NHỮNG CÁI VUI
TRONG ĐẠO PHẬT
Trong nhà Phật, ngày mùng một Tết là ngày vía đức
Di Lặc. Đức Di Lặc hiện là Bồ tát, nhưng tương lai sẽ thành Phật. Thế nên lễ
Ngài chúng ta xưng “Đương lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật”. Chúng tôi gọi Ngài là
Phật vì Ngài là Phật sẽ thành, còn gọi Ngài là Bồ tát vì Ngài là vị Bồ tát hiện
tại. Đa số các chùa thuộc hệ Bắc tông đến ngày mùng một Tết đều cử lễ vía Ngài.
Đó là một thông lệ nhưng mang nhiều ý nghĩa quan trọng. Người thế gian ai cũng
quan trọng ngày đầu năm, cho ngày đầu năm là ngày chứa đựng đầy đủ ý nghĩa
trong một năm. Vì vậy, mọi hành động, mọi ngôn ngữ, mọi ý nghĩ đều được dè dặt
để giữ gìn một năm đầy tốt đẹp.
Đức Di Lặc là hình ảnh đẹp đẽ vui tươi mà ai cũng
thích. Gương mặt Ngài lúc nào cũng nở nụ cười hoan hỷ gọi là nụ cười Di Lặc. Nụ
cười Di Lặc không bị thời gian chi phối, lúc nào Ngài cũng cười; thuở bé cũng
thấy Ngài cười, đến già cũng thấy Ngài cười, sắp tắt thở cũng thấy Ngài cười.
Đó là nụ cười Di Lặc.
Đón mừng
Bồ Tát Di Lặc – một vị Phật sẽ thành – là hình thức bên ngoài của buổi lễ còn ý
nghĩa bên trong là đón mừng những người con Phật mai kia sẽ thành Phật. Ngày
vía đức Di Lặc là ngày vui của mọi người, cũng là ngày hứa hẹn chúng ta sẽ toàn
giác thành Phật.
Người đời cho rằng đạo Phật chán đời, yếm thế,
không có niềm vui. Nói như thế là chủ quan, chưa hiểu gì về đạo Phật. Thực tế
đạo Phật tràn trề sức sống, tràn trề niềm vui, những niềm vui của đạo Phật phát
xuất từ cạn tới sâu nơi tâm người qua năm giai đoạn tu tiến.
1.- Niềm vui xuất phát từ tâm Tùy hỉ.
Tùy là theo, hỉ là vui mừng. Tùy hỉ là vui mừng theo. Khi thấy bạn hay người
thân làm điều lành hay việc tốt chúng ta phát tâm vui theo, đó là tùy hỉ. Người
làm lành vui bao nhiêu, chúng ta vui bấy nhiêu. Người phát được niềm vui đó công
đức bằng công đức người làm việc lành. Thí dụ ông A đem mười đồng tới chùa
cúng, chúng ta nghèo không có tiền cúng, thấy ông A cúng chùa ông vui sướng,
chúng ta vui theo thì công đức của ông A cúng mười đồng với công đức tùy hỉ của
chúng ta bằng nhau. Mới nghe qua thấy như bất công vô lý, chúng ta không cúng
một xu nào tại sao công đức bàng ông A cúng mười đồng được ? Nhưng Phật nói công đức hai người bằng nhau.
Có người hỏi:
-Bạch Thế Tôn, tại sao công đức tùy hỉ và công
đức bố thí bằng nhau ?
Phật trả lời bằng một thí dụ: cây đuốc thứ nhất
đang cháy, có một người cầm cây đuốc thứ hai đến mồi. Khi mồi xong, cây đuốc
thứ nhất cháy, cây đuốc thứ hai cũng cháy, ánh sáng hai cây đuốc đó không hơn
kém nhau. Cây đuốc bị mồi, ánh sáng cũng không giảm bớt. Cũng vậy, người làm
việc lành, chính họ đã có công đức; và người phát tâm tùy hỉ công đức cũng
ngang bằng với người làm lành đó. Tu nhẹ nhàng quá, không đợi chúng ta có nhiều
tiền mới làm được việc công đức; chỉ thấy ai làm lành chúng ta tùy hỉ tán thán
là có công đức rồi.
Tại sao tùy hỉ có công đức lớn như vậy ?
- Người có công có của đem ra giúp người là họ xả
được tâm tham lam ích kỷ. Còn người phát tâm tùy hỉ thì xả được tâm tật đó, vì
thông thường người thế gian thấy ai hơn mình là sanh tâm đó kỵ. Thí dụ hai
huynh đệ đi chùa, ông A có mười đồng cúng chùa, mình không có thì buồn rồi nói
móc nói ngoéo, chớ không có tâm tùy hỉ vui theo. Thấy người làm được, mình làm
không được sanh đố kỵ là tật xấu. Bây giờ chúng ta phát tâm tùy hỉ là dẹp được
tật đố xấu xa nơi mình rồi. Người bố thí xả được tâm tham lam ích kỷ, người tùy
hỉ xả được tâm tật đố thì công đức hai người bằng nhau.
Ở thế gian chúng ta thường thấy, thậm chí anh em
ruột trong nhà, em làm ăn thất bại nghèo thiếu thấy anh làm ăn phát đạt được
giàu sang thì có mặc cảm đố kỵ với anh. Do đó, tình anh em phai nhạt xa cách.
Tại vì sao ? Vì cái tâm tật đó không
muốn ai hơn mình, thấy người hơn mình là sanh tâm đố kỵ. Đó là cái bệnh chung
của con người. Thế nên chúng ta học đạo phải tập phát tâm tùy hỉ. Không phải
đợi mình làm việc công đức mới vui, mà thấy ai làm được việc tốt đẹp, sống hạnh
phúc, chúng ta đều phát tâm vui mừng theo.
Một thí dụ nữa. Chúng ta nghèo ăn cơm hẩm với
muối hột, bạn chúng ta giàu ăn gạo lúa thơm với thịt cá đầy bàn. Thấy như vậy
chúng ta tùy hỉ nói: “Anh sung sướng quá, tôi mừng cho anh được đầy đủ sung
túc”. Thấy chúng ta tùy hỉ người bạn giàu đó có ghét chúng ta không ? Không ghét mà thương, có thể còn giúp đỡ
chúng ta nữa. Nhưng ở đời người ta có chịu làm như vậy không ? Hay mình ăn cơm hẩm với muối hột, bạn mình
ăn cơm gạo lúa thơm với thịt cá đầy bàn, thì mình không vui, rồi kiếm chuyện
nói xa nói gần, khiến cho tình bạn phai nhạt, dần dần xa cách ? Mình đố kỵ người ta, người ta thương mình
sao được! Từ đó mà sanh ra ngăn cách, bạn trở thành thù do đố kỵ mà ra. Từ hoàn
cảnh ăn ở, cách xử sự, cho đến làm việc thiện v.v… tất cả chúng ta đều tập phát
tâm tùy hỉ. Người làm được việc mà chúng ta không đủ khả năng làm, chúng ta nên
vui mừng theo.
Một thí dụ khác. Hồi thuở bé đi học ở trường, khi
thầy giáo kêu trả bài, hôm nào mình không thuộc bài bị điểm nhỏ, bạn mình thuộc
bài được điểm lớn thì mình đố kỵ ghét bạn. Bạn siêng học, học giỏi được điểm
lớn, mình lười biếng học dở thua bạn, tại sao mình lại ganh ghét đố kỵ ? Hoặc cuối năm học, những bạn học giỏi được
khen thưởng những món quà xứng đáng, còn mình học dở, khi thấy bạn lãnh quà,
mình vui lây hay ganh ghét rồi kiếm chuyện để thách đố ? Cái tâm đố kỵ có từ thuở bé, chớ không phải
bây giờ mới có, chúng ta mang sẳn nó từ thơ ấu. Giờ đây biết tu, chúng ta phải
bỏ tâm tật đố, vì nó tương đương với tham lam; tham lam có thì tật đố cũng có.
Người biết làm phước họ xả được lòng tham, người biết tùy hỉ bỏ được tâm tật
đố. Như vậy mỗi người bỏ được một tật cho nên đức Phật nói: “Công đức ngang
nhau”. Về sau huynh đệ đi chùa, họ có tiền của cúng Phật, cúng Tăng, mình không
có cũng vui theo, mừng cho bạn có tiền của cúng chùa, được như vậy thì cả hai
đều được công đức như nhau. Đừng mặc cảm mình nghèo không có tiền của cúng chùa
không cùng đi chung. Nghĩ như vậy là trái đạo lý. Học hiểu ứng dụng đúng với
lời Phật dạy chúng ta mới thấy Phật pháp công bằng, không thiên người giàu,
không bỏ người nghèo. Ai cũng có phước hết, chỉ cần có tâm lành là được.
Tóm lại trong gia đình, anh em ai được giàu sang,
ai được khá giả, ai được hạn phúc, chúng ta đều vui mừng như chính chúng ta
được. Ngoài xã hội, từ bạn bè cho đến người láng giềng, ai được phú quí, ai có
danh vị, chúng ta vui mừng như chính chúng ta được. Trong đạo, huynh đệ ai có
cái gì hay, cái gì tốt, chúng ta vui mừng như chính chúng ta được thì không còn
khổ, lúc nào cũng có niềm vui, vui theo cái vui của người! Chúng ta không bị
tật đố làm cho cách biệt, làm mất tình anh em ruột thịt trong nhà, làm mất tình
bạn bè ngoài xã hội và làm mất tình bạn đạo ở trong chùa. Được như vậy,
đi đến đâu chúng ta cũng có niềm vui, dù tay không, không giúp ai được việc gì.
Trái lại, chúng ta nghèo mặc áo rách, thấy người ta mặc áo lành thì đố kỵ xụ
mặt xuống, như vậy làm gì có vui! Đi đâu cũng buồn vì thấy người hơn mình, buồn
tràn trề. Ở đời làm sao mình bằng tất cả mọi người được! Bây giờ chúng ta biết
tùy hỉ, thấy ai có cái gì hơn, chúng ta đều vui theo, mừng cho họ. Tâm niệm của
người Phật tử phải là tâm niệm làm cho mọi người hết khổ. Phật là vị cứu khổ
chúng sanh, chúng ta là Phật tử, tức con Phật, phải có quan niệm làm cho chúng
sanh hết khổ; nếu chưa hết khổ, ít ra cũng bớt khổ. Thấy mọi người bớt khổ về
cái ăn, cái mặc, hoặc bớt khổ về cái gì là chúng ta vui mừng. Nếu chúng ta đố
kỵ thì không phải con Phật. Vì vậy, muốn được niềm vui đầu tiên, người Phật tử
phải phát tâm tùy hỉ, ai có điều hay, cái tốt đều vui theo chớ không đố kỵ. Đó
là cái vui thứ nhất của người mới vào đạo.
2. Cái vui thư hai sâu hơn, tế nhị hơn là Hỷ xả.
Hỷ là mừng, xả là buông bỏ. Hỷ xả có hai mặt:
-Hỷ xả tài vật bên ngoài.
-Hỷ xả phiền não cố chấp trong lòng.
Nếu chúng ta có tài vật dư dả nên giúp cho những
người bần cùng đói rách. Của cải do mồ hôi nước mắt mình tạo, mình cảm thấy đủ
hay dư thì vui xả cho những người nghèo thiếu hay những người ít ỏi hơn. Đó là
hỷ xả tài vật bên ngoài. Tuy vậy cũng hơi khó làm, vì có nhiều người, kẻ khác
thấy họ dư mà bản thân họ lại thấy thiếu; có một đồng muốn hai đồng, có hai
đồng muốn mười đòng, có mười đồng muốn ba mươi đồng, muốn cho đến ngày tắt thở
mà vẫn thấy chưa đủ. Như vậy làm sao xả được ? Cho nên muốn hỷ xả chúng ta phải học Phật;
Phật dạy ít muốn, biết đủ. Chúng ta biết đủ thì mới xả được, không biết đủ thì
không thì không thể nào xả được. Người không biết đủ giống như cái túi không
đáy, bỏ vào bao nhiêu tuột hết bấy nhiêu, bỏ bao nhiêu cũng không đầy, do cái
bệnh không biết đủ, như vậy làm sao mà xả ?
Thí dụ: mỗi ngày chúng ta ăn ba chén cơm là đủ,
dù có đồ ăn ngon, chúng ta cũng ăn ba chén, phần dư thì giúp cho người hoặc cho
vật. Dù đấy là phần dư của mình, nhưng cũng là một lối xả. Chớ nên ăn ba chén
vừa no, thấy đồ ăn ngon, ăn thêm nữa, như vậy là phí phạm, vì lượng thức ăn
chừng đó là đủ, ăn thêm là dư. Đó là về cái ăn, còn bao nhiêu cái khác, chẳng
hạn như cái mặc, chúng ta có ba bộ đồ đủ để mặc, thêm bộ thứ tư là đủ rồi;
nhưng có thêm bộ thứ tư thấy chưa đủ, mua thêm bộ thứ năm cũng thấy chưa đủ
nữa. Như vậy chừng bao nhiêu mới đủ để xả ? Không biết đủ thì không bao giờ xả được, của
dư đem giúp người không một chút luyến tiếc. Đó là tâm hỷ xả, vui vẻ giúp người
chứ không bị bắt buộc.
Hỷ xả tài vật tuy nhỏ nhưng dễ hơn hỷ xả cố chấp
phiền muộn ở tâm. Khi có người làm phiền mình, thì gương mặt buồn hoặc nhăn
nhó. Muốn hết phiền phải tập xả; xả nầy là tha thứ, là bỏ qua. Phiền ở đây là
phiền não và sân hận, hai thứ đó chất chứa trong lòng, mình phải buông xả nó
đi. Người nào ôm lòng phiền hận thì đau khổ, đau khổ từ hiện tại cho đến mai
kia, chớ không phải đau khổ trong hiện tại thôi. Vì vậy, khi biết mình đang ôm
lòng phiền hận người nầy kẻ khác, thì phải vui vẻ bỏ, nghĩa là bao nhiêu cái
phiền muộn chứa chấp trong lòng phải hỷ xả hết.
Muốn xả của cải chúng ta phải biết đủ. Bây giờ
muốn bỏ phiền hận phải làm sao ? Bỏ bằng cách nào ?
-Muốn bỏ phiền hận trong lòng, chúng ta phải thấy
cuộc đời là vô thường, cái chết đang cận kề, ôm phiền não làm gì ? Do nghĩ cái chết sắp đến nên chúng ta buông
xả được phiền hận. Phiền hận chỉ làm khổ mình, khổ người, không lợi cho ai cả.
Quán xét như vậy chúng ta buông hết, không buồn giận ai, lo tu cho tâm an ổn.
Tiến hơn nữa, chúng ta thấy cuộc đời như ảo mộng,
ngày nay có mặt tại đây, ngày mai đã mất rồi. Sống trong tạm bợ mong manh; mình
tạm bợ, người tạm bợ; tại sao không thương nhau, nâng đỡ nhau ? Nếu chúng ta biết mình là người bị kêu án tử
hình và những người chung quanh bị kêu án tử hình, thì đâu có buồn giận nhau.
Trong cuộc sống hằng ngày khi lẫn lộn chung chạ nhau, có dẫm lên nhau, hay có
làm phiền toái nhau cũng bỏ qua. Phải nghĩ đến cái chết, chúng ta mới thấy cuộc
đời là tạm bợ, sống không có gì là tạm bợ, sống không có gì bảo đảm, vậy buồn
giận nhau để làm gì ? Hãy buông xả hết
những gì còn chứa chấp trong lòng. Có ai ở đời mãi đâu mà giận với hờn!
Chúng ta đã học Phật nhiều năm, vậy có tập được
hạnh buông xả chưa ? Đi chùa cúng Phật
có còn giận hờn bè bạn anh em không ?
Nếu ai còn phiền giận, thì ngay bây giờ hãy ước nguyện đức Phật chứng minh xả
hết, cho lòng trống rỗng, không còn vướng bận việc gì. Dù có buồn giận ai từ
mười năm hay hai ba mươi năm, ngày nay dứt khoát phải xả. Phiền giận là rắn
độc, dại gì chúng ta chứa rắn độc trong nhà. Nếu chứa rắn độc trong nhà thì sớm
muộn gì cũng bị nó cắn. Thế nên khi biết phiền não là rắn độc thì phải xả ngay,
đuổi ra khỏi nhà, không dung chứa nó. Biết như vậy là tu đó. Phiền não thì
không vui; hết phiền hận, tâm hồn rỗng rang trống trải thì rất vui vẻ. Muốn
được vui vẻ, chúng ta phải tập hỷ xả những vật bên ngoài, hỷ xả những phiền hận
trong lòng. Trong ngoài đều hỷ xả hết mới có cái vui chân thật.
Sở dĩ đức Phật Di Lặc cười hoài là vì Ngài hỷ xả,
còn chúng ta buồn hoài là vì chúng ta cố chấp phiền hận. Cố chấp phiền hận là
nguyên nhân của đau khổ, của bệnh tật, rất xấu xa đê hèn, dứt khoát phải xả bỏ.
Mọi người ai cũng muốn mình là người vui tươi, ai cũng muốn mình là người sung
sướng, nhưng tại sao lại chứa cái nhân đau khổ ? Có phải tự mình mâu thuẫn với mình không ? Khi nào giận ai, buồn ai là mình biết mình
đang hại mình làm cho mình xấu xa, làm cho mình đau khổ, làm cho mình bệnh
hoạn. Biết như vậy thì ngày mùng tám tháng giêng có cần đi cúng sao không cúng
sao là cầu năm nay mình khỏi tai nạn, được vui sướng. Bây giờ xả hết, không
buồn ai, không giận ai thì năm nay an ổn vui sướng rồi, dù có gặp sao La Hầu,
Kế Đô cũng an vui như ngày Xuân, nên không cần cúng sao! Mình không giận ai thì
ai thù mình ? Đó là cái nhân làm cho an
ổn thực tế. Còn cúng sao là cái cầu mong huyễn hoặc trên trời, không phải việc
làm thiết thực cụ thể.
Hỷ xả là cái đức rất cần thiết và quí báu cho
cuộc sống hiện tại của chúng ta. Muốn được vui, muốn được tươi đẹp, sống lâu
chúng ta phải tu hạnh hỷ xả. Người không chịu hỷ xả là người sẽ chết yểu, bệnh
hoạn, xấu xa. Vậy ngày đầu năm quí vị hãy tu hạnh hỷ xả cho trọn năm được vui
như đức Phật Di Lặc. Đó là cái vui thứ hai.
3. Cái vui thứ ba là “Pháp hỷ”: Pháp là
chánh pháp, hỷ là vui. Pháp hỷ là vui với chánh pháp. Khi nghe kinh học đạo,
thấy lời Phật dạy là chân lý rất thực tế không xa vời huyễn hoặc có thể thực
hành được, chúng ta thích thú cảm thấy nhẹ nhàng sung sướng, đó là pháp hỷ hay
pháp lạc. Tại sao vui ? Vì nghe kinh học
đạo, chúng ta thấy được lẽ thật, lòng nhẹ nhàng vui sướng. Người nào nghe kinh
học đạo, thấy lòng vui nhẹ sung sướng, đó là người được pháp lạc. Còn người nào
nghe kinh học đạo mà gục lên gục xuống, nghiêng qua ngã lại, người đó không
được pháp lạc. Nếu không có cái vui khi nghe kinh học đạo, dù có đi chùa cũng khó
tinh tấn, vì có thích đâu mà tinh tấn. Việc gì chúng ta thích thú mới cố gắng
làm, nếu không thích thú thì làm miễn cưỡng chứ không cố gắng. Người học đạo
phải nên nghiền ngẫm mới thấy lời Phật dạy là chân lý. Thấy được chân lý chúng
ta mới vui sướng. Cái vui sướng đó là pháp hỷ hay pháp lạc, là cái vui chân
thật. Có được cái vui chân thật mới tinh tấn thích tu hành. Nếu không được pháp
hỷ, có tu chăng, cũng chỉ cầu mong được tài lợi danh vị… chớ không phải vui
thích mà tu. Người học đạo chân chính vui với đạo mà tu, chớ không phải cầu
mong cái gì khác. Như vậy khi nghe kinh hoặc đọc sách Phật phải nghiền ngẫm tư
duy. Tư duy đúng đắn, tột cùng thấy được lẽ thật thì vui thích; cái vui thích
đó tạo thành sức mạnh khiến chúng ta tinh tấn trên con đường tu.
Người đời có những lúc vui mừng quá người ta
khóc. Chẳng hạn thân nhân đi đâu xa khoảng hai mươi năm, ba mươi năm không gặp,
khi gặp lại mừng quá rơi nước mắt. Trong đạo cũng thế, khi đọc kinh Phật có
niềm vui cũng cảm động rơi nước mắt. Đó là trường hợp của ngài Khuê Phong, Ngài
được người bạn tặng một quyển kinh Viên Giác, đọc qua Ngài vui sướng, cảm động
rơi nước mắt. Đó là cái vui sướng tột cùng khiến nước mắt rơi. Người học đạo mà
vui như thế thì không bao giờ thối chuyển. Khi nào đọc kinh mà thấy Phật nói
hay quá cảm động sung sướng rơi nước mắt, đó là có duyên lành khá sâu với Phật
pháp. Người được cái vui đó là người ít bị khó khăn hay chướng ngại làm
lui sụt. Còn khi đọc kinh thấy buồn ngủ, tụng kinh ngáp dài thì không tìm
được cái vui trong đạo. Không vui thì sự tu khó tiến bộ. Đó là cái vui của pháp
hỷ hay pháp lạc.
4.-Cái vui sâu hơn nữa là “Thiền duyệt”: thiền là thiền định, duyệt là vui, thiền duyệt là vui trong
thiền định. Trong nhà thiền có tả trong lúc tọa thiền, khi thân tâm an ổn, hơi
thở nhẹ nhàng, lúc đó cảm thấy khinh an thư thới khác hơn bình thường. Cái vui
nầy lâng lâng nhè nhẹ chứ không phải cái vui hớn hở rộn ràng. Chỉ khi nào chúng
ta lắng sâu trong thiền định, thân an, hơi thở đều hòa, tâm định, thì cái vui
nhè nhẹ xuất hiện, cái vui nầy nhà Phật gọi là “Thiền duyệt”.
Người mới tập ngồi thiền thì thấy đau chân, thân
mỏi nhọc, mồ hôi chảy chẳng vui chút nào cả, thấy ngồi thiền khổ như một hình
phạt. Nhưng tới lúc quen thì nhẹ nhàng an ổn. Tới giờ ngồi thiền không ngồi
thấy như thiếu cái gì, giồng như đến giờ ăn mà không ăn, cảm thấy khó chịu. Tu
thiền cũng phải như vậy. Đến giờ ngồi thiền mà không ngồi được, chúng ta cảm
thấy thiếu thốn cái gì, phải đi ngồi thiền mới thấy an ổn, giống như đói cần
ăn, phải ăn mới no. Do đó mà nói “Thiền duyệt vi thực”. Người tu ít ai lấy cái
vui trong thiền định làm thức ăn, vì phải khó nhọc tu tập lâu dài, công phu đắc
lực mới có trạng thái an vui đó, chớ không phải ngồi năm tháng, ba tháng mà
được. Buổi đầu ngồi thiền khổ sở lắm, qua giai đoạn nhọc nhằn khổ sở, sau đó
mới được an vui. Cái vui nầy là thiền duyệt. Bao giờ chúng ta thấy cái vui
thiền định không thể thiếu như bửa cơm không thể thiếu thì đói, mới được gọi là
“Thiền duyệt vi thực”. Đó là cái vui thứ tư.
5.-Đến cái vui thứ năm khó hơn là: “Tịch lạc”: Cái vui nầy ít được nghe nói. Nó phát xuất từ tâm tịch tịnh
được diễn đạt qua bốn câu kệ trong kinh Đại Niết Bàn:
Thị sanh diệt pháp
Sanh diệt diệt dĩ
Tịch diệt vi lạc.
Tịch lạc được ghép chữ đầu và cuối của câu kệ
chót là vui, đó là cái vui cứu cánh của người tu. Hai cái vui đầu gần gủi với
người học đạo, thế mà đa số người học Phật chưa thực hiện được, phải thực hiện
từ cái vui thứ nhất, đến cái vui thứ hai, có được hai cái vui đó rồi mới đến
cái vui thứ ba, thứ tư, cuối cùng tới cái vui thứ năm là tịch lạc. Tịch là lặng
lẽ, lạc là vui; tịch lạc là tâm lặng lẽ an vui. Cái vui nầy như thế nào ?
Chúng ta học và tu theo Phật có cái vui cạn và
cái vui sâu. Thứ nhất là cái vui do tùy hỷ thật dễ làm không tốn công, chỉ xả
tâm tật đố của mình là được. Thứ hai là cái vui tốn công tốn của xả bỏ tài vật
của mình và xả bỏ những cái chứa chấp trong quan niệm mình. Hai cái đó xả được
là có cái vui hỷ xả. Thứ ba là cái vui pháp hỷ hay pháp lạc. Cái vui nầy phải
có công phu nghiền ngẫm, nghiên cứu Phật pháp chúng ta mới được niềm an vui
trong đạo lý. Thứ tư là thiền duyệt, thiền duyệt thì phải có công phu nhiều
tháng nhiều năm tu hành mới có cái vui thiền duyệt rồi cuối cùng mới có cái vui
tịch lạc; tức là cái tâm lặng lẽ, rỗng rang không còn một niệm dấy động, thấy
tất cả sự vật cái gì cũng nên thơ, đẹp đẽ. Không còn phân biệt đây là xấu, kia
là tốt, đây là hay kia là dở, chỉ một niệm chân thật. Cho nên trong nhà thiền
gọi là “Xúc mục tức Bồ đề”; tức là nhìn cái gì cũng là Bồ đề, là giác ngộ; thấy
người vật đều vui, đều đẹp. Tất cả là mùa Xuân không có cái gì buồn xấu. Như
vậy nếu tới được chỗ vui đó thì chúng ta được hưởng mùa xuân vĩnh cửu không bao
giờ mất.
Thiền sư Phật Nhãn hiệu Thanh Viễn đời Tống ở
Trung Hoa có một bài thơ nói về Xuân như sau:
Xuân nhựt Xuân sơn lý
Xuân sự tân giai Xuân
Xuân quang chiếu xuân thủy
Xuân khí kết Xuân vân
Xuân khách Xuân tình động
Xuân thi Xuân cánh tân
Duy hữu thức Xuân nhơn
Vạn kiếp nguyên nhât Xuân.
Tạm dịch:
Ngày Xuân Xuân trong núi
Việc Xuân thảy đều Xuân
Hồ Xuân ánh Xuân chiếu
Khí Xuân kết mây Xuân
Khách Xuân lòng Xuân động
Thi Xuân Xuân càng tươi
Chỉ có người biết Xuân
Muôn kiếp một mùa Xuân.
Tại sao toàn bài thơ câu nào cũng là Xuân hết vậy
?
Ngày Xuân Xuân trong núi: Ngày Xuân trong núi giống hệt như Xuân hôm nay. Tức là ngày vui, vui ở trong núi.
Ngày Xuân Xuân trong núi: Ngày Xuân trong núi giống hệt như Xuân hôm nay. Tức là ngày vui, vui ở trong núi.
Việc Xuân thảy đều Xuân: Nếu lòng mình nhẹ nhàng
thênh thang, không buồn giận, hờn phiền, không dấy niệm phân chia thì cái gì
cũng là Xuân, thấy ai cũng đẹp đẽ dễ thương. Sở dĩ chúng ta không vui được là
vì thấy cái nầy xấu, cái kia tốt; thấy người nầy dễ thương, người kia dễ ghét…
Thấy người dễ ghét thì hết Xuân, mặt xụ xuống làm sao vui được. Còn thấy ai
cũng dễ thương thì gặp ai mình cũng nở nụ cười, không phải Xuân là gì ? Trên mặt mình lúc nào cũng là mùa Xuân. Cho
nên thấy cái gì cũng là mùa Xuân. Tất cả đều là mùa Xuân.
Hồ Xuân ánh Xuân chiếu: Hồ nước mùa Xuân ánh nắng
mặt trời soi sáng đưới mặt hồ cũng Xuân, cái gì cũng đẹp hết.
Khí Xuân kết mây Xuân: Mây loáng thoáng lưa
thưa ở chung quanh núi, mái nhà, vườn cây là những mây nhạt gọi là Xuân khí.
Xuân khí đó kết thành những cụm mây, những cụm mây đó cũng là mây Xuân. Như vậy
nhìn người, nhìn mây, nhìn nước, nhìn vật cũng là Xuân. Tại sao vậy ? Tại vì trong lòng vui tươi như như mùa Xuân
nên thấy người, cảnh đều Xuân. Nếu trong lòng buồn bã như đêm ba mươi thì thấy
cái gì cũng buồn bã tối đen. Sở dĩ thấy cảnh vật ở ngoài đẹp là do trong lòng
mình đẹp.
Khách Xuân lòng Xuân động: Như người khách trong
mùa Xuân, thấy cảnh đều vui theo, tức lòng động theo mùa Xuân.
Thi Xuân Xuân càng tươi: Mùa Xuân đã tươi rồi thi
nhân còn tô điểm làm cho nó tươi đẹp thêm.
Chỉ có người biết xuân, muôn kiếp một mùa Xuân:
cảnh Xuân, khách Xuân, tình Xuân v.v… là cái bên ngoài. Chỉ có người biết được
Xuân, mới vui Xuân muôn kiếp. Mùa Xuân đó là mùa Xuân Di Lặc, cười hoài muôn
kiếp, không bao giờ có vẻ mày sầu, mặt héo. Đó là mùa Xuân tươi đẹp, đầy cả bầu
trời, tràn trề cả nhân thế.
Quí vị có muốn hưởng mùa xuân nầy không ? Nếu muốn thì phải tu từ cạn tới sâu. Cạn
nhất là từ bỏ tật đố để phát tâm tùy hỷ theo tất cả việc tốt, việc lành của mọi
người. Kế đó là xả từ vật chất của cải đến những bực bội cố chấp trong lòng
được cái vui hỷ xả. Rồi tới học hiểu giáo lý một cách đúng đắn, có niềm vui
chân thật là Pháp lạc. Kế nữa là tu hành tiến tới an ổn được cái vui thiền
định. Cuối cùng là dứt sạch mọi vọng niệm được an vui tự tại, chỉ một tâm thênh
thang trong suốt, thì nhìn đời bằng một mùa Xuân không đổi thay, bất diệt. Xuân
như thế mới là Xuân Di Lặc, mới là Xuân muôn đời muôn kiếp. Nếu mùa Xuân chỉ có
ba tháng hoặc chỉ có ba ngày Tết thì Xuân đó quá hữu hạn; ngày nay gượng cười,
ngày mai gặp nhau quạo quọ, tức tối thì không có Xuân. Phải cởi bỏ những chướng
ngại trong lòng thì mùa Xuân muôn kiếp mới xuất hiện.
Mong rằng mùa Xuân muôn kiếp sẽ đến với quí vị.
***
Hòa thượng. THÍCH THANH TỪ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét