Tu Ân hữu Sắc

03/06/2014

Chùa Việt (phần 12 : Vài nét về cách xưng hô trong đạo Phật ở Việt Nam)

(Phần 12)

Vài nét về cách xưng hô trong đạo Phật

Nói một cách khác, đạo ở tại đời, người nào cũng đi từ đời vào đạo, nương đời để ngộ đạo, tu tập để độ người, hành đạo để giúp đời. Trong mối quan hệ khăng khít ấy, người theo đạo và người xuất gia tu đạo luôn giữ một mối quan hệ gắn bó, việc xưng hô như thế nào trong các quan hệ mang tính xã hội đó cũng đặt ra những vấn đề cần giải đáp

Trong đạo Phật, có thể chia ra hai trường hợp xưng hô, một là xưng hô giữa hàng phật tử xuất gia với phật tử xuất gia; hai là xưng hô giữa người phật tử xuất gia với phật tử tại gia.

Trước hết, chúng ta cùng tìm hiểu một số vấn đề liên quan đến danh xưng trong đạo Phật, đó là cách tính tuổi và các phẩm trật trong đạo Phật. Có hai loại tuổi được đề cập đến, đó là tuổi đời và tuổi đạo. Tuổi đời là tuổi tính theo đời, kể từ năm sinh ra. Tuổi đạo là tuổi thường được nhiều người tính từ ngày xuất gia tu đạo. Nhưng đúng ra, tuổi đạo phải được tính từ năm thụ cụ túc giới (giới tỳ kheo và tỳ kheo ni) đồng thời, hàng năm phải tùng hạ tu học theo chúng và đạt tiêu chuẩn, mỗi năm như vậy được tính một tuổi hạ. Nghĩa là tuổi đạo còn được gọi là tuổi hạ (hay hạ lạp). 

 Một người tuổi đời dưới 20 phát tâm xuất gia, hay do gia đình đem gửi gắm vào cửa chùa, thường được gọi là chú tiểu, hay điệu. Đó là các vị đồng chân nhập đạo. Tùy theo số tuổi, vị này được giao việc làm trong chùa và học tập kinh kệ, nghi lễ. Thời gian sau, vị này được thụ 10 giới, gọi là Sa di (đối với nam) hay Sa di ni (đối với nữ). Đến năm được ít nhất là 20 tuổi đời và chứng tỏ khả năng tu học, đủ điều kiện về tu tập, vị này được thụ giới cụ túc, tức là 250 giới tỳ kheo (nam) hay 348 giới tỳ kheo ni (nữ) và được gọi là Đại đức (nam) hay Sư cô (nữ). Trên giấy tờ thì ghi là Tỳ kheo (nam) hay Tỳ kheo Ni (nữ) trước pháp danh của vị xuất gia.

 Nhìn chung sự sinh hoạt của Phật giáo cần phải thiết lập tôn ti trật tự (cấp bậc) có danh xưng theo Hiến chương của Giáo hội Phật giáo Việt Nam như sau: Năm 20 tuổi đời, vị xuất gia thụ giới tỳ kheo được gọi là Đại đức; năm 45 tuổi đời, vị tỳ kheo được 25 tuổi đạo, được gọi là Thượng tọa; năm 60 tuổi đời, vị tỳ kheo được 40 tuổi đạo, được gọi là Hòa thượng; Đối với bên nữ (ni bộ): năm 20 tuổi đời, vị nữ xuất gia thụ giới tỳ kheo ni được gọi là Sư cô; năm 45 tuổi đời, vị tỳ kheo ni được 25 tuổi đạo, được gọi là Ni sư; năm 60 tuổi đời, vị tỳ kheo ni được 40 tuổi đạo, được gọi là Ni trưởng.

 Đó là các danh xưng chính thức theo tuổi đời và tuổi đạo, được dùng trong việc điều hành Phật sự, trong hệ thống tổ chức của Giáo hội, không được lạm dụng tự xưng, tự phong, tự thăng cấp, mà phải được xét duyệt và chấp thuận bởi một hội đồng giáo phẩm có thẩm quyền, và được cấp giáo chỉ tấn phong, nhân dịp Đại lễ hay Đại hội Phật giáo, trong các giới đàn, hay trong mùa an cư kết hạ hằng năm.

Đối với các bậc Hòa thượng mang trọng trách điều hành các cơ sở Giáo hội Phật giáo trung ương cũng như địa phương, hay các Đại tùng lâm, Phật học viện, Tu viện, thường là các vị trên 80 tuổi đời, được tôn xưng là Đại lão Hòa thượng hay Trưởng lão Hòa thượng. Điều này không thấy áp dụng đối với hàng giáo phẩm Ni. Các vị thuộc hàng giáo phẩm này thường được cung thỉnh vào các Hội đồng Trưởng lão, hoặc Hội đồng Chứng minh tối cao của các cấp Giáo hội. Tuy nhiên, khi ký các thông bạch, văn thư chính thức, chư tôn đức đôi khi vẫn xưng đơn giản là Tỳ kheo, hay Sa môn để biểu hiện sự khiêm nhường theo đúng tinh thần Phật giáo.

 Giữa các vị xuất gia, thường xưng con hay xưng pháp danh, pháp hiệu và gọi vị kia là thầy hoặc gọi cấp bậc hay chức vụ vị đó đảm trách theo nguyên tắc bên ni trọng bên tăng. Tuy nhiên những vị tăng trẻ tuổi vẫn tôn xưng các vị ni lớn tuổi mà xưng con gọi thầy hay phẩm trật với các vị ni. Bên tăng cũng như bên ni, đều gọi sư phụ bằng thầy hay sư phụ, Tôn sư, Ân sư. Các vị xuất gia cùng tông môn, cùng sư phụ, thường gọi nhau là sư huynh, sư đệ, sư tỷ, sư muội, và gọi các vị ngang vai vế với sư phụ là sư thúc, sư bá. Trong đạo Phật có các danh xưng đạo hữu (bạn cùng theo đạo), pháp hữu (bạn cùng tu theo giáo pháp). Các danh xưng tín hữu (bạn cùng tín ngưỡng, cùng đức tin), tâm hữu (bạn cùng tâm, đồng lòng) không thấy được dùng trong đạo Phật.

 Khi tiếp xúc với chư tăng ni, quý vị cư sĩ phật tử tại gia (kể cả thân quyến của chư tăng ni) thường đơn giản gọi bằng thầy hay cô nếu như không biết rõ hay không muốn gọi phẩm trật của vị tăng ni và thường xưng là con. Trong tinh thần Phật pháp, người thụ ít giới tôn kính người thụ nhiều giới hơn chứ không phải tính tuổi tác người con theo nghĩa thế gian để tỏ lòng khiêm cung, kính Phật, trọng tăng, cố gắng tu tập, dẹp bỏ bản ngã, dẹp bỏ tự ái, mong đạt trạng thái niết bàn vô ngã theo lời Phật dạy. Có những vị cao tuổi xưng tôi hay chúng tôi với vị tăng ni trẻ để tránh ngại ngùng cho cả hai bên. Khi qui y Tam bảo, thụ ngũ giới (tam quy, ngũ giới), mỗi vị cư sĩ phật tử tại gia có một vị thầy truyền giới cho mình. Vị ấy được gọi là thầy Bản sư. Cả gia đình có thể cùng chung một vị thầy Bản sư, tất cả các thế hệ cùng gọi vị ấy bằng thầy. 

 Theo giáo phái khất sĩ, nam tu sĩ được gọi chung là Sư và nữ tu sĩ được gọi chung là Ni. Còn hệ phái Phật giáo Nam tông chỉ có tăng, không có ni nên danh xưng chung đối với các vị Nam tông là sư. Một điều chú ý là đối với Phật giáo Nam tông, thường không dùng danh xưng thầy để gọi các nhà sư. Việc xưng hô không đúng phẩm vị của tăng ni, xưng hô khác biệt trước mặt và sau lưng, tất cả đều nên tránh bởi vì không ích lợi cho việc tu tâm, dưỡng tính.

 Khi tiếp xúc với cư sĩ, phật tử tại gia, kể cả người thân trong gia quyến, chư tăng ni thường xưng là tôi hay chúng tôi (hay xưng pháp danh, pháp hiệu, hoặc bần tăng, bần ni), cũng có khi chư tăng ni xưng là thầy, hay cô và gọi quý vị là đạo hữu, hay quý đạo hữu. Cũng có khi chư tăng ni gọi quí vị tại gia bằng pháp danh, có kèm theo hoặc không kèm theo tiếng xưng hô của thế gian. Cũng có khi chư tăng ni, tùy theo tuổi tác của phật tử xuất gia, mà gọi theo cách gọi của thế gian và xưng là nhà chùa. Đây là một cách nói gần gũi thường được sử dụng trong các sinh hoạt, giao tiếp hàng ngày chứ không phải trong các nghi thức hay các văn bản có tính chất hành chính. Cũng có khi chư tăng ni gọi quí vị tại gia là quý phật tử, từ này không sai, nhưng chưa thật chính xác bởi vì xuất gia hay tại gia đều cùng là phật tử, chứ không riêng tại gia là phật tử mà thôi. Việc một phật tử xuất gia ít tuổi gọi một phật tử tại gia nhiều tuổi bằng con và xưng thầy thực là không phù hợp. Không nên gọi như vậy để tránh sự tổn đức và không nên bất bình khi nghe như vậy để tránh bị loạn tâm. Theo truyền thống phương Đông tuổi tác rất được kính trọng trong xã hội, dù tại gia hay xuất gia.

 Trong các trường hợp tiếp xúc riêng, tùy thuận theo đời, không có tính cách chính thức, không có tính cách thuyết giảng, chư tăng ni có thể gọi các vị cư sĩ phật tử tại gia, kể cả người thân trong gia quyến, một cách trân trọng, tùy theo tuổi tác, quan hệ, như cách xưng hô xã giao người đời thường dùng hằng ngày. Danh xưng cư sĩ thường dùng cho phật tử tại gia, đã qui y Tam bảo, thụ ngũ giới. Những vị cư sỹ phát tâm tu tập và góp phần hoằng pháp còn được gọi là Ưu bà tắc (thiện nam, cận sự nam) hay Ưu bà di (tín nữ, cận sự nữ).

 Trong cách gọi dân gian, Phật giáo cũng sử dụng các danh xưng như: sư chú, sư bác, sư ông, sư bà hay sư cụ. Điều này cũng có sự phân biệt nhất định. Sư chú dành để chỉ những người xuất gia ở chùa nhưng chưa được thụ giới; sư bác chỉ những người đã được thụ giới Sa di hay Sa di Ni; sư ông, sư bà để chỉ những người đã được thụ giới tỷ kheo và tỷ kheo Ni. Ngoài ra, đối với các vị bán thế xuất gia, nghĩa là đã lập gia đình trước khi vào đạo, vẫn phải trải qua các thời gian tu tập và thụ giới như trên, cho nên cách xưng hô cũng không khác. Tuy nhiên để tránh việc gọi một người đứng tuổi xuất gia là chú tiểu, giống như gọi các vị trẻ tuổi, có nơi gọi các vị bán thế xuất gia này là sư chú, hay sư bác. Bên cạnh đó, các xưng hô trong đạo như sư ông, sư bà, sư cụ cũng thường được dành để gọi vị sư phụ của sư phụ mình, hoặc gọi chư tôn đức có hạ lạp cao, thu nhận nhiều thế hệ đệ tử tại gia và xuất gia. Một danh xưng nữa là pháp sư thường dành cho các vị xuất gia tăng hay ni có khả năng và hạnh nguyện thuyết pháp độ sanh. Ngoại đạo thường hay lạm dụng danh xưng này để chỉ các ông bà thầy pháp, thầy cúng.

 Danh xưng sư Tổ được dành cho chư tôn đức lãnh đạo các tông phái còn tại thế, danh xưng Tổ sư được dành cho chư tôn đức đã viên tịch, được hậu thế truy phong vì có công lao trọng đại đối với nền đạo. Đối với các bậc cao tăng thạc đức thường trụ ở một tự viện, người trong đạo thường dùng tên của ngôi già lam đó để gọi quý ngài, tránh gọi bằng pháp danh hay pháp hiệu để tỏ lòng tôn trọng, kính ngưỡng.

 Đức Phật đã dạy “hằng thuận chúng sinh”, nghĩa là nếu phát tâm tu theo Phật, dù tại gia hay xuất gia, đều nên luôn luôn thuận theo việc dùng tứ nhiếp pháp (bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự) để đem an lạc cho chúng sanh, tức là cho mọi người trong đời, bao gồm những người đang tu trong đạo. Các vị phát tâm xuất gia tu hành, các vị phát tâm tu tập tại gia, thực hành hạnh ái ngữ, đã coi thường mọi thứ danh lợi, địa vị của thế gian thì quan trọng gì chuyện xưng hô, tranh hơn thua chi lời nói, quan tâm chi chuyện ăn trên ngồi trước, đi trước đứng sau, tranh chấp danh tiếng, tranh cãi lợi dưỡng, tranh giành địa vị, đòi hỏi chức vụ. Đồng quan điểm hay không, được cung kính hay không, xưng hô đúng phẩm vị hay không, chẳng đáng quan tâm, tránh sự tranh cãi. 

Nhất niệm sân tâm khởi,

Bách vạn chướng môn khai.

Nhất niệm sân tâm khởi,

Thiêu vạn công đức lâm.

          Nghĩa là: Một lần nghĩ đến sự sân hận, trăm điều chướng nghiệp sẽ nảy sinh, một lần nghĩ đến sự sân hận, tiêu tan mọi công đức tu tập. Do đó, trong cách xưng hô nên làm cho mọi người, trong đạo cũng như ngoài đời, cảm thấy an lạc, thoải mái, hợp với tâm mình, không trái lòng người, không quá câu nệ chấp nhặt. Trong đạo Phật, cách xưng hô có thể biến đổi nhưng có một điều quan trọng bất biến, không suy chuyển, đó là phẩm hạnh, phẩm chất, đức độ, sự nỗ lực, cố gắng  tu tâm dưỡng tính không ngừng cho đến ngày đạt mục đích cứu cánh giác ngộ và giải thoát, đối với Phật tử tại gia cũng như xuất gia. Đó cũng chính là một phần ý nghĩa của “tùy duyên bất biến” trong đạo Phật vậy./.

 

on 3.6.14
Gửi email bài đăng nàyBlogThis!Chia sẻ lên XChia sẻ lên FacebookChia sẻ lên Pinterest
Nhãn: Phật giáo, Văn hóa

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Bài đăng Mới hơn Bài đăng Cũ hơn Trang chủ
Đăng ký: Đăng Nhận xét (Atom)

Tu Ân hữu Sắc

Tung cánh Giang hồ ngao Thiên hạ. Nối với Nhân gian một chữ Tình.

CÁC BÀI ĐÃ ĐĂNG

  • ►  2025 (72)
    • ►  tháng 6 (12)
    • ►  tháng 5 (11)
    • ►  tháng 4 (12)
    • ►  tháng 3 (12)
    • ►  tháng 2 (15)
    • ►  tháng 1 (10)
  • ►  2024 (101)
    • ►  tháng 12 (10)
    • ►  tháng 11 (5)
    • ►  tháng 10 (9)
    • ►  tháng 9 (19)
    • ►  tháng 8 (13)
    • ►  tháng 7 (11)
    • ►  tháng 6 (6)
    • ►  tháng 5 (9)
    • ►  tháng 4 (3)
    • ►  tháng 3 (4)
    • ►  tháng 2 (4)
    • ►  tháng 1 (8)
  • ►  2023 (213)
    • ►  tháng 12 (10)
    • ►  tháng 11 (18)
    • ►  tháng 10 (22)
    • ►  tháng 9 (17)
    • ►  tháng 8 (26)
    • ►  tháng 7 (19)
    • ►  tháng 6 (7)
    • ►  tháng 5 (16)
    • ►  tháng 4 (25)
    • ►  tháng 3 (28)
    • ►  tháng 2 (10)
    • ►  tháng 1 (15)
  • ►  2022 (409)
    • ►  tháng 12 (10)
    • ►  tháng 11 (15)
    • ►  tháng 10 (15)
    • ►  tháng 9 (16)
    • ►  tháng 8 (20)
    • ►  tháng 7 (18)
    • ►  tháng 6 (56)
    • ►  tháng 5 (52)
    • ►  tháng 4 (69)
    • ►  tháng 3 (69)
    • ►  tháng 2 (41)
    • ►  tháng 1 (28)
  • ►  2021 (79)
    • ►  tháng 12 (5)
    • ►  tháng 11 (2)
    • ►  tháng 10 (4)
    • ►  tháng 9 (6)
    • ►  tháng 8 (8)
    • ►  tháng 7 (10)
    • ►  tháng 6 (4)
    • ►  tháng 5 (5)
    • ►  tháng 4 (7)
    • ►  tháng 3 (11)
    • ►  tháng 2 (12)
    • ►  tháng 1 (5)
  • ►  2020 (98)
    • ►  tháng 12 (6)
    • ►  tháng 11 (5)
    • ►  tháng 10 (14)
    • ►  tháng 9 (19)
    • ►  tháng 8 (15)
    • ►  tháng 7 (7)
    • ►  tháng 6 (4)
    • ►  tháng 5 (3)
    • ►  tháng 4 (9)
    • ►  tháng 3 (5)
    • ►  tháng 2 (6)
    • ►  tháng 1 (5)
  • ►  2019 (60)
    • ►  tháng 12 (3)
    • ►  tháng 11 (2)
    • ►  tháng 10 (3)
    • ►  tháng 9 (4)
    • ►  tháng 8 (4)
    • ►  tháng 7 (4)
    • ►  tháng 6 (7)
    • ►  tháng 5 (7)
    • ►  tháng 4 (7)
    • ►  tháng 3 (5)
    • ►  tháng 2 (9)
    • ►  tháng 1 (5)
  • ►  2018 (35)
    • ►  tháng 12 (7)
    • ►  tháng 11 (3)
    • ►  tháng 10 (1)
    • ►  tháng 9 (2)
    • ►  tháng 8 (2)
    • ►  tháng 7 (3)
    • ►  tháng 6 (2)
    • ►  tháng 5 (7)
    • ►  tháng 4 (5)
    • ►  tháng 3 (2)
    • ►  tháng 1 (1)
  • ►  2017 (89)
    • ►  tháng 12 (3)
    • ►  tháng 11 (4)
    • ►  tháng 10 (3)
    • ►  tháng 9 (6)
    • ►  tháng 8 (8)
    • ►  tháng 7 (6)
    • ►  tháng 6 (9)
    • ►  tháng 5 (5)
    • ►  tháng 4 (7)
    • ►  tháng 3 (12)
    • ►  tháng 2 (13)
    • ►  tháng 1 (13)
  • ►  2016 (269)
    • ►  tháng 12 (9)
    • ►  tháng 11 (16)
    • ►  tháng 10 (10)
    • ►  tháng 9 (24)
    • ►  tháng 8 (25)
    • ►  tháng 7 (24)
    • ►  tháng 6 (29)
    • ►  tháng 5 (26)
    • ►  tháng 4 (26)
    • ►  tháng 3 (40)
    • ►  tháng 2 (29)
    • ►  tháng 1 (11)
  • ►  2015 (254)
    • ►  tháng 12 (23)
    • ►  tháng 11 (34)
    • ►  tháng 10 (15)
    • ►  tháng 9 (25)
    • ►  tháng 8 (17)
    • ►  tháng 7 (8)
    • ►  tháng 6 (13)
    • ►  tháng 5 (14)
    • ►  tháng 4 (18)
    • ►  tháng 3 (27)
    • ►  tháng 2 (3)
    • ►  tháng 1 (57)
  • ▼  2014 (171)
    • ►  tháng 12 (17)
    • ►  tháng 11 (20)
    • ►  tháng 10 (13)
    • ►  tháng 9 (15)
    • ►  tháng 8 (24)
    • ►  tháng 7 (20)
    • ▼  tháng 6 (22)
      • TỨ DIỆU ÐẾ (Bốn chân lý cao cả)      N...
      • Quán ăn hai ngàn đồng:  Lòng nhân ái vẫn như mạc...
      • Mười điều thiết yếu của người tu pháp Niệm Phật.
      • Tràng An - Bái Đính      Quần thể danh lam thắn...
      • Phổ-Hiền Bồ-Tát
      • NHỮNG CÁI VUI TRONG ĐẠO PHẬT
      • Lời mẹ dặn
      • Một số thực phẩm tăng trí thông minh có lợi cho s...
      • Bát-nhã-ba-la-mật-đa tâm kinh  Trích từ http://v...
      • Bài thuyết pháp đầu tiên của Đức Phật
      • Ý NGHĨA HÌNH ẢNH HOA SEN *** Nhà Phật r...
      • MÌNH LÀ CÁI GÌ?
      • CƯƠNG YẾU ĐỂ TU Hôm nay thể theo lời mời...
      • Đừng quên chăm sóc bản thân, dù bất cứ hoàn cảnh ...
      •  ĐẠO PHẬT  LÀ ĐẠO NHƯ THẬT </
      • Hoa sen tuyết hiếm thấy tại Himalaya Đọc t...
      • PHẬT DẠY 20 ĐIỀU KHÓ     Như chúng ta đã biết,...
      • Tháng 6 ở Tam Cốc - Ninh Bình      Mỗi dịp thán...
      • TÌM THẤY HÀ ĐỒ - KINH DỊCH TRÊN TRỐNG ĐỒNG ĐÔNG SƠN
      • 14 điều răn của nhà Phật
      • Chùa Việt (phần 12 : Vài nét về cách xưng hô trong...
      • Kinh nghiệm du lịch Nha Trang BY ANDY NGUYEN · M...
    • ►  tháng 5 (11)
    • ►  tháng 4 (6)
    • ►  tháng 3 (14)
    • ►  tháng 2 (8)
    • ►  tháng 1 (1)

Tổng số lượt xem trang

Tìm kiếm Blog này

Cuộc sống muôn màu

Một cách nhìn khác về người Hà Nội (mang tính tham khảo)

* Những đoạn có ... là tránh đi úy kỵ, không phù hợp. Người Hà Nội không hẳn là phải sinh và lớn lên ở Hà Nội. Người Hà Nội bây giờ l...

Cuộc sống muôn màu

  • Cổ vật khảm xà cừ Việt Nam
    Góp nhặt trên net. Khảm xà cừ  hay  cẩn xà cừ  là một nghề thủ công của  Việt Nam  đã thấy nhắc trong sử sách từ thế kỷ thứ 3-5, thời kỳ Bắc...
  • Vài điều có ích trong cuộc sống
     st trên net 1. Nếu bạn đang tìm kiếm thứ gì đó, hãy cố gắng nhìn từ phải sang trái. Bởi vì nếu bạn nhìn từ t...
  • Chuyến đi Hà Nội - Bắc Sơn - Đình Cả - Thái Nguyên
        Chuyến đi này đã thực hiện lâu rồi. Hôm nay nhìn thấy chum phim chụp máy cơ đầy gần nắp, nản quá - bao nhiêu công sức, tiền bạc cùng nh...
  • Sau núi có gì anh ơi ? (chuyến đi dở dang) - Phần 2
    Tuấn Long ( Tới tận năm 2012 mình vẫn dùng máy chụp phim, phần lớn là chưa số hóa, nên ảnh trong thời gian này mình phải mượn trên net để mi...
  • Những cái mất khi vào viện dưỡng lão
     st trên net, có công của AI grok 3.   Đây là một câu chuyện dài, thật buồn rất đáng đọc; nhưng cũng là một bài học lớn về việc yêu thươ...
  • Các bước làm dao thép cơ bản
         Thích chơi dao nên tự làm dao, vì thông thường các con dao tốt, dáng đẹp rất hiếm ( hiện nay ) mà toàn nhập ngọai. Vì thế mới mày m...
  • Cái áo cà sa và tên cướp
      Chuyện xưa kể ɾằng, có một Tráng sỹ bôn tẩu giang hồ. Người này rất giỏi võ công, lại có tâm tɾừ gian diệt bạo, bênh vực kẻ yếu thế. Ngày ...
  • Kiếm trong văn hóa phương Đông: Từ linh hồn sắt đá đến biểu tượng quyền uy
     Dựa vào nhiều tài liệu và hình ảnh để minh hoạ Trong văn hóa phương Đông, thanh kiếm không đơn thuần là vũ khí – nó mang linh hồn, sự t...
  • Sự khác biệt giữa Baking Powder và Baking Soda
       Do bạn Phương Thảo sưu tầm và chia sẻ.     Baking soda ( muối nở ) và baking powder ( bột nở, bột nổi ) đều là những chất được sử dụng ...
  • BÀI THIỀN THU LỬA TAM MUỘI
    1. CHỌN TƯ THẾ NGỒI    Ngồi ở tư thế nào cho thoải mái nhất để có thể tĩnh lặng được lâu. Toàn thân thả lỏng, đầu và thân thành một đườn...

NHÃN - TAG CLOUD:

Văn hóa (293) Cuộc sống muôn màu (286) Phật giáo (212) Lịch sử (155) Sức khỏe thường thức - Dưỡng sinh (129) Sức khỏe (126) Hà Nội (121) Du lịch - Giang hồ (117) Nhiếp ảnh (100) Kiến thức chung (99) Nếp xưa (95) Tâm sự (78) Nhìn và Ngẫm (75) Văn học (68) Sức khỏe thường thức (63) Thực phẩm - Dinh Dưỡng và Ẩm thực (54) Mẹo vặt - Khoa học thường thức (50) Sức khỏe thường thức - Dược phẩm (49) Ẩm thực (47) Chính trị - Xã hội (46) Mỹ thuật (44) Thiền (41) Khoa học Huyền bí (38) Thú chơi (35) Văn học - Nghệ thuật (34) Hòa Thượng Thích Thanh Từ (32) Gia đình (28) Kiến trúc (28) Truyện - Tiểu thuyết (28) Vũ khí các loại (26) Cơ khí (22) Quốc phòng - An ninh (22) Tâm sự và Ngẫm (22) Thư giãn - Giải trí (19) Võ thuật (19) Khoa học - Công nghệ (18) Thuốc Nam (18) Dưỡng Tâm vá Thiền (14) Thiên nhiên (13) Thủ công - Handmade (12) Việc đời muôn sự (11) Quốc tế (10) Thiền - Khí công (8) LUẬT (7) Thực phẩm và Dược phẩm (6) Thực phẩm (5) TDTT và Dưỡng sinh. (3) Nhật ký (2)
Copy right by TuanLong 2014. Chủ đề Trừu tượng. Được tạo bởi Blogger.