vuốt từ ấn đường (điểm giữa hai đầu chân mày) xuống dọc theo hai bên mũi qua khóe miệng đến tận chót cằm. Vuốt chậm, nhẹ và làm không dưới 15 lần.
 Kích thích huyệt ấn đường có tác dụng làm phóng thích chất endorphine nội sinh có thể làm cho an thần, hạ huyết áp và giáng khí. Vuốt dọc theo hai bên mũi xuống cằm là tác động vào hai kinh dương minh. Học thuyết kinh lạc của y học cổ truyền cho rằng kinh dương minh là kinh dương, tập trung nhiều huyết khí, huyết; có chức năng quan trọng nhất trong việc bảo vệ cơ thể chống lại các yếu tố gây bệnh từ bên ngoài. Động tác này làm gia tăng sự lưu thông khí huyết ở phần vệ khí, gây ấm người và làm nhẹ áp lực lên thành mạch.
 3. Vuốt dọc hai chân mày
Dùng hai ngón tay trỏ và giữa vuốt từ ấn đường đi dài theo xương chân mày ra thái dương đến tận mí tóc ở phía ngoài đuôi mắt. Vuốt mỗi bên khoảng 10 lần. Vùng chân mày và hai cánh tay có những điểm phản xạ tương ứng nhau, do đó động tác này ngoài việc giải tỏa sự sung huyết tại những huyệt vị thường bị tắc nghẽn ở vùng trán còn làm cho khí huyết lưu thông ra hai cánh tay và bàn tay để giúp nhẹ áp lực ở đầu.
4. Ngồi hoặc nằm thư giãn
 Ngồi thoải mái, lưng tựa ghế hoặc nằm xuổng thư giản hít thở điều hoà, tư tưởng tập trung vào mười đầu ngón chân. Theo y học cổ truyền thì thần ở đâu khí ở đó, do đó khi tập trung ý nghĩ tại vùng bàn chân, khí trong cơ thể từ phía trên đầu sẽ lưu chuyển về hướng bàn chân nên có tác dụng hạ khí. Việc tập trung tư tưởng càng tốt, hiệu quả hạ khí càng cao. Động tác này phải kéo dài hơn 10 phút. Trên thực tế, có nhiều người có khả năng thư giãn và tập trung tốt trong khi thực hành đến bước 4 đã từ từ rơi vào giấc ngủ.
Mỗi khi cảm nhận được những dấu hiệu huyết áp tăng cao như căng, nặng ở vùng thái dương, đau đầu, mờ mắt, mắt đỏ…, người bệnh nên ngồi xuống, tập trung tinh thần thực hành lần lượt 4 động tác trên. Bình tĩnh và tự tin là yếu tố cần thiết trong quá trình thực hiện các động tác. Sau khoảng 15 phút thực hành, bệnh nhân có thể cảm thấy bớt đi cảm giác khó chịu ở vùng đầu, nhịp đập của tim sẽ chậm lại, tay chân sẽ ấm lên. Đó là lúc huyết áp đã hạ bớt.
 Ngoài việc áp dụng đã hạ huyết áp, thực hiện những động tác trên còn là một biện pháp dưỡng sinh tốt để ổn định thần kinh, gia tăng việc lưu thông khí huyết trong cơ thể, giúp giữ thể trạng tốt.
 Trường hợp thực hành để giúp giữ gìn sức khỏe, riêng giai đoạn 4 nên tập trung tư tưởng tại vùng đan điền (dưới rốn khoảng 3 phần) thay vì tập trung ở 10 đầu ngón chân.

28/02/2014

Niệm Phật và lễ Phật thế nào để tội diệt, phước sinh?



   Niệm Phật và lễ Phật là những pháp tu căn bản, phổ biến; ai cũng biết xưng niệm và lễ bái hồng danh chư Phật. Tuy nhiên, muốn niệm Phật để được “phước sinh vô lượng” thì phải nhất tâm, hết lòng, chí thành và chí kính. Miệng niệm danh hiệu Phật, tâm nhớ tưởng công đức Phật rồi nguyện một lòng tu theo hạnh nguyện Phật. Hồng danh Phật hàm dưỡng vô lượng công đức nên niệm một câu Phật mà tâm bừng sáng, tỉnh thức, nguyện quay đầu hướng thiện thì chắc chắn được phước vô lượng.
   Lễ Phật cũng vậy, vận hết thân tâm cung kính đảnh lễ. Chư Phật đều là những bậc phước trí trang nghiêm nên chí tâm kính lễ chư Phật được công đức thù thắng, tiêu tan tội chướng và giải trừ phiền não. Lễ Phật mà quán thấu “năng lễ, sở lễ” đều không, tịch tịnh, đạt đến độ giao cảm không thể nghĩ bàn với chư Phật thì chắc chắn “tội diệt hà sa”.
   Hàng ngày chúng ta đều xưng niệm và lễ bái hồng danh chư Phật nhưng phần lớn tâm thức chúng ta bị phiền não nhiễm ô, tạp niệm chi phối nên phước có sinh mà chưa nhiều, tội có diệt mà chưa hết. Tiếp tục tinh tấn hơn nữa niệm Phật cho đến nhất tâm, lễ Phật cho đến tiêu tan tự ngã thì mới được công đức, phước báo vô lượng.


26/02/2014

Phong tục cúng giỗ của người Hà Nội xưa


Nguyễn Kim Hoạt
Phong tục cúng giỗ của người Hà Nội xưa
     Người Việt Nam có tục thờ cúng tổ tiên. Vào ngày Tết và ngày qua đời của người thân trong gia đình (ngày âm lịch), con cháu đều cố gắng sắm sửa những món ngon vật lạ để dâng cúng những người đã khuất. Đó là phong tục cúng Tết và cúng giỗ.
     Riêng giỗ, ông cha ta xưa rất coi trọng. Cúng giỗ tổ tiên, ông bà, cha mẹ, được coi là “báo hiếu”, là ngày con cháu tưởng nhớ đến công lao sinh thành, xây nếp đắp móng của các vị tiền hiền, và cầu xin vong linh các vị phù hộ độ trì cho.
     Các cụ chia giỗ làm hai loại: giỗ trọng và giỗ thường.
     Giỗ trọng là giỗ những người thân mới mất, thường là ông bà, cha mẹ. Còn giỗ thường là giỗ những người ở thế hệ xa hơn: cụ kỵ, chú bác, cô, anh chị... Các cụ vẫn truyền cho con cháu câu: “Ngũ đại mai tiền chi” (năm đời không còn chủ), tức là từ đời thứ 5 trở lên (đời kỵ) các cháu chắt không phải cúng giỗ nữa, nhưng những ngày tết và những ngày giỗ khác, các vị từ đời thứ năm trở lên vẫn được tiến chủ (người đứng lễ) khấn, mời về "đồng hưởng" cùng vong linh những người đã khuất của gia đình.
     Nhân dân ta mang truyền thống “uống nước nhớ nguồn" nên hàng năm những vị khai sáng ra một dòng họ - được suy tôn là “khởi tổ” hoặc “thuỷ tổ” - vẫn được chắt chút cúng giỗ ở nhà thờ “đại tôn” (nhà thờ của họ). Trong khoảng 20 năm trở lại đây, nhiều nhà thờ họ được xây lại, được tôn tạo sửa chữa tôn tạo và việc cúng giỗ tổ tiên được khôi phục. Đó là dịp để các chắt chút… của Tổ gặp nhau, trước tỏ lòng thành kính với Tổ, sau là nhận họ, nhận hàng. 
     Nhiều họ, ngày giỗ Tổ còn là ngày động viên chắt, chút… làm những việc tốt, tuyên dương những chắt, chút mới tốt nghiệp đại học, trên đại học, có phần thưởng cho những chút, chít mới đỗ vào đại học hoặc học giỏi. Ở Phú Thọ, còn có phong trào “dòng họ tự quản” với những “tộc ước” rất cụ thể.
     Riêng ngày giỗ trọng thì mỗi gia đình tổ chức một khác, tuỳ tâm gia chủ, tổ chức như thế nào do gia đình bàn bạc thống nhất. Các cụ truyền dạy: “Đó là việc hiếu, mọi người đến không phải vì cỗ to, vì miếng ăn, mà là để tưởng nhớ người đã mất, vì họ hàng làng xóm tối lửa tắt đèn có nhau”. Vì vậy, các đám ma, đám giỗ không ai buông một lời chê, không có cãi vã, to tiếng, say rượu, cờ bạc... Các cụ rất coi trọng cỗ, chứ không coi trọng cỗ. 
     Ngày giỗ lấy tâm thành là chính chỉ cần “bát cơm, quả trứng” cúng là đủ. Vì vậy, hầu như tất cả các gia đình ở Hà Nội, dù làm giỗ to nhỏ, nhiều ít, mâm cao cỗ đầy như thế nào thì gần cuối buổi lễ đều dâng lên bàn thờ một bát hoặc một liễn cơm và một quả trứng vịt hoặc gà luộc đã bóc vỏ, và bóp vỡ một chút ở chỗ ít lòng trắng để lộ phần lòng thêm một ít muối bên cạnh.
     Xưa những đám giỗ trọng ở quê có hai cách tổ chức gần như là lệ làng: Làm mở rộng đối với những giỗ mới, nhất là giỗ đầu (một năm sau ngày mất và giỗ hết (hai năm sau ngày mất, có nhà làm vào ngày thứ 100 sau hai năm gọi là giỗ bỏ tang hay “bỏ trở” - từ sau ngày đó, con cháu không phải để trở).
     Làm trong phạm vi hẹp (chú bác, anh chị em, con cháu) rượu từ giỗ sau giỗ bỏ tang trở đi. Gia chủ có làm rộng cũng ít người đến. Về cỗ, có hai loại, tuỳ hoàn cảnh gia đình mà chọn:
- Làm cỗ bình thường (gọi cỗ “bàn than”): chỉ có mấy món chế biến từ thịt lợn: luộc, rang, lòng, có thể thêm đĩa giò.
- Làm cỗ to (gọi là cỗ “đồ Tàu”) có những món cầu kỳ hơn, thường mỗi mâm có có bốn bát và tám đĩa: giò, nem, ninh, mọc, nấm, bóng...
     Có gia đình khá giả làm cả bò, lơn, gà (hoặc dê) gọi là cỗ “tam sinh”.
     Những giỗ làm theo phạm vi rộng thường 30 mâm, có nhà tới hàng trăm mâm, trong phạm vi hẹp độ 5- 10 mâm (mỗi mâm 6 người).
     Trước ngày giỗ độ 10 ngày, ông trưởng (con trai đầu) mời tất cả con trai, con gái của người mất đến họ để thống nhất cách làm giỗ và phân công mỗi người một nhiệm vụ; người mua thực phẩm, người mượn bát đũa, mâm nồi, người dựng rạp. Các người con tự nguyện đóng góp, tùy khả năng và tùy tâm, không bổ bán, không chia đều. Sau khi thống nhất, hai vợ chồng trưởng nam phải đích thân đi mời từng nhà: "Tiếng chào cao hơn mâm cỗ!", có nhà ế hàng chục mâm cỗ chỉ vì sơ suất khi mời.
      Nhà nào cũng có một bàn thờ gia tiên đặt ở gian giữa - nơi trang trọng nhất, từ hai cột chính đến sát tường sau. Nhà nghèo thì bàn thờ là một tấm gỗ sơn đỏ nối hai cột chính với hai cột sau. Trên tường chính giữa dán một vuông giấy đỏ có viết một chữ Hán to "Phúc" hoặc "Thần". Trên tấm gỗ, đặt ba bát hương, bát giữa kê cao hơn thờ thần linh, bát bên phải thờ gia tiên và bát bên trái thờ các "bà cô, ông mãnh" - những người chết chưa vợ, chưa chồng và được gia đình coi là linh thiêng. Hai góc trước của bàn thờ có hai cây nến tiện bằng gỗ.
     Nhà khá hơn thì bàn thờ là một án thư có trang trí hoa văn, sơn son hoặc sơn then (đen), đèn nến bằng gỗ tiện sơn son. Nhà giàu thì chạm trổ "tứ linh" (bốn con vật thiêng: long (rồng), ly (kỳ lân), quy (rùa), phượng (chim phượng hoàng); mặt trước án thư là một tấm gỗ quý chạm "mai long" (cây hoa mai uốn hình rồng) hoặc chữ "ngũ long" (năm con rồng quây thành một vòng tròn), tất cả đều bằng sơn son thếp vàng. Trên án thư có bộ "tam sự" bằng đồng, có nhà còn thêm bộ đài rượu bằng gỗ sơn son hoặc bằng đồng (gồm ba khối hình ống, đáy cao, có nắp đậy, trên mỗi đáy đặt một chiếc chén hạt mít, khi cúng cơm, gia chủ mở nắp, rót vào chén). Có nhà thêm ống cắm hương chưa thắp, mâm bồng để bày hoa quả...      Những năm từ giữa thế kỷ XX, khi kỹ thuật chụp ảnh  phổ cập, thì trên án thư còn đặt ảnh những người đã mất; trên tường sau còn treo một bức hoành, có 3-4 chữ Hán to, ghi nguyện vọng, sự cầu mong của gia đình và đôi câu đối phẳng hoặc hình lòng máng nói về công đức của tổ tiên và lòng hiếu của con cháu; tất cả đều sơn son thiếp vàng. 
     Ở các nhà thờ "đại tôn", sau án thư là một tấm cửa võng, chạm trổ tinh vi, sơn son thiếp vàng, phía sau treo hai cánh màn bằng vóc hoặc nhiễu đỏ, ngăn án thư với "hậu cung", khi cúng, gia chủ vén màn sang hai bên, để lộ cung sau. Hậu cung là một cái bục lớn, cao ngang án thư bằng gỗ hoặc xây gạch, sát đến tường sau, trong cùng có một chiếc bàn vuông, trên đặt chiếc ngai sơn son thiếp vàng, trên ngai đặt chiếc bài vị gỗ mấy dòng chữ Hán: họ, chi, quê... Hai bên ngai, đặt hai giá cắm nến; khi cúng, gia chủ thắp nến để chiếu sáng cho cung. Trước ngai có một chiếc mâm gỗ vuông cao để đặt cỗ khi cúng cơm. Thường vào ngày giỗ trong, nhà ông trưởng nam tấp nập từ chiều hôm trước, để hoàn tất việc chuẩn bị và để cúng cơm.
     Thường vào ngày giỗ trọng, nhà ông trưởng nam tấp nập từ chiều hôm trước, để hoàn tất việc chuẩn bị và để cúng "tiên thường". Hôm giỗ, mọi việc diễn ra khẩn trương từ 2-3 giờ sáng dưới ánh đèn đuốc, nhóm giết lợn, giết bò, chuẩn bị thực phẩm, người vo gạo, thổi xôi... Tiếng cóc cách giã giò hoà tiếng lao xao người nọ hỏi người kia, lệnh của ông trưởng vang vang... tạo ra một không khí nhộn nhịp của một nhà có đám.
     Khoảng 8 giờ sáng, các mâm cỗ đã xong, một hoặc ba mâm được để lên bàn thờ (hoặc cung sau). Ông trưởng nam, áo the khăn xếp, bước lên chiếc sập trước bàn thờ để thắp hương, đèn nến rồi đứng giữa sập, hai tay chắp giữa ngực, lên gối xuống gối lễ ba lần, đoạn đứng nghiêm, mười ngón tay đan vào nhau và đưa lên ngang trán, miệng lầm rầm khấn. 
     Bài nhấn có ba phần. Mở đầu là ngày tháng năm (âm lịch), tại nhà thờ ở thôn, xã, huyện, tỉnh... tiến chủ tên gì, nhân ngày giỗ ai, thành tâm cúng tiến những gì. Phần sau là gia chủ kính mời từ thần linh, thổ địa, táo quân... đến tên họ và hiệu, nơi an táng các vị trong gia đình theo thứ tự từ trên xuống (chỉ khấn nam và dâu họ, nữ không khấn, trừ trường hợp chết chưa có chồng). Cuối bài khấn là những cầu xin. Khấn xong, ông trưởng nam lễ một lễ và ba vái nữa, rồi rót rượu cúng. 
     Một số họ lớn, khi giỗ tổ họ, tổ chức dâng hương tế tổ và thay bài khấn bằng một bài văn tế, ông trưởng lễ xong thì đọc bài văn tế, rồi đem ra sân đốt như đốt sớ ở đình chùa.
     Khi ông trưởng nam khấn xong, những người đến dự giỗ lần lượt già trước, trẻ sau vào lễ, người nào cũng đem một ít hoa, quả hoặc vàng hương, trầu rượu đặt lên bàn thờ rồi lễ, mỗi người ba lễ một bái, nam thì lễ như ông trưởng, nữ thì ngồi vào góc sập, chắp hai tay trước ngực, khi cúi thì giáp mặt tận chiếu, hai bàn tay xoè ra đặt hai bên đầu. Những bà gia đình có đại tang (bố mẹ hoặc chồng mới chết) phải lật một phần chiếu, ngồi xuống mặt sập, hai tay lật ngửa vòng khăn trắng quấn tóc mà lễ.
     Thường cháy dở tuần nhang (hương) thứ hai thì cúng cơm và cuối tuần nhang thì ông trưởng nam tạ lễ, hoá vàng rồi hạ cỗ cho con cháu xin lộc.
     Sơ qua phong tục cúng giỗ của người Hà Nội khoảng giữa thế kỷ XX như vậy để thấy ông cha ta rất cẩn trọng khi cúng giỗ. Giỗ là để họp mặt gia đình, để tưởng nhớ và noi gương tốt của những người thân trong gia đình đã mất, đó là việc hiếu, là một hoạt động tâm linh của người Việt nói chung, người Hà Nội nói riêng. Nó mang nặng tính truyền thống và là một phong tục đậm đà bản sắc dân tộc, cần được duy trì.
     Khoảng trên chục năm nay, khi đời sống nói chung khấm khá, việc cúng giỗ được nhiều gia đình, dòng họ khôi phục. Nhưng do không hiểu hết ý nghĩa đúng hoặc không có ai hướng dẫn, hoặc cố tình làm to, làm trong diện rộng để khoe khoang, để thu lời. Có người đi ăn giỗ để đền ơn người sống, để hối lộ, nên đặt lên bàn thờ không phải đồ lễ mà là phong bì... làm cho đám giỗ mất đi ý nghĩa cổ truyền của nó, gây một sự ganh đua giữa các gia đình, tạo điều kiện cho một số việc làm xấu, một số tệ nạn xã hội - thường là cờ bạc, đốt vàng mã - phát triển.