24/06/2014

NHỮNG CÁI VUI TRONG ĐẠO PHẬT

NHỮNG CÁI VUI 
TRONG ĐẠO PHẬT


 Trong nhà Phật, ngày mùng một Tết là ngày vía đức Di Lặc. Đức Di Lặc hiện là Bồ tát, nhưng tương lai sẽ thành Phật. Thế nên lễ Ngài chúng ta xưng “Đương lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật”. Chúng tôi gọi Ngài là Phật vì Ngài là Phật sẽ thành, còn gọi Ngài là Bồ tát vì Ngài là vị Bồ tát hiện tại. Đa số các chùa thuộc hệ Bắc tông đến ngày mùng một Tết đều cử lễ vía Ngài. Đó là một thông lệ nhưng mang nhiều ý nghĩa quan trọng. Người thế gian ai cũng quan trọng ngày đầu năm, cho ngày đầu năm là ngày chứa đựng đầy đủ ý nghĩa trong một năm. Vì vậy, mọi hành động, mọi ngôn ngữ, mọi ý nghĩ đều được dè dặt để giữ gìn một năm đầy tốt đẹp.
Đức Di Lặc là hình ảnh đẹp đẽ vui tươi mà ai cũng thích. Gương mặt Ngài lúc nào cũng nở nụ cười hoan hỷ gọi là nụ cười Di Lặc. Nụ cười Di Lặc không bị thời gian chi phối, lúc nào Ngài cũng cười; thuở bé cũng thấy Ngài cười, đến già cũng thấy Ngài cười, sắp tắt thở cũng thấy Ngài cười. Đó là nụ cười Di Lặc.
 Đón mừng Bồ Tát Di Lặc – một vị Phật sẽ thành – là hình thức bên ngoài của buổi lễ còn ý nghĩa bên trong là đón mừng những người con Phật mai kia sẽ thành Phật. Ngày vía đức Di Lặc là ngày vui của mọi người, cũng là ngày hứa hẹn chúng ta sẽ toàn giác thành Phật.
Người đời cho rằng đạo Phật chán đời, yếm thế, không có niềm vui. Nói như thế là chủ quan, chưa hiểu gì về đạo Phật. Thực tế đạo Phật tràn trề sức sống, tràn trề niềm vui, những niềm vui của đạo Phật phát xuất từ cạn tới sâu nơi tâm người qua năm giai đoạn tu tiến.

1.- Niềm vui xuất phát từ tâm Tùy hỉ. Tùy là theo, hỉ là vui mừng. Tùy hỉ là vui mừng theo. Khi thấy bạn hay người thân làm điều lành hay việc tốt chúng ta phát tâm vui theo, đó là tùy hỉ. Người làm lành vui bao nhiêu, chúng ta vui bấy nhiêu. Người phát được niềm vui đó công đức bằng công đức người làm việc lành. Thí dụ ông A đem mười đồng tới chùa cúng, chúng ta nghèo không có tiền cúng, thấy ông A cúng chùa ông vui sướng, chúng ta vui theo thì công đức của ông A cúng mười đồng với công đức tùy hỉ của chúng ta bằng nhau. Mới nghe qua thấy như bất công vô lý, chúng ta không cúng một xu nào tại sao công đức bàng ông A cúng mười đồng được  ? Nhưng Phật nói công đức hai người bằng nhau.
Có người hỏi:
-Bạch Thế Tôn, tại sao công đức tùy hỉ và công đức bố thí bằng nhau  ?
Phật trả lời bằng một thí dụ: cây đuốc thứ nhất đang cháy, có một người cầm cây đuốc thứ hai đến mồi. Khi mồi xong, cây đuốc thứ nhất cháy, cây đuốc thứ hai cũng cháy, ánh sáng hai cây đuốc đó không hơn kém nhau. Cây đuốc bị mồi, ánh sáng cũng không giảm bớt. Cũng vậy, người làm việc lành, chính họ đã có công đức; và người phát tâm tùy hỉ công đức cũng ngang bằng với người làm lành đó. Tu nhẹ nhàng quá, không đợi chúng ta có nhiều tiền mới làm được việc công đức; chỉ thấy ai làm lành chúng ta tùy hỉ tán thán là có công đức rồi.
Tại sao tùy hỉ có công đức lớn như vậy  ?
- Người có công có của đem ra giúp người là họ xả được tâm tham lam ích kỷ. Còn người phát tâm tùy hỉ thì xả được tâm tật đó, vì thông thường người thế gian thấy ai hơn mình là sanh tâm đó kỵ. Thí dụ hai huynh đệ đi chùa, ông A có mười đồng cúng chùa, mình không có thì buồn rồi nói móc nói ngoéo, chớ không có tâm tùy hỉ vui theo. Thấy người làm được, mình làm không được sanh đố kỵ là tật xấu. Bây giờ chúng ta phát tâm tùy hỉ là dẹp được tật đố xấu xa nơi mình rồi. Người bố thí xả được tâm tham lam ích kỷ, người tùy hỉ xả được tâm tật đố thì công đức hai người bằng nhau.
Ở thế gian chúng ta thường thấy, thậm chí anh em ruột trong nhà, em làm ăn thất bại nghèo thiếu thấy anh làm ăn phát đạt được giàu sang thì có mặc cảm đố kỵ với anh. Do đó, tình anh em phai nhạt xa cách. Tại vì sao  ? Vì cái tâm tật đó không muốn ai hơn mình, thấy người hơn mình là sanh tâm đố kỵ. Đó là cái bệnh chung của con người. Thế nên chúng ta học đạo phải tập phát tâm tùy hỉ. Không phải đợi mình làm việc công đức mới vui, mà thấy ai làm được việc tốt đẹp, sống hạnh phúc, chúng ta đều phát tâm vui mừng theo.
Một thí dụ nữa. Chúng ta nghèo ăn cơm hẩm với muối hột, bạn chúng ta giàu ăn gạo lúa thơm với thịt cá đầy bàn. Thấy như vậy chúng ta tùy hỉ nói: “Anh sung sướng quá, tôi mừng cho anh được đầy đủ sung túc”. Thấy chúng ta tùy hỉ người bạn giàu đó có ghét chúng ta không  ? Không ghét mà thương, có thể còn giúp đỡ chúng ta nữa. Nhưng ở đời người ta có chịu làm như vậy không  ? Hay mình ăn cơm hẩm với muối hột, bạn mình ăn cơm gạo lúa thơm với thịt cá đầy bàn, thì mình không vui, rồi kiếm chuyện nói xa nói gần, khiến cho tình bạn phai nhạt, dần dần xa cách  ? Mình đố kỵ người ta, người ta thương mình sao được! Từ đó mà sanh ra ngăn cách, bạn trở thành thù do đố kỵ mà ra. Từ hoàn cảnh ăn ở, cách xử sự, cho đến làm việc thiện v.v… tất cả chúng ta đều tập phát tâm tùy hỉ. Người làm được việc mà chúng ta không đủ khả năng làm, chúng ta nên vui mừng theo.
Một thí dụ khác. Hồi thuở bé đi học ở trường, khi thầy giáo kêu trả bài, hôm nào mình không thuộc bài bị điểm nhỏ, bạn mình thuộc bài được điểm lớn thì mình đố kỵ ghét bạn. Bạn siêng học, học giỏi được điểm lớn, mình lười biếng học dở thua bạn, tại sao mình lại ganh ghét đố kỵ  ? Hoặc cuối năm học, những bạn học giỏi được khen thưởng những món quà xứng đáng, còn mình học dở, khi thấy bạn lãnh quà, mình vui lây hay ganh ghét rồi kiếm chuyện để thách đố  ? Cái tâm đố kỵ có từ thuở bé, chớ không phải bây giờ mới có, chúng ta mang sẳn nó từ thơ ấu. Giờ đây biết tu, chúng ta phải bỏ tâm tật đố, vì nó tương đương với tham lam; tham lam có thì tật đố cũng có. Người biết làm phước họ xả được lòng tham, người biết tùy hỉ bỏ được tâm tật đố. Như vậy mỗi người bỏ được một tật cho nên đức Phật nói: “Công đức ngang nhau”. Về sau huynh đệ đi chùa, họ có tiền của cúng Phật, cúng Tăng, mình không có cũng vui theo, mừng cho bạn có tiền của cúng chùa, được như vậy thì cả hai đều được công đức như nhau. Đừng mặc cảm mình nghèo không có tiền của cúng chùa không cùng đi chung. Nghĩ như vậy là trái đạo lý. Học hiểu ứng dụng đúng với lời Phật dạy chúng ta mới thấy Phật pháp công bằng, không thiên người giàu, không bỏ người nghèo. Ai cũng có phước hết, chỉ cần có tâm lành là được.
Tóm lại trong gia đình, anh em ai được giàu sang, ai được khá giả, ai được hạn phúc, chúng ta đều vui mừng như chính chúng ta được. Ngoài xã hội, từ bạn bè cho đến người láng giềng, ai được phú quí, ai có danh vị, chúng ta vui mừng như chính chúng ta được. Trong đạo, huynh đệ ai có cái gì hay, cái gì tốt, chúng ta vui mừng như chính chúng ta được thì không còn khổ, lúc nào cũng có niềm vui, vui theo cái vui của người! Chúng ta không bị tật đố làm cho cách biệt, làm mất tình anh em ruột thịt trong nhà, làm mất tình bạn bè ngoài xã hội và làm mất tình bạn đạo  ở trong chùa. Được như vậy, đi đến đâu chúng ta cũng có niềm vui, dù tay không, không giúp ai được việc gì. Trái lại, chúng ta nghèo mặc áo rách, thấy người ta mặc áo lành thì đố kỵ xụ mặt xuống, như vậy làm gì có vui! Đi đâu cũng buồn vì thấy người hơn mình, buồn tràn trề. Ở đời làm sao mình bằng tất cả mọi người được! Bây giờ chúng ta biết tùy hỉ, thấy ai có cái gì hơn, chúng ta đều vui theo, mừng cho họ. Tâm niệm của người Phật tử phải là tâm niệm làm cho mọi người hết khổ. Phật là vị cứu khổ chúng sanh, chúng ta là Phật tử, tức con Phật, phải có quan niệm làm cho chúng sanh hết khổ; nếu chưa hết khổ, ít ra cũng bớt khổ. Thấy mọi người bớt khổ về cái ăn, cái mặc, hoặc bớt khổ về cái gì là chúng ta vui mừng. Nếu chúng ta đố kỵ thì không phải con Phật. Vì vậy, muốn được niềm vui đầu tiên, người Phật tử phải phát tâm tùy hỉ, ai có điều hay, cái tốt đều vui theo chớ không đố kỵ. Đó là cái vui thứ nhất của người mới vào đạo.

2. Cái vui thư hai sâu hơn, tế nhị hơn là Hỷ xả. Hỷ là mừng, xả là buông bỏ. Hỷ xả có hai mặt:
-Hỷ xả tài vật bên ngoài.
-Hỷ xả phiền não cố chấp trong lòng.
Nếu chúng ta có tài vật dư dả nên giúp cho những người bần cùng đói rách. Của cải do mồ hôi nước mắt mình tạo, mình cảm thấy đủ hay dư thì vui xả cho những người nghèo thiếu hay những người ít ỏi hơn. Đó là hỷ xả tài vật bên ngoài. Tuy vậy cũng hơi khó làm, vì có nhiều người, kẻ khác thấy họ dư mà bản thân họ lại thấy thiếu; có một đồng muốn hai đồng, có hai đồng muốn mười đòng, có mười đồng muốn ba mươi đồng, muốn cho đến ngày tắt thở mà vẫn thấy chưa đủ. Như vậy làm sao xả được  ? Cho nên muốn hỷ xả chúng ta phải học Phật; Phật dạy ít muốn, biết đủ. Chúng ta biết đủ thì mới xả được, không biết đủ thì không thì không thể nào xả được. Người không biết đủ giống như cái túi không đáy, bỏ vào bao nhiêu tuột hết bấy nhiêu, bỏ bao nhiêu cũng không đầy, do cái bệnh không biết đủ, như vậy làm sao mà xả  ?
Thí dụ: mỗi ngày chúng ta ăn ba chén cơm là đủ, dù có đồ ăn ngon, chúng ta cũng ăn ba chén, phần dư thì giúp cho người hoặc cho vật. Dù đấy là phần dư của mình, nhưng cũng là một lối xả. Chớ nên ăn ba chén vừa no, thấy đồ ăn ngon, ăn thêm nữa, như vậy là phí phạm, vì lượng thức ăn chừng đó là đủ, ăn thêm là dư. Đó là về cái ăn, còn bao nhiêu cái khác, chẳng hạn như cái mặc, chúng ta có ba bộ đồ đủ để mặc, thêm bộ thứ tư là đủ rồi; nhưng có thêm bộ thứ tư thấy chưa đủ, mua thêm bộ thứ năm cũng thấy chưa đủ nữa. Như vậy chừng bao nhiêu mới đủ để xả  ? Không biết đủ thì không bao giờ xả được, của dư đem giúp người không một chút luyến tiếc. Đó là tâm hỷ xả, vui vẻ giúp người chứ không bị bắt buộc.
Hỷ xả tài vật tuy nhỏ nhưng dễ hơn hỷ xả cố chấp phiền muộn ở tâm. Khi có người làm phiền mình, thì gương mặt buồn hoặc nhăn nhó. Muốn hết phiền phải tập xả; xả nầy là tha thứ, là bỏ qua. Phiền ở đây là phiền não và sân hận, hai thứ đó chất chứa trong lòng, mình phải buông xả nó đi. Người nào ôm lòng phiền hận thì đau khổ, đau khổ từ hiện tại cho đến mai kia, chớ không phải đau khổ trong hiện tại thôi. Vì vậy, khi biết mình đang ôm lòng phiền hận người nầy kẻ khác, thì phải vui vẻ bỏ, nghĩa là bao nhiêu cái phiền muộn chứa chấp trong lòng phải hỷ xả hết.
Muốn xả của cải chúng ta phải biết đủ. Bây giờ muốn bỏ phiền hận phải làm sao   ? Bỏ bằng cách nào ?
-Muốn bỏ phiền hận trong lòng, chúng ta phải thấy cuộc đời là vô thường, cái chết đang cận kề, ôm phiền não làm gì  ? Do nghĩ cái chết sắp đến nên chúng ta buông xả được phiền hận. Phiền hận chỉ làm khổ mình, khổ người, không lợi cho ai cả. Quán xét như vậy chúng ta buông hết, không buồn giận ai, lo tu cho tâm an ổn.
Tiến hơn nữa, chúng ta thấy cuộc đời như ảo mộng, ngày nay có mặt tại đây, ngày mai đã mất rồi. Sống trong tạm bợ mong manh; mình tạm bợ, người tạm bợ; tại sao không thương nhau, nâng đỡ nhau  ? Nếu chúng ta biết mình là người bị kêu án tử hình và những người chung quanh bị kêu án tử hình, thì đâu có buồn giận nhau. Trong cuộc sống hằng ngày khi lẫn lộn chung chạ nhau, có dẫm lên nhau, hay có làm phiền toái nhau cũng bỏ qua. Phải nghĩ đến cái chết, chúng ta mới thấy cuộc đời là tạm bợ, sống không có gì là tạm bợ, sống không có gì bảo đảm, vậy buồn giận nhau để làm gì  ? Hãy buông xả hết những gì còn chứa chấp trong lòng. Có ai ở đời mãi đâu mà giận với hờn!
Chúng ta đã học Phật nhiều năm, vậy có tập được hạnh buông xả chưa  ? Đi chùa cúng Phật có còn giận hờn bè bạn anh em không  ? Nếu ai còn phiền giận, thì ngay bây giờ hãy ước nguyện đức Phật chứng minh xả hết, cho lòng trống rỗng, không còn vướng bận việc gì. Dù có buồn giận ai từ mười năm hay hai ba mươi năm, ngày nay dứt khoát phải xả. Phiền giận là rắn độc, dại gì chúng ta chứa rắn độc trong nhà. Nếu chứa rắn độc trong nhà thì sớm muộn gì cũng bị nó cắn. Thế nên khi biết phiền não là rắn độc thì phải xả ngay, đuổi ra khỏi nhà, không dung chứa nó. Biết như vậy là tu đó. Phiền não thì không vui; hết phiền hận, tâm hồn rỗng rang trống trải thì rất vui vẻ. Muốn được vui vẻ, chúng ta phải tập hỷ xả những vật bên ngoài, hỷ xả những phiền hận trong lòng. Trong ngoài đều hỷ xả hết mới có cái vui chân thật.
Sở dĩ đức Phật Di Lặc cười hoài là vì Ngài hỷ xả, còn chúng ta buồn hoài là vì chúng ta cố chấp phiền hận. Cố chấp phiền hận là nguyên nhân của đau khổ, của bệnh tật, rất xấu xa đê hèn, dứt khoát phải xả bỏ. Mọi người ai cũng muốn mình là người vui tươi, ai cũng muốn mình là người sung sướng, nhưng tại sao lại chứa cái nhân đau khổ  ? Có phải tự mình mâu thuẫn với mình không  ? Khi nào giận ai, buồn ai là mình biết mình đang hại mình làm cho mình xấu xa, làm cho mình đau khổ, làm cho mình bệnh hoạn. Biết như vậy thì ngày mùng tám tháng giêng có cần đi cúng sao không cúng sao là cầu năm nay mình khỏi tai nạn, được vui sướng. Bây giờ xả hết, không buồn ai, không giận ai thì năm nay an ổn vui sướng rồi, dù có gặp sao La Hầu, Kế Đô cũng an vui như ngày Xuân, nên không cần cúng sao! Mình không giận ai thì ai thù mình  ? Đó là cái nhân làm cho an ổn thực tế. Còn cúng sao là cái cầu mong huyễn hoặc trên trời, không phải việc làm thiết thực cụ thể.
Hỷ xả là cái đức rất cần thiết và quí báu cho cuộc sống hiện tại của chúng ta. Muốn được vui, muốn được tươi đẹp, sống lâu chúng ta phải tu hạnh hỷ xả. Người không chịu hỷ xả là người sẽ chết yểu, bệnh hoạn, xấu xa. Vậy ngày đầu năm quí vị hãy tu hạnh hỷ xả cho trọn năm được vui như đức Phật Di Lặc. Đó là cái vui thứ hai.

3. Cái vui thứ ba là “Pháp hỷ”: Pháp là chánh pháp, hỷ là vui. Pháp hỷ là vui với chánh pháp. Khi nghe kinh học đạo, thấy lời Phật dạy là chân lý rất thực tế không xa vời huyễn hoặc có thể thực hành được, chúng ta thích thú cảm thấy nhẹ nhàng sung sướng, đó là pháp hỷ hay pháp lạc. Tại sao vui  ? Vì nghe kinh học đạo, chúng ta thấy được lẽ thật, lòng nhẹ nhàng vui sướng. Người nào nghe kinh học đạo, thấy lòng vui nhẹ sung sướng, đó là người được pháp lạc. Còn người nào nghe kinh học đạo mà gục lên gục xuống, nghiêng qua ngã lại, người đó không được pháp lạc. Nếu không có cái vui khi nghe kinh học đạo, dù có đi chùa cũng khó tinh tấn, vì có thích đâu mà tinh tấn. Việc gì chúng ta thích thú mới cố gắng làm, nếu không thích thú thì làm miễn cưỡng chứ không cố gắng. Người học đạo phải nên nghiền ngẫm mới thấy lời Phật dạy là chân lý. Thấy được chân lý chúng ta mới vui sướng. Cái vui sướng đó là pháp hỷ hay pháp lạc, là cái vui chân thật. Có được cái vui chân thật mới tinh tấn thích tu hành. Nếu không được pháp hỷ, có tu chăng, cũng chỉ cầu mong được tài lợi danh vị… chớ không phải vui thích mà tu. Người học đạo chân chính vui với đạo mà tu, chớ không phải cầu mong cái gì khác. Như vậy khi nghe kinh hoặc đọc sách Phật phải nghiền ngẫm tư duy. Tư duy đúng đắn, tột cùng thấy được lẽ thật thì vui thích; cái vui thích đó tạo thành sức mạnh khiến chúng ta tinh tấn trên con đường tu.
Người đời có những lúc vui mừng quá người ta khóc. Chẳng hạn thân nhân đi đâu xa khoảng hai mươi năm, ba mươi năm không gặp, khi gặp lại mừng quá rơi nước mắt. Trong đạo cũng thế, khi đọc kinh Phật có niềm vui cũng cảm động rơi nước mắt. Đó là trường hợp của ngài Khuê Phong, Ngài được người bạn tặng một quyển kinh Viên Giác, đọc qua Ngài vui sướng, cảm động rơi nước mắt. Đó là cái vui sướng tột cùng khiến nước mắt rơi. Người học đạo mà vui như thế thì không bao giờ thối chuyển. Khi nào đọc kinh mà thấy Phật nói hay quá cảm động sung sướng rơi nước mắt, đó là có duyên lành khá sâu với Phật pháp. Người được cái vui đó là người ít bị khó khăn hay chướng ngại làm lui  sụt. Còn khi đọc kinh thấy buồn ngủ, tụng kinh ngáp dài thì không tìm được cái vui trong đạo. Không vui thì sự tu khó tiến bộ. Đó là cái vui của pháp hỷ hay pháp lạc.

4.-Cái vui sâu hơn nữa là “Thiền duyệt”: thiền là thiền định, duyệt là vui, thiền duyệt là vui trong thiền định. Trong nhà thiền có tả trong lúc tọa thiền, khi thân tâm an ổn, hơi thở nhẹ nhàng, lúc đó cảm thấy khinh an thư thới khác hơn bình thường. Cái vui nầy lâng lâng nhè nhẹ chứ không phải cái vui hớn hở rộn ràng. Chỉ khi nào chúng ta lắng sâu trong thiền định, thân an, hơi thở đều hòa, tâm định, thì cái vui nhè nhẹ xuất hiện, cái vui nầy nhà Phật gọi là “Thiền duyệt”.
Người mới tập ngồi thiền thì thấy đau chân, thân mỏi nhọc, mồ hôi chảy chẳng vui chút nào cả, thấy ngồi thiền khổ như một hình phạt. Nhưng tới lúc quen thì nhẹ nhàng an ổn. Tới giờ ngồi thiền không ngồi thấy như thiếu cái gì, giồng như đến giờ ăn mà không ăn, cảm thấy khó chịu. Tu thiền cũng phải như vậy. Đến giờ ngồi thiền mà không ngồi được, chúng ta cảm thấy thiếu thốn cái gì, phải đi ngồi thiền mới thấy an ổn, giống như đói cần ăn, phải ăn mới no. Do đó mà nói “Thiền duyệt vi thực”. Người tu ít ai lấy cái vui trong thiền định làm thức ăn, vì phải khó nhọc tu tập lâu dài, công phu đắc lực mới có trạng thái an vui đó, chớ không phải ngồi năm tháng, ba tháng mà được. Buổi đầu ngồi thiền khổ sở lắm, qua giai đoạn nhọc nhằn khổ sở, sau đó mới được an vui. Cái vui nầy là thiền duyệt. Bao giờ chúng ta thấy cái vui thiền định không thể thiếu như bửa cơm không thể thiếu thì đói, mới được gọi là “Thiền duyệt vi thực”. Đó là cái vui thứ tư.

5.-Đến cái vui thứ năm khó hơn là: “Tịch lạc”: Cái vui nầy ít được nghe nói. Nó phát xuất từ tâm tịch tịnh được diễn đạt qua bốn câu kệ trong kinh Đại Niết Bàn:
Chư hành vô thường
Thị sanh diệt pháp
Sanh diệt diệt dĩ 
Tịch diệt vi lạc.
Tịch lạc được ghép chữ đầu và cuối của câu kệ chót là vui, đó là cái vui cứu cánh của người tu. Hai cái vui đầu gần gủi với người học đạo, thế mà đa số người học Phật chưa thực hiện được, phải thực hiện từ cái vui thứ nhất, đến cái vui thứ hai, có được hai cái vui đó rồi mới đến cái vui thứ ba, thứ tư, cuối cùng tới cái vui thứ năm là tịch lạc. Tịch là lặng lẽ, lạc là vui; tịch lạc là tâm lặng lẽ an vui. Cái vui nầy như thế nào  ?
Chư hành vô thường, thị sanh diệt pháp. Hành ở đây là hoạt động, tức là thân-miệng-ý hoạt động. Thân miệng ý hoạt động thì thành nghiệp, hoặc nghiệp thiện hoặc nghiệp ác. Nghiệp phát xuất từ ý nghĩ, miệng nói, thân làm; song ý nghĩ rồi mất, miệng nói rồi mất, thân hành động rồi mất. Thân-miệng-ý là chỗ tạo nghiệp sanh diệt vô thường nên nói “Thị sanh diệt pháp”, tức là pháp sanh diệt không bền chắc. Như vậy tất cả hành động tạo tác trên thế gian đều vô thường nên đau khổ. Khi nào “Sanh diệt diệt dĩ” thì “Tịch diệt vi lạc”. Cái vui nầy quá sâu kín cũng gọi là cái vui Niết Bàn.. sau khi cái sanh diệt nó diệt hết rồi mới tới chỗ tịch diệt. Sanh diệt ở đây là sanh diệt của nghiệp ý, nghiệp khẩu và nghiệp thân; nhưng chủ yếu là ý, vì ý chủ động cho nên nghiệp ý lặng rồi dù có nói có làm cũng là tịch diệt. Như vậy sau khi vọng tưởng tịch diệt hết rồi không còn dấy động nữa thì tâm tịch diệt. Tâm tịch diệt là chỗ an ổn chân thật bất sanh bất diệt. Tâm bất sanh bất diệt đó là Niết Bàn. Đó là cái cứu cánh chân thật ít người hưởng được.
Chúng ta học và tu theo Phật có cái vui cạn và cái vui sâu. Thứ nhất là cái vui do tùy hỷ thật dễ làm không tốn công, chỉ xả tâm tật đố của mình là được. Thứ hai là cái vui tốn công tốn của xả bỏ tài vật của mình và xả bỏ những cái chứa chấp trong quan niệm mình. Hai cái đó xả được là có cái vui hỷ xả. Thứ ba là cái vui pháp hỷ hay pháp lạc. Cái vui nầy phải có công phu nghiền ngẫm, nghiên cứu Phật pháp chúng ta mới được niềm an vui trong đạo lý. Thứ tư là thiền duyệt, thiền duyệt thì phải có công phu nhiều tháng nhiều năm tu hành mới có cái vui thiền duyệt rồi cuối cùng mới có cái vui tịch lạc; tức là cái tâm lặng lẽ, rỗng rang không còn một niệm dấy động, thấy tất cả sự vật cái gì cũng nên thơ, đẹp đẽ. Không còn phân biệt đây là xấu, kia là tốt, đây là hay kia là dở, chỉ một niệm chân thật. Cho nên trong nhà thiền gọi là “Xúc mục tức Bồ đề”; tức là nhìn cái gì cũng là Bồ đề, là giác ngộ; thấy người vật đều vui, đều đẹp. Tất cả là mùa Xuân không có cái gì buồn xấu. Như vậy nếu tới được chỗ vui đó thì chúng ta được hưởng mùa xuân vĩnh cửu không bao giờ mất.
Thiền sư Phật Nhãn hiệu Thanh Viễn đời Tống ở Trung Hoa có một bài thơ nói về Xuân như sau:

Xuân nhựt Xuân sơn lý
Xuân sự tân giai Xuân
Xuân quang chiếu xuân thủy
Xuân khí kết Xuân vân
Xuân khách Xuân tình động
Xuân thi Xuân cánh tân
Duy hữu thức Xuân nhơn
Vạn kiếp nguyên nhât Xuân.

Tạm dịch:

Ngày Xuân Xuân trong núi
Việc Xuân thảy đều Xuân
Hồ Xuân ánh Xuân chiếu
Khí Xuân kết mây Xuân
Khách Xuân lòng Xuân động
Thi Xuân Xuân càng tươi
Chỉ có người biết Xuân
Muôn kiếp một mùa Xuân.

Tại sao toàn bài thơ câu nào cũng là Xuân hết vậy ?
Ngày Xuân Xuân trong núi: Ngày Xuân trong núi giống hệt như Xuân hôm nay. Tức là ngày vui, vui ở trong núi.
Việc Xuân thảy đều Xuân: Nếu lòng mình nhẹ nhàng thênh thang, không buồn giận, hờn phiền, không dấy niệm phân chia thì cái gì cũng là Xuân, thấy ai cũng đẹp đẽ dễ thương. Sở dĩ chúng ta không vui được là vì thấy cái nầy xấu, cái kia tốt; thấy người nầy dễ thương, người kia dễ ghét… Thấy người dễ ghét thì hết Xuân, mặt xụ xuống làm sao vui được. Còn thấy ai cũng dễ thương thì gặp ai mình cũng nở nụ cười, không phải Xuân là gì  ? Trên mặt mình lúc nào cũng là mùa Xuân. Cho nên thấy cái gì cũng là mùa Xuân. Tất cả đều là mùa Xuân.
Hồ Xuân ánh Xuân chiếu: Hồ nước mùa Xuân ánh nắng mặt trời soi sáng đưới mặt hồ cũng Xuân, cái gì cũng đẹp hết.
Khí Xuân kết mây Xuân:  Mây loáng thoáng lưa thưa ở chung quanh núi, mái nhà, vườn cây là những mây nhạt gọi là Xuân khí. Xuân khí đó kết thành những cụm mây, những cụm mây đó cũng là mây Xuân. Như vậy nhìn người, nhìn mây, nhìn nước, nhìn vật cũng là Xuân. Tại sao vậy  ? Tại vì trong lòng vui tươi như như mùa Xuân nên thấy người, cảnh đều Xuân. Nếu trong lòng buồn bã như đêm ba mươi thì thấy cái gì cũng buồn bã tối đen. Sở dĩ thấy cảnh vật ở ngoài đẹp là do trong lòng mình đẹp.
Khách Xuân lòng Xuân động: Như người khách trong mùa Xuân, thấy cảnh đều vui theo, tức lòng động theo mùa Xuân.
Thi Xuân Xuân càng tươi: Mùa Xuân đã tươi rồi thi nhân còn tô điểm làm cho nó tươi đẹp thêm.
Chỉ có người biết xuân, muôn kiếp một mùa Xuân: cảnh Xuân, khách Xuân, tình Xuân v.v… là cái bên ngoài. Chỉ có người biết được Xuân, mới vui Xuân muôn kiếp. Mùa Xuân đó là mùa Xuân Di Lặc, cười hoài muôn kiếp, không bao giờ có vẻ mày sầu, mặt héo. Đó là mùa Xuân tươi đẹp, đầy cả bầu trời, tràn trề cả nhân thế.
Quí vị có muốn hưởng mùa xuân nầy không  ? Nếu muốn thì phải tu từ cạn tới sâu. Cạn nhất là từ bỏ tật đố để phát tâm tùy hỷ theo tất cả việc tốt, việc lành của mọi người. Kế đó là xả từ vật chất của cải đến những bực bội cố chấp trong lòng được cái vui hỷ xả. Rồi tới học hiểu giáo lý một cách đúng đắn, có niềm vui chân thật là Pháp lạc. Kế nữa là tu hành tiến tới an ổn được cái vui thiền định. Cuối cùng là dứt sạch mọi vọng niệm được an vui tự tại, chỉ một tâm thênh thang trong suốt, thì nhìn đời bằng một mùa Xuân không đổi thay, bất diệt. Xuân như thế mới là Xuân Di Lặc, mới là Xuân muôn đời muôn kiếp. Nếu mùa Xuân chỉ có ba tháng hoặc chỉ có ba ngày Tết thì Xuân đó quá hữu hạn; ngày nay gượng cười, ngày mai gặp nhau quạo quọ, tức tối thì không có Xuân. Phải cởi bỏ những chướng ngại trong lòng thì mùa Xuân muôn kiếp mới xuất hiện.
Mong rằng mùa Xuân muôn kiếp sẽ đến với quí vị.

***


Hòa thượng. THÍCH THANH TỪ

Lời mẹ dặn

Lời mẹ dặn

Phùng Quán


Tôi mồ côi cha năm hai tuổi
Mẹ tôi thương con không lấy chồng
Trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải
Nuôi tôi đến ngày lớn khôn.


Hai mươi năm qua tôi vẫn nhớ
Ngày ấy tôi mới lên năm
Có lần tôi nói dối mẹ
Hôm sau tưởng phải ăn đòn.
Nhưng không, mẹ tôi chỉ buồn
Ôm tôi hôn lên mái tóc
- Con ơi
trước khi nhắm mắt
Cha con dặn con suốt đời
Phải làm một người chân thật.
- Mẹ ơi, chân thật là gì?
Mẹ tôi hôn lên đôi mắt
Con ơi một người chân thật
Thấy vui muốn cười cứ cười
Thấy buồn muốn khóc là khóc.
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét.
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêu.


Từ đấy người lớn hỏi tôi:
- Bé ơi, Bé yêu ai nhất?
Nhớ lời mẹ tôi trả lời:
- Bé yêu những người chân thật.
Người lớn nhìn tôi không tin
Cho tôi là con vẹt nhỏ
Nhưng không! những lời dặn đó
In vào trí óc của tôi
Như trang giấy trắng tuyệt vời.
In lên vết son đỏ chói.


Năm nay tôi hai mươi lăm tuổi
Đứa bé mồ côi thành nhà văn
Nhưng lời mẹ dặn thuở lên năm
Vẫn nguyên vẹn màu son chói đỏ.
Người làm xiếc đi giây rất khó
Nhưng chưa khó bằng làm nhà văn
Đi trọn đời trên con đường chân thật.
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêụ.


Tôi muốn làm nhà văn chân thật
chân thật trọn đời
Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi
Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã
Bút giấy tôi ai cướp giật đi
Tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá. 



1957

20/06/2014

Một số thực phẩm tăng trí thông minh
có lợi cho sức khỏe


     Cà tím, cà chua, lạc, cá hồi, trứng... là những thực phẩm giàu dinh dưỡng và tốt cho trí não.

1. Các loại rau xanh


     Một nghiên cứu gần đây đã phát hiện những người ăn rau xanh gấp ba lần khẩu phần ăn bình thường một ngày có cấu trúc não tương đương với những người trẻ hơn họ năm tuổi. Salad và các loại bánh kẹp là lựa chọn đơn giản để tăng lượng rau xanh mà không gây nhàm chán.

2. Lạc


     Các loại hạt như lạc, ngô, kê... đều có lợi cho não: Lạc chứa hàm lượng lecithin và cephalin phong phú. Thực nghiệm đã chứng minh, ăn lạc thường xuyên có thể cải thiện quá trình tuần hoàn máu, tăng cường trí nhớ, và đẩy lùi quá trình lão hóa. Ăn ngô thường xuyên, nhất là ngô non sẽ có tác dụng kiện não.

3. Trứng


     Trứng chứa một lượng lớn choline giúp tăng cường trí nhớ, các loại protein giúp cơ bắp chắc khỏe và lutein - một chất chống oxy hóa tự nhiên - giúp cho đôi mắt bạn khỏe mạnh, đặc biệt là khi bạn làm việc rất nhiều với màn hình máy tính.

4. Cà tím

Ăn cà tím sẽ giữ cho bộ não của bạn tinh nhanh bằng cách tăng cường thông tin liên lạc giữa các tế bào não với các phân tử đưa tin.

9 thực phẩm càng ăn càng thông minh 2
5. Cá hồi

     
     Các loại chất béo omega có trong cá hồi đã được chứng minh là có khả năng giúp tăng cường sự phát triển của não, cải thiện cấu trúc và làm giảm sự viêm nhiễm ở não.

6. Nho

     Chất đường đặt biệt trong quả nho có khả năng cung cấp nguồn năng lượng hoạt động cho não bộ một cách nhanh chóng.

7. Cà chua


     Có nhiều nghiên cứu khoa học cho rằng lycopene, một chất chống oxy hóa mạnh có trong cà chua có thể giúp chống lại sự phá hủy các tế thường xảy ra trong quá trình phát triển của bệnh mất trí nhớ, đặc biệt là bệnh Alzheimer.

8. Lê

     Được đánh giá là có tác dụng tốt cho não như chuối và táo. Nguyên do là trong quả lê chứa các chất đặc biệt là acid silicic và acis phosphoric. Ngoài ra, lê cũng có hàm lượng hydrooxyd rất cao.

9. Súp lơ   

     Súp lơ chứa vitamin C và E giúp tăng cường hệ miễn dịch. Ăn nhiều các loại rau họ cải có thể làm chậm quá trình suy giảm hệ thần kinh. Ngoài ra, súp lơ cũng là một nguồn vitamin K được biết đến với khả năng tăng cường chức năng nhận thức và nâng cao trí tuệ.

10. Sữa và các loại thực phẩm chế biến từ sữa


     Sữa là nguồn thực phẩm ưu tiền hàng đầu trong các thực phẩm phòng chống loãng xương, giúp xương chắc khỏe vì trong sữa có nhiều canxi, thành phần cấu thành nên xương. Nếu không uống sữa tươi có thể thay thế bằng sữa chua, phô mai, sữa bò. Trong một hộp sữa chua có hàm lượng canxi tương đương với một cốc sữa 250ml. Một miếng pho mát 30g cũng chứa lượng canxi tương ứng. Còn 1 ly sữa bò chứa khoảng 270mg canxi. Nếu lo ngại về lượng đường trong sữa và các chế phẩm từ sữa, bạn hãy chọn các sản phẩm ít đường hoặc không đường.

11. Nấm hương


     Nấm hương được mệnh danh là vua của các loại nấm có tác dụng chống viêm, chữa cơ thể suy nhược, chứng chân tay tê bại. Nấm hương bổ sung đáng kể lượng vitamin D2, phòng bệnh còi xương, trị chứng thiếu máu. Nấm hương dễ kết hợp trong các món ăn hàng ngày, kết hợp với mộc nhĩ, súp lơ xanh, cà rốt, ớt đỏ, để tạo thành món nấm hương xào thập cẩm, không chỉ ngon mà còn có khả năng phòng bệnh thoái hóa khớp. Cà rốt và ớt rất giàu vitamin A và E, hai nhân tố cần thiết để bảo vệ bao khớp và đầu xương. Súp lơ xanh là thực phẩm giàu vitamin K và C, giúp cho xương khớp chắc khỏe.

Bài và ảnh do TuanLong sưu tầm và trình bày

18/06/2014

Bát-nhã-ba-la-mật-đa tâm kinh 
Trích từ http://vi.wikipedia.org/wiki/batnhatamkinh

(phiên latinh từ Phạn ngữ: Prajñā Pāramitā Hridaya Sūtra, Prajnaparamitahridaya Sutra; Anh ngữ: Heart of Perfect Wisdom Sutra, tiếng Hoa: 般若波羅蜜多心經; âm Hán Việt: Bát nhã ba la mật đa tâm kinh) còn được gọi là Bát-nhã tâm kinh, hay Tâm Kinh. Đây là kinh ngắn nhất chỉ có khoảng 260 chữ của Phật giáo Đại thừa và Thiền tông. Nó cũng là kinh tinh yếu của bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 cuốn.
Kinh này được hầu hết các Phật tử tại Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản, Tây Tạng, và Trung Quốc biết đến và rất thường dùng trong việc đọc tụng.

Người viết bài xin kính lưu ý các cư sỹ - phật tử: Qua kinh nghiệm bản thân, đã đọc - nghe các văn bản của kinh Bát Nhã thì thấy có nhiều khác biệt tùy vào vùng miền, am - tự mà có sự thêm bớt, hoặc từ ngữ, câu kệ có thay đổi. Xin quý vị chớ hoang mang, mà nên yên tâm vào Duyên - Tâm của mình để hướng đến Bát Nhã - Trí Huệ (trí tuệ). Nếu có được kiến thức về chữ Phạn và có Duyên tiếp xúc được với các bản kinh cổ thì rất mong có phần góp ý sửa chung cho được tròn đầy viên mãn hơn. 
   Hoan hỷ thay.
TuanLong trân trọng.

Lịch sử

   Tình trạng xuất hiện của kinh này không được các tác giả thống nhất. Thời điểm ra đời của nó có thể là từ năm 100 TCN đến thế kỷ thứ 2 và một số tác giả cho rằng bài kinh này do bồ tát Long Thọ (Nàgàrjuna) viết.
   Bản kinh phổ biến nhất ở Việt Nam là bản của sư Trần Huyền Trang (Tam Tạng) sau khi thỉnh kinh về đã dịch lại vào năm 649. Trước đó đã có nhiều sư dịch từ tiếng Phạn ra Hán ngữ trong đó có Cưu Ma La Thập (402-412), Nghĩa HuyềnPháp Nguyệt, Bát Nhã và Lợi NgônTrí Tuệ Luận,Pháp Thành, và Thi Hộ.
   Kinh cũng đã được sự chú giải của rất nhiều sư từ nhiều quốc gia. Riêng ở Việt Nam, người chú giải kinh này đầu tiên là thiền sư Đạo Tuân Minh Chánh ở chùa Bích Động (tỉnh Ninh Bình) thời vua Minh Mạng.

Dị bản

Về đại cương thì các bản văn đều khá rõ và giống nhau nhưng về chi tiết ngay các bản chữ Phạn để lại cũng có chi tiết khác nhau. Dĩ nhiên là trong các bản dịch đều có những chi tiết khác nhau nhỏ (tiếng Hán, tiếng Pháp và tiếng Việt).
Trong thập niên cuối của thế kỷ 19 thì bản kinh mới được Samuel Beal dịch ra Anh ngữ.
Edward Conze, một nhà nghiên cứu Phật học Anh (1904-1979) với nhiều công nghiên cứu đã không thể tìm thấy được bài văn nguyên thủy của kinh này, mặc dù đã có nhiều bằng chứng cho thấy có một nguyên bản ban đầu của kinh này.
Toàn bộ bộ kinh lớn Đại Bát Nhã cũng đã bị quân Hồi giáo tiêu hủy khi họ đánh chiếm Đại học Phật giáo Nalanda. (Xem thêm Lịch sử Phật giáo.)
Khi so lại bản dịch phổ biến hiện nay hầu hết dịch lại từ bản Hán ngữ của sư Trần Huyền Trang với một phiên bản khác còn lưu lại được trong Tạng ngữ thì bộ kinh này thiếu vắng phần khai kinh và phần kết luận hoan hỉ vâng làm theo của chư vị nghe giảng kinh. Trong bản dịch từ Tạng ngữ, phần này vẫn còn đầy đủ

Nội dung

Bản dịch tiếng Việt

Bản dịch đầy đủ

Như vầy một lần tôi nghe:
Thế Tôn ở thành Vương Xá trên đỉnh Linh Thứu sơn cùng với đại Tăng đoàn và nhiều chư Bồ-tát, vào thời điểm đó, Thế Tôn đã đang nhập chánh định về các Pháp giới phân biệt gọi là Cảnh giới trình hiện thậm thâm. Cũng chính tại thời điểm đó, Thánh giả Quán Tự Tại Bồ-tát, một đại thiện tri thức, thực hành thâm diệu Trí huệ Bát-nhã-ba-la-mật-đa, ngài thấy được ngay cả năm uẩn cũng đều thiếu vắng tự tính. Sau đó, thông qua năng lực gia trì của đức Phật, tôn giả Xá-lợi-phất thông bạch với thánh giả Bồ-tát Quán Tự Tại rằng: "Thiện nam tử nên phát tâm rèn luyện thực hành thâm sâu pháp Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế nào?".
Khi điều này được hỏi, Thánh giả Quán Tự Tại Bồ-tát đáp lời tôn giả Xá-lợi-phất rằng: "Này Xá-lợi-phất! Các thiện Nam tử, thiện nữ nhân phát tâm thực hành pháp Bát-nhã Ba-la-mật-đa thâm diệu nên thấy như sau. Họ nên soi thấy đúng đắn, xuyên suốt và tái lặp là đến cả năm uẩn cũng đều thiếu vắng về tự tính. Sắc tức là không, không tức là sắc. Không [hoạt hành] chẳng khác chi sắc, sắc [hoạt hành] cũng chẳng khác chi Không. Tương tự, thọ, tưởng, hành thức thảy đều là Không.
Xá-lợi-phất, bởi thế, mọi hiện tượng đều là Không – thiếu vắng các đặc tính xác định; chúng không sinh, không diệt, không dơ, không sạch, không tăng, không giảm.
Cho nên, Xá-lợi-phất, trong Không, không có sắc, không thọ, không tưởng, không hành, không thức; không có nhãn, không nhĩ, không tỷ, không thiệt, không thân, không ý; không sắc, không thanh, không hương, không vị, không xúc, không pháp. Không có nhãn giới và vân vân cho đến không có ý thức giới. Không có vô minh cũng không có diệt hết vô minh, và vân vân cho đến không có già, chết cũng không có diệt hết già chết. Không có khổ, tập, diệt đạo. Không có trí huệ, không có chứng đắc, cũng không có không chứng đắc.
Xá-lợi-phất, vì không có chứng đắc nên do đó Bồ-tát an trụ theo Trí huệ Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì tâm không uế chướng nên không sợ hãi, vượt khỏi sai lầm, đạt cứu cánhniết-bàn.
Tất cả chư Phật, an trụ trong tam thế tỉnh thức viên mãn và thấu suốt, cũng y theo Trí huệ Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà được vô thượng, chánh đẳng, chánh giác.
Do vậy, phải biết được rằng chú Trí huệ Bát-nhã-ba-la-mật-đa – vốn là đại tri chú, là đại minh chú, là vô thượng chú, là ngang bằng với vô đẳng chú, diệt trừ được mọi khổ não – là chân thật vì nó không sai sót. Chú Trí huệ Bát-nhã-ba-la-mật-đa được tuyên thuyết như sau:
tadyatha - gate gate paragate parasamgate bodhi svaha!
(Vượt qua, vượt qua, vượt qua bên kia, hoàn toàn vượt qua, tìm thấy giác ngộ)
Này Xá-lợi-phất, bằng cách này, các vị đại Bồ-tát nên hành trì trong Trí huệ Bát-nhã-ba-la-mật-đa thâm diệu."
Sau đó, Thế Tôn xuất khỏi chánh định và tán dương Thánh giả Quán Tự Tại Bồ-tát rằng: "Lành Thay!"
Ngài nói: "Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử, Đúng là vậy. Phải nên hành trì Trí huệ Bát-nhã-ba-la-mật-đa thâm diệu như cách ông nói. Ngay cả các Như Lai cũng đều hoan hỷ!"
Thế tôn nói xong, tôn giả Xá-lợi-phất, Quán Tự Tại Bồ-tát, toàn thể đoàn tùy tùng chung quanh, và giới chúng sinh bao gồm trời, người, a-tu-la, và càn-thát-bà đều hoan hỷ và tán thán điều Thế Tôn dạy.

Bản dịch phổ thơ lục bát

Khi hành Bát Nhã Ba La
Ngài Quán Tự Tại soi ra tột cùng
Thấy ra năm uẩn đều Không
Bao nhiêu khổ ách khốn cùng độ qua
Nầy Xá Lợi Tử xét ra
Không là sắc đó, sắc là không đây
Sắc cùng không chẳng khác sai
Không cùng sắc vẫn sánh tài như nhau
Thọ, tưởng, hành, thức uẩn nào,
Cũng như sắc uẩn, một màu không không
Nầy Xá Lợi Tử ghi lòng
Không không tướng ấy, đều không tướng hình
Không tăng giảm, không trược thanh
Cũng không diệt, cũng không sanh pháp đồng
Vậy nên trong cái chơn không
Vốn không năm uẩn, cũng không sáu trần
Mắt, tai, mũi, lưỡi, ý, thân
Vị, hương, xúc, pháp, cùng phần sắc, thinh
Từ không giới hạn mắt nhìn
Đến không ý thức, vô minh cũng đồng
Hết vô minh, cũng vẫn không
Hết già, hết chết, cũng không có gì
Không khổ, tập, diệt, đạo kia
Trí huệ chứng đắc cũng là không không
Sở thành, sở đắc bởi không
Các vì Bồ Tát nương tùng huệ năng
Tâm không còn chút ngại ngăn
Nên không còn chút băn khoăn sợ gì
Đảo điên mộng tưởng xa lìa
Niết Bàn mới đến bên kia bến bờ
Ba đời chư Phật sau, xưa
Đắc thành Chánh Giác cũng nhờ huệ năng
Trí huệ năng lực vô ngần
Đại Minh vô thượng, Đại Thần cao siêu
Trí huệ năng lực có nhiều
Thật là thần chú trừ tiêu não phiền
Trí huệ năng lực vô biên
Dẫn đường giải thoát qua bên giác ngàn
Liền theo lời chú thuyết rằng:
Độ tha giác ngộ khắp trần chúng sanh.
Yết đế, yết đế
Ba la yết đế
Ba la tăng yết đế
Bồ đề Tát bà ha

Bản dịch giản lược

MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH
Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhã ba la mật đa thời, liền soi thấy năm uẩn đều không, độ tất cả khổ ách.
Này Xá Lợi tử, sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như thế. Này Xá Lợi tử, tướng Không của mọi pháp không sinh không diệt, không nhơ không sạch, không tăng không giảm.
Cho nên trong Không không có sắc; không có thọ, tưởng, hành, thức; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không có nhãn giới cho đến ý thức giới; không có vô minh, cũng không có cái hết vô minh, cho đến không già chết, cũng không có cái hết già chết. Không có khổ, tập, diệt, đạo; không có trí tuệ, cũng không có chứng đắc, vì vốn không có chỗ chứng đắc.
Bồ tát y theo Bát nhã ba la mật đa nên tâm không ngăn ngại. Vì tâm không ngăn ngại nên không sợ hãi, xa lìa mộng tưởng điên đảo, đạt tới cứu cánh niết bàn. Chư Phật ba đời đều y theo Bát nhã ba la mật đa được đạo quả Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Bát nhã ba la mật đa là chú đại thần, là chú đại minh, là chú vô thượng, là chú vô đẳng đẳng, nên diệt trừ tất cả khổ, chân thật không hư. Liền nói bài chú ấy rằng: “Gate gate pāragate pārasaṃgate bodhi svāhā” (3 lần)

Bản dịch Việt ngữ của Thi Vũ

KINH RUỘT TUỆ GIÁC SIÊU VIỆT
Khi tiến sâu vào nguồn mạch của Tuệ giác Siêu việt, Kẻ Tỉnh thức Quán khổ Trừ nguy nhận chân ra năm hợp thể và thấy suốt tự tánh Không của chúng, liền độ thoát mọi khổ ách.
“Này người con dòng Sari, hình thể là chân không, chân không là hình thể. Chân không chẳng khác hình thể, hình thể chẳng khác chân không. Mọi hình thể đều chân không, mọi chân không đều hình thể. Cảm xúc, nhận thức, tạo ứng hay ý thức đều như thế cả.
Này người con dòng Sari, mọi hiển tướng đều mang tự tánh Không. Mọi hiển tướng đều không sinh không diệt, không dơ không sạch, không hề thêm cũng chẳng hề bớt.
Bởi lẽ đó, này người con dòng Sari, trong chân không không có hình thể, không có cảm xúc, không có nhận thức, không có tạo ứng, không có ý thức; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có hình, tiếng, mùi, vị, sờ chạm, hiển tướng; không có đối tượng của mắt, suốt đến đối tượng của ý thức cũng không; không có vô minh, không có chấm dứt vô minh, cho đến không có già, chết, cũng không có hết già, chết; không có khổ, không có nguyên nhân của khổ, không có giải thoát, không có con đường giải thoát; không có trí giác, không có tựu thành, vì chẳng có quả vị gì để thành tựu.
Bởi thế, này người con dòng Sari, nhờ an nhiên bất động với mọi thành quả cá nhân, Kẻ Tỉnh thức nương vào Tuệ giác Siêu việt thoát ly các niệm tưởng. Nhờ ly niệm nên không còn sợ hãi, thắng lướt mọi ảo vọng, và hóa hiện tính an như. Các đấng giác ngộ trong quá khứ, hiện tại và vị lai đều nương theo Tuệ giác Siêu việt mà phát hiện Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Cho nên, phải biết rằng Tuệ giác Siêu việt là linh ngữ kỳ vĩ, linh ngữ của huệ trí, linh ngữ tối hậu vô song, mang khả năng lay đổ mọi nghịch cảnh khổ đau. Linh ngữ thoắt sinh từ Tuệ giác Siêu việt này là sự thật, không mảy may dối trá. Câu linh ngữ có khả năng giải phóng đó là: “Độ, độ, siêu suốt mình và độ thoát mọi sinh dân. Giải thoát! Tất thảy cùng về an nhiên nơi chốn.”

Giải nghĩa câu chú

Tiếng Phạn
Chữ DevanāgarīChữ Latin hóaPhát âm (theo IPA)Âm Hán ViệtDịch nghĩa
गते गतेGate gate[gəteː gəteː]Yết đế, yết đếVượt qua, vượt qua
पारगतेPàragate[pɑːɾə gəteː]Ba la yết đếVượt qua bờ bên kia
पारसंगतेPàrasaṃgate[pɑːɾəsəm gəteː]Ba la tăng yết đếVượt qua hoàn toàn
बोधि स्वाहाBodhi svàhà[boːdɦɪ sʋɑːhɑː]Bồ đề tát bà haTuệ giác Thành tựu.
Theo giảng giải của đức Đạt-lai Lạt-ma thứ 14 thì mỗi chữ trong câu chú trên tương ứng với một lộ trình tu tập Bồ-tát giới từ thấp đến cao đó là:
  • gate—Lộ trình tích lũy hay tích lũy đạo
  • gate—Lộ trình chuẩn bị hay gia hành đạo
  • paragate—Lộ trình tri kiến hay kiến đạo
  • parasamgate—Lộ trình thiền định hay tu tập đạo
  • bodhi—Lộ trình vô học hay vô lậu học đạo

Bản dịch Hán

Bản này do Đường Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang dịch.

觀自在菩薩。行深般若波羅蜜多時。照見五蘊皆空。度一切苦厄。舍利子。色不異空。空不異色。色即是空。空即是色。受想行識亦復如是。舍利子。是諸法空相。 不生不滅。不垢不淨不增不減。是故空中。無色。無受想行識。無眼耳鼻舌身意。無色聲香味觸法。無眼界。乃至無意識界。無無明。亦無無明盡。乃至無老死。亦 無老死盡。無苦集滅道。無智亦無得。以無所得故。菩提薩埵。依般若波羅蜜多故。心無罣礙。無罣礙故。無有恐怖。遠離顛倒夢想。究竟涅槃。三世諸佛。依般若 波羅蜜多故。得阿耨多羅三藐三菩提。故知般若波羅蜜多。是大神咒。是大明咒是無上咒。是無等等咒。能除一切苦。真實不虛故。說般若波羅蜜多咒即說咒曰 揭帝揭帝 般羅揭帝 般羅僧揭帝菩提僧莎訶

Bản phiên âm Hán-Việt

Quán-Tự-Tại Bồ-Tát hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ-uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.
"Xá-Lợi-Tửsắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc. Thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị.
Xá-Lợi-Tử! thị chư pháp không tướng, bất sinh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm.
Thị cố không trung vô sắc,vô thọ, tưởng, hành, thức.
Vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, phápvô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới.
Vô vô minh, diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận.
Vô khổ, tập, diệt, đạo, vô trí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố, Bồ-đề-tát-đỏa y Bát-nhã Ba-la-mật-đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết-bàn.
Tam thế chư Phật, y Bát-nhã Ba-la-mật-đa cố, đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam bồ-đề.
Cố tri Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư.
Cố thuyết Bát-nhã Ba-la-mật-đa chú. Tức thuyết chú viết:
Yết-đế, yết-đế, Ba-la yết-đế. Ba-la-tăng yết-đế Bồ-đề tát-bà-ha."

Bản tiếng Phạn

Chữ Devanāgarī

Chữ Siddhaṃ

Heart sutra sdh.jpg