ĐẠO PHẬT
LÀ ĐẠO NHƯ THẬT
Buổi giảng hôm nay, chúng ta
nói về đề tài đạo Phật là đạo như thật. Quí vị nghe hiểu và ứng dụng tu hành,
để mỗi ngày mỗi tiến hơn trên đường giác ngộ giải thoát.
Đức Thế Tôn sau khi giác ngộ
thành Phật, Ngài vì thương tất cả chúng sanh, nên những gì thấy biết, Ngài muốn
đem chỉ dạy lại hết cho tất cả mọi người đều thấy, biết và được giải thoát sanh
tử như Ngài. Vì vậy giáo lý Phật nói là giáo lý chuyên dạy tu hành để thoát ly
sanh tử.
Sau khi thành đạo, đức Phật
nhìn lại kiếp sống của con người thật là đau khổ. Nổi đau khổ đó không chỉ đói
cơm, rách áo mà là nổi khổ trầm luân sinh tử muôn đời muôn kiếp, không ra khỏi
được. Trong kinh A Hàm, đức Phật dạy rất rõ: “Nước mắt chúng sanh nhiều hơn
nước biển” . Hoặc có khi Phật nói: “Ở trong địa ngục bị thiêu đốt chưa phải là
khổ, làm trâu ngựa kéo cày bị đòn bị đánh chưa phải là khổ, làm ngạ quỉ đói
khát lang thang chưa phải là khổ. Chỉ người si mê không biết lối đi mới thật là
khổ”.
Chúng ta thử nghiệm lại ý
nghĩa Phật nói qua hai câu trên như thế nào? “Nước mắt chúng sanh nhiều hơn
nước biển”. Phật nói như vậy có quá đáng không? Bởi tất cả chúng ta mang thân
thể nầy, hình vóc nầy, chúng ta tự hào mình đẹp, khỏe mạnh, vui tươi v.v… ngở
mình là như vậy. Nhưng với con mắt giác ngộ của Phật thì thấy thân chúng ta
hiện mang đây là thân tạm bợ, giả dối mà chúng ta lầm tưởng thật là qui. Tại
sao vậy?
Nếu tôi thường nói, thân của
chúng ta hiện giờ là do tứ đại, đất nước gió lửa kết hợp mà thành. Chất cứng
trong người là đất, chất ướt trong người là nước, chất động trong người là gió,
chất ấm trong người là lửa. Thiếu một trong bốn thứ đó thì chúng ta chết ngay.
Như vậy sống là do tứ đại bên trong kết hợp với tứ đại bên ngoài phụ trợ hằng
giờ hằng phút.
Như hiện giờ quí vị cứ ngở
mình đang ngồi thảnh thơi, không làm gì hết. Nhưng thật ra quí vị đang làm việc
đó chứ. Lỗ mũi hít vô thở ra, hít vô thở ra, có khi nào không thở đâu. Nếu thở
ra mà không hít vô thì chết mất. Vậy chúng ta ngồi tưởng là thảnh thơi, tưởng
là vui sướng, nhưng thực sự vừa ngồi vừa mượn không khí đem vô trả ra, đem vô
trả ra. Cứ mượn trả đều đều như vậy. Một lát chúng ta phải uống tách nước. Uống
vô chừng vài ba tiếng lại phải trả ra. Chúng ta dùng cơm, dùng các thức ăn có
chất bột là mượn đất. Đem vô rồi cũng phải trả ra. Đó là máy tốt, chớ nếu máy
xấu, đem vô mà không trả ra được cũng khổ. Cho nên chúng ta đang làm việc liên
tục mà không biết.
Sự sống của chúng ta là sự
sống vay mượn. Sự sinh tử của chúng ta cũng đều là sự sinh tử vay mượn. Mượn
đất, mượn nước, mượn gió, mượn lửa để nuôi dưởng thân nầy. Còn mượn còn trả là
còn sống. Nếu trả ra mà không mượn lại là chết. Như vậy do vay mượn tứ đại để
có sự sống, thì cái gì là thật mình. Không thật mà tưởng là thật, đó là ảo
tưởng.
Phật nói thân ngũ uẩn do
duyên hợp hư giả nên không có ngã. Đó là thuyết vô ngã. Nhiều người không hiểu
nghe nói thân nầy vô ngã, liền nghĩ vô ngã là không có ta. Nếu không có ta thì
cái gì biết đau khi mình va chạm. Cho nên vô ngã là không có một chủ thể cố
định.. những gì do duyên hợp thì không có chủ thể, không cố định. Ví như cái
đồng hồ, nếu chịu khó mở ra thì thấy chỉ là một nhóm các thư ráp lại, tạm gọi
là đồng hồ. Đồng hồ chỉ là giả hợp chứ không có chủ thể. Nếu có chủ thể thì nó
phải nguyên vẹn, không đợi duyên hợp.
Thân chúng ta cũng vậy, duyên
hợp tạm có, khi duyên tan thì thân nầy cũng rã ra. Như vậy, nói thật được
không, cái gì là chủ thể? Chữ ngã tức là thừa nhận có một chủ thể nguyên vẹn.
Không có chủ thể nguyên vẹn thì gọi là vô ngã. Nên biết vô ngã là không có chủ
thể, chứ không phải không có giả tướng duyên hợp.
Trong kinh Niết Bàn đức Phật
dùng ví dụ tứ xà đồng nhiếp, tức là bốn con rắn ở chung trong một cái giỏ. Có
người chủ đem bốn con rắn độc nhốt chung ở trong một cái giỏ. Ông cứ đem thức
ăn đến nuôi nó. Đứa nào chống cự thì ông tìm cách can khuyên, giải hòa cho nó
không còn chống sự nhau. Thế nhưng bốn con rắn đó cứ chống cự nhau hoài, không
lúc nào chịu yên, nên người chủ nuôi rắn rất cực. Phải săn sóc cho nó ăn uống,
rồi phải điều hòa cho nó không có chống cự nhau. Nhưng một ngày nào cái giỏ lủng,
bốn con rắn mạnh đứa nào đứa nấy chạy đi.
Phật thí dụ thân tứ đại của
chúng ta: đất, nước, gió, lửa hợp thành như cái giỏ chứa bốn con rắn. Bốn chất
nầy hòa nhau hay luôn luôn chống đối mâu thuẩn nhau. Lửa với nước, gió với đất
luôn nghịch nhau. Nước nhiều thì lửa tắt, lửa nhiều thì nước khô… Cho nên trong
người nóng quá thì phải kiếm đồ mát uống vô mới yên. Còn trong người nước nhiều
quá, thì phải ăn đồ ấm cho hòa lại. Mỗi khi trúng gió rêm đau cả người, phải
cạo gió cho nó giãn nhẹ lại. Như vậy, trong cuộc sống hiện giờ, chúng ta là một
anh thợ nuôi rắn với hai công việc, cho ăn và điều hòa nó.
Một người lo điều hòa bốn con
rắn nghịch nhau thì sung sướng hay đau khổ? Thế mà giỏ lủng, mấy con rắn chạy
đi thì tiếc, lại kiếm bốn con rắn khác nuôi nữa. Cứ như thế, đời nầy đời nọ
liên tục, cộng lại khổ chừng bao nhiêu. Nên cuộc sống của chúng ta thật giống
như con dã tràng xe cát biển đông. Nuôi thân nầy, lo cho thân nầy đủ thứ, như
vậy đã cực rồi nhưng tới chừng hết duyên, thân rã rồi lại thương tiếc, muốn tìm
thân khác.
Cứ mỗi lần được thân, lo cho
thân: ta khổ. Mỗi lần mất thân: ta cũng khổ. Mỗi lần khổ như vậy thì chúng ta
rơi nước mắt. Nước mắt rơi một đời, hai đời cho tới vô số đời cộng lại thì
nhiều hơn nước biền. Chúng ta cứ ngỡ Phật nói quá đáng, làm sao đời người mà
nước mắt nhiều hơn nước biển được. Chẳng qua đức Phật muốn chỉ nổi khổ trầm
luân muôn kiếp của chúng sanh không biết đâu là cùng tận .
Cho nên mục đích của chúng ta
là giải thoát sanh tử, để giải khổ trầm luân chứ không phải tu để giải quyết
việc ăn mặc. Như vậy giải thoát khỏi nghiệp không phải là chuyện tưởng tượng mà
là sự thực. Muốn cứu khổ chúng sanh đức Phật dạy chúng ta phương pháp tu, để
không còn cố chấp thân năm uẩn nầy là ta. Có thể khi thân nầy rã rời mới không
tiếc giữ, không còn tiếp tục sinh thân khác nữa. Đó là giải thoát sanh tử.
Muốn được vậy chúng ta phải
biết lối đi, phải biết pháp tu chứ không chỉ tưởng tượng. Cho nên đức Phật nói:
“Ở trong địa ngục bị thiêu đốt chưa phải là khổ, làm trâu ngựa kéo cày bị đòn
bị đánh chưa phải là khổ, làm ngạ quỉ đói khát lang thang chưa phải là khổ. Chỉ
người si mê không biết lối đi mới thật là khổ”. Gốc của khổ là si mê. Do si mê
nên chấp thân thật, vì vậy thân nầy mất liền chụp thân khác. Cứ thế đời đời đi
trong sanh tử không cùng.
Chúng ta tu Phật, ai ai cũng
đều mong được giải thoát sanh tử. Nhưng muốn giải thoát trước phải giác ngộ.
Giác ngộ là thấy, biết đúng như thật về con người và mọi sự vật chung quanh.
Như biết các pháp vô ngã, do duyên hợp không có chủ thể. Thân nầy cũng vậy,
không thật. Nếu thấy biết đúng như vậy thì không đắm luyến, chạy theo ngoại
cảnh và chấp giữ thân. Ngược lại, nếu không thấy đúng như thật, chúng ta cứ tạo
nghiệp sanh tử không có ngày cùng. Vì vậy, Phật thương xót, muốn cho chúng ta
thức tỉnh, thấy đúng như thật, để không bị nhiễm nhơ, không bị khổ trong luân
hồi sanh tử nữa. Đó là giải thoát sanh tử.
Muốn thấy đúng như thật chúng
ta phải có trí tuệ. Mỗi tối quí vị tụng Tâm kinh Bát nhã, trong đó câu “Quán Tự
Tại Bồ tát, hành thâm Bát-nhã-ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không,
độ nhất thiết khổ ách”. Nghĩa là Bồ tát quán Tự Tại khi thực hành sâu trí tuệ
Bát nhã rồi, Ngài xem thấy năm uẩn là không, cho nên vượt qua hết khổ nạn. Bây
giờ quí vị đọc thuộc lòng, nhưng đã hết khổ nạn chưa? Chẳng lẽ Phật nói không
thật, tại sao chúng ta lại không hết khổ?
Đó là điều tôi muốn chỉ cho
quí vị thấy. Phật dạy là chân lý, là lẽ thật nhưng vì chúng ta hiểu, làm chưa
đúng nên không hết khổ. Khi xưa tôi đọc bài giảng về Bát nhã của Ngài Thái Hư,
tôi thấy Ngài dùng thí dụ thật hay. Bát nhã có chia làm ba phần: Văn tự Bát
nhã, Quán chiếu Bát nhã, Thật tướng Bát nhã. Văn tự là bước đầu, Quán chiếu là
bước thứ hai, Thật tướng là bước thứ ba tức là cứu kính. Như vậy đọc Bát nhã
phải biết từng thứ bậc. Nhưng chúng ta thường chỉ hài lòng ở chỗ Văn tự thôi.
Đọc thuộc đủ rồi, bỏ hai giai đoạn sau.
Trong kinh Bát nhã nói phải
chiếu kiến ngũ uẩn đều không mới qua hết khổ nạn. Chúng ta chỉ có văn tự, không
quán chiếu thì làm sao hết khổ nạn. Như vậy lỗi tại ai? Lỗi tại chúng ta chưa
làm đến nơi đến chốn, chưa nhận đủ ý nghĩa Phật dạy. Nên Ngài Thái Hư dùng thí
dụ, như có người muốn qua sông gấp, khi xuống thuyền sẳn chèo sẳn dầm, mà không
chịu bơi, không chịu chèo. Cứ ngồi đợi mãi thì qua sông được không? Chiếc
thuyền dụ cho Văn tự Bát nhã, chèo dầm là dụ cho Quán chiếu Bát nhã, tới bờ kia
là dụ cho Thật tướng Bát nhã. Chúng ta chỉ tụng thuộc lòng bao nhiêu đó cho là
đủ rồi. Năm nầy tới năm khác, tu hoài mà vẫn không hết khổ nạn. Bởi vì có chèo
thuyền đâu mà đến được bờ kia. Bây giờ nếu chịu khó chiếu kiến, tức là soi kỹ
năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Xem thấy những thứ đó duyên hợp, hư dối
không có chủ thể, nên tuy nó hiện có nhưng chỉ là thân tạm bợ giả dối. Thấy
thân tạm bợ giả dối thì có ai chửi mình không giận, ai khinh mình không buồn.
Bởi thân còn không thật thì lời chửi lời khinh kia có nghĩa gì đâu.
Chúng ta tu mà không quán
chiếu, cứ hài lòng trong việc đọc tụng hằng thắng hằng năm. Rồi nói tôi tu mấy
chục năm mà mù mù, mịt mịt không giải thoát tí nào cả. Tại chúng ta tu không
đúng với lời Phật dạy, làm sao giải thoát được. Phật bảo chỉ cần soi thấy năm
uẩn đều không, thì hết đau khổ. Đó là thấy bằng trí tuệ, trí tuệ biết rõ các
pháp duyên hợp không có tự thể. Do không có thực thể, duyên hợp tạm có, chứ không
phải là không.
Ví như bên hồ nước trong vào
đêm rằm. Đứng trên bờ ta nhìn thấy bóng mặt trăng dưới đáy hồ là thật có hay
thật không, chúng ta trả lời làm sao? Nếu nói thật có, tại sao đưa tay vớt
không được. Nếu nói thật không, tại sao mắt thấy mặt trăng rõ ràng dưới đáy hồ.
Vì vậy chúng ta không khẳng định thật có hay thật không. Đó chỉ là bóng mặt
trăng hư giả, tạm có không thật. Mặt trăng thật ở trên. Thấy như vậy là thấy
đúng lẽ thật. Cho nên tánh không của Bát nhã không phải là không ngơ. Đó là tánh
duyên khởi của các pháp.
Khi quán chiếu thấy thân tạm
bợ giả dối, không thật thì qua hết các khổ. Chứ không phải tụng kinh mà hết khổ
được. Tụng kinh thì dùng văn tự để quán chiếu. Quán chiếu thấu đáo rồi chúng ta
mới hết khổ. Như vậy người muốn qua sông thì phải chèo thuyền. Chừng nào tới bờ
rồi, tức là đã đạt được mục đích, mới gọi là đến chỗ Thật tướng.
Chúng sanh luôn vui trong cái
giả tạm, mà không ngờ nổi khổ đã ngấm ngầm ở bên trong. Dù cho của có chất bằng
núi, nhưng khi bệnh chết chúng ta có đổi được không? Đó là một lẽ thật. Phật
chỉ cho chúng ta muốn thấy lẽ thật ấy phải dùng con mắt trí tuệ. Bát nhã chính
là trí tuệ.
Mỗi đêm chúng ta tụng Bát nhã
mà không có trí tuệ gì hết vì đó chỉ là Văn tự Bát nhã thôi. Cần phải tiến sang
bước thứ hai là Quán chiếu Bát nhã. Có Quán chiếu mới đi đến Thật tướng Bát
nhã. Cho nên người đã hành thâm Bát nhã rồi thì khi chết, các Ngài xem như trò
chơi, vui vẻ cười ra đi. Còn chúng ta gần chết thì khổ sở, rên la đủ hết. Đó là
do thấy thân thật nên sắp mất sợ hãi, khổ đau vì tiếc thân. Đây chính là lý do
để có thân đời sau. Như vậy để thấy si mê của con người thật đáng thương!
Lời Phật dạy không phải là
lời nói suông mà là lời nói như thật. Chỉ vì chúng ta hiểu sai, làm sai nên tu
không có kết quả, chứ lời Phật dạy không bao giờ sai. Người thấy đúng như thật
là người trí tuệ. Người thấy sai lầm là người si mê. Trên đường tu, chúng ta
phải mở sáng con mắt trí tuệ thì mới hết đau khổ. Đó là điều tất yếu.
Trong nhà Phật thường nói lý
nhân quả. Như gieo nhân nào thì được quả nấy. Song thật ra nhân quả cũng không
thật có cố định. Đứng về mặt thời gian thì có quá khứ, hiện tại, vị lai. Đứng
về mặt không gian, tức là nhân duyên thì có các duyên tụ hợp lớn, nhỏ… Đức Phật
nói tất cả sự việc đều đi từ nhân đến quả, chứ không có cái ngẩu nhiên. Nhân
quả có nhiều mặt, từ cạn đến sâu.
Thí dụ anh nông phu lựa giống
tốt, anh cứ ngở gieo giống tốt sẽ gặt được quả tốt. Nhưng đến mùa, anh gặt kết
quả rất ít oi. Như vậy nhân quả không giống nhau. Đó là vì anh không hiểu nhân
quả có nhiều mặt, thuận nhân, nghịch nhân, chánh nhân, trợ nhân. Hạt giống tốt
là chánh nhân; khi gieo xuống đất, chúng ta còn phải săn sóc đàng hoàng, cộng
thêm có phân bón, có nước, nhổ cỏ, bắt sâu rầy… Những trợ nhân đó đầy đủ thì
thu hoạch mới đúng như mình mong muốn. Có chánh nhân mà thiếu trợ nhân thì
không được kết quả tốt hoàn toàn. Rồi còn thuận nhân, nghịch nhân. Thuận nhân
là mưa thuận gió hòa. Ngược lại cây lúa gieo xuống mà bị sâu bị rầy phá là
nghịch nhân. Nếu gặp nghịch nhân mà mình không trừ được thì kết quả cũng không
có gì.
Như vậy gieo nhân rồi, còn
phải có chánh trợ thuận ngịch nữa, chứ không phải gieo nhân là được quả liền.
Người ta hay nói gieo nhân nào thì gặt quả nấy. Tuy nhiên nếu gieo nhân mà
không đủ các duyên phụ trợ thì không được kết quả như ý đâu. Có trợ mà bị
nghịch duyên thì cũng không có kết quả như ý. Nên biết nhân quả rất đa dạng,
chứ không phải chỉ có một chiều.
Nếu một người làm ruộng cứ
nghĩ rằng mình làm ăn được mùa là nhờ trời Phật gia hộ, chứ mình không có tài
cán gì. Nếu nghĩ thế thì không nhổ cỏ, không vô nước, không bón phân v.v… thử
xem trời Phật có cho trúng không? Nên phần nhiều người ta hiểu nhân quả thật
nông nổi.
Trên thế gian nầy có sự vật
nào tự nó thành hình mà không cần nhân quả không? Cuộc sống của chúng ta cũng
vậy. Không phải bổng dưng có chuyện khổ hoặc bổng dưng có chuyện vui đến với
chúng ta. Cái khổ cái vui đến với chúng ta đều từ nhân thành quả. Như chúng ta
thấy một người gặp cơn hoạn nạn khó khổ, chúng ta thương muốn giúp đỡ họ. Người
được giúp đỡ qua cơn hoạn nạn rồi thì họ quí mến chúng ta. Sự quí mến biết ơn
đó là quả tốt. Vậy quả tốt đó từ đâu ra, từ mình biết gieo nhân tốt, giúp đỡ
người gặp hoạn nạn.
Nếu mình xử sự xấu tệ với mọi
người, thì có ai thương quí mình không? Hẳn là không. Nên nhân xấu không đem
lại quả tốt. Nhưng có nhiều người đến hỏi tôi: “Thưa thầy, con là Phật tử con
rất tin nhân quả. Từ khi bắt đầu lớn khôn con biết sợ quả ác nên không dám tạo
nhân dữ, luôn tạo nhân lành. Nhưng sao tới bây giờ, con đã già mà thấy phần
nhiều quả xấu, không thấy quả lành. Như vậy nhân quả có đúng không?”
Tôi đáp: “Đạo hữu nói vậy là
không hiểu nhân quả. Nếu hiểu nhân quả thì phải hiểu nhân quả có trong ba thời
quá khứ, hiện tại, vị lai. Ví như có một chủ phố vừa bán căn nhà trong dãy phố.
Người mua căn nhà ấy mở tiệm làm ăn ngày càng phát đạt. Đến cuối năm, hàng xóm
lại hỏi: “Năm nay anh làm ăn dư dã nhiều không? Người chủ tiệm nói: “Tôi suốt
năm nay mà còn thiếu nợ một ít”. Tại sao làm ăn phát đạt mà lại nói thiếu nợ?
Bởi vì hồi mua căn phố nầy, người ấy đã vay nợ. Cho nên bây giờ làm có tiền
nhưng trả chưa hết thì vẫn còn thiếu nợ. Nhân ví dụ nầy, người Phật tử ấy hiểu
ra.
Chúng ta không thể định đoạt
nhân quả trong một đời mà phải liên hệ tới quá khứ, vị lai. Ngày nay chúng ta
làm lành mà vẫn gặp tai nạn, gặp khó khăn thì biết nợ đời trước mình trả chưa
hết. Do đó không nên trách trời trách đất, mà phải can đảm nhận lấy trách nhiệm
cũ của mình. Quả đến thì chịu, trả hết đừng vay thêm. Hiện tại mình cứ gieo
nhân tốt, không bận lòng vì những nhân xấu. Trả hết quả xấu rồi thì quả tốt nó
sẽ đến thôi. Cũng như anh vay tiền mua nhà, làm cả năm mà trả chưa hết nợ,
nhưng cứ hoan hỉ trả. Năm nay trả chưa rồi thì năm tới trả, trả mãi cũng sẽ hết.
Nhân quả liên hệ tới ba đời,
nên có những oan trái chúng ta không gây trong đời nầy mà nó vẫn đến với chúng
ta. Chúng ta phải hiều và can đảm nhận trách nhiệm của mình. Như vậy là chúng
ta tin sâu lý nhân quả, sống được với lý nhân quả. Đó là điều hết sức rõ ràng.
Ngày nay chúng ta làm những
điều hay, điều tốt mà không hưởng được gì cũng đừng sợ. Nó sẽ không mất đâu.
Khi trả hết nợ cũ, quả tốt sẽ đến với mình. Vì nhân quả đời nầy chưa hưởng thì
đời sau sẽ hưởng. Ba thời luôn liên hệ chặt chẽ với nhau. Hiểu như vậy, chúng
ta trở thành con người can đảm, gan dạ. Mình gây nhân thì chịu quả, chứ không
trốn tránh sợ sệt. Những gì đến với mình, mình sẳn sàng chấp nhận, không giận
không hờn ai hết. Đó là tu, là chuyển nghiệp.
Chúng ta có bệnh tin nhân quả
thì tin nhưng giúp đỡ ai một thời gian, người đó làm trái ý mình thì mình giận,
thù, đủ thứ hết. Mình cho người đó là kẻ xấu xa, tội lỗi. Không ngờ đó là nợ cũ
mình phải trả. Nếu hiểu được lý nhân quả thì chúng ta sẽ có cách xử sự tốt
trong cuộc sống. Bằng ngược lại, chúng ta tự chuốc lấy khổ đau.
Không hiểu lý nhân quả thì
cũng không hiểu được thuyết luân hồi. Người ta cứ cho rằng luân hồi là sự tưởng
tượng, không phải lẽ thật. Làm sao biết đời nầy mình làm lành, làm dữ thì đời
sau trở lại lãnh thọ quả báo ấy. Nhưng thuyết luân hồi trong đạo Phật nói là
một lẽ thật. Luân là bánh xe, hồi là xoay tròn. Luân hồi là bánh xe xoay tròn.
Trong con người, máu từ tim
chạy ra khắp châu thân rồi trở lại tim. Tim lại đưa máu ra khắp châu thân… Cứ
như vậy mà tuần hoàn, đó có phải là luân hồi không? Quả địa cầu chúng ta sống
đây, nó đứng yên hay cứ xoay? Chẳng những nó xoay quanh mặt trời, mà nó còn tự
xoay quanh nó nữa. Như vậy thuyết luân hồi không phải là sự tưởng tượng mà nó
là một lẽ thật. Từ con người cho tới quả địa cầu đều luân hồi. Đó là luân hồi
vật chất.
Đến luân hồi về tinh thần.
Chúng ta chết đi có phải là mất không? Người ta nói sau khi chết mình còn linh
hồn. Nói linh hồn là chưa hiểu đạo Phật. Tại sao? Bởi người ta cho rằng linh
hồn anh A thì từ thủy chí chung nó vẫn như vậy thôi, không bao giờ thay đổi. A
là A, nó như vậy. Đời nầy chết, đời sau trở lại cũng A luôn. Nghĩa là từ đời
nầy qua đời kia linh hồn luôn nguyên vẹn. Nếu nguyên vẹn như vậy thì người mãi
là người, chó mãi là chó, không thể nào đổi khác được. Đã không đổi khác thì
cần gì phải tu, cần gì làm lành tránh ác. Cho nên hiểu như vậy thật là một nguy
hại lớn. Vì trong nhà Phật không dùng từ linh hồn, mà dùng từ nghiệp thức.
Nghiệp thức là những phân
biệt, hiểu biết do nghiệp vận chuyển. Ví dụ một đưa bé khi ở với cha mẹ hiền
lành thì nó là đứa bé tốt. Chẳng may cha mẹ mất sớm, nó phải ở với những người
khác hung dữ tàn bạo, thì lần lần nó cũng bắt chước hung dữ tàn bạo. Như vậy sự
hiểu biết của nó khi còn ở chung với cha mẹ khác với sự hiểu biết khi ở với
người hung dữ. Nó luôn thay đổi như vậy nên đâu còn nguyên vẹn nữa.
Bản thân của chúng ta cũng
vậy, sự hiểu biết của mình lúc còn bé khác với sự hiểu biết khi lớn lên cho đến
lúc già. Nó luôn luôn đổi thay tùy theo duyên tùy theo cảnh. Như chúng ta chưa
đi tu thì chúng ta theo quan niệm người đời tranh hơn, tranh thua đủ thứ. Nhưng
khi đi tu rồi chúng ta biết làm sao cho mọi người được vui… vì vậy mà không
tranh hơn thua nữa. Cho nên sự hiểu biết đó là do nghiệp huân tập của
chính mình. Huân tập nghiệp tốt thì hiểu biết hiểu theo hướng tốt. Huân tập
nghiệp xấu thì hiểu biết chuyển theo hướng xấu. Không có cái nguyên vẹn như
thuyết linh hồn.
Phật bảo trong thế gian có
chia ra làm lục đạo luân hồi: địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh; đó là ba đường dữ.
Trời, người, A-tu-la; đó là ba đường lành. Đường lành, đường dữ là do chúng ta
huân tập nghiệp mà ra. Nghiệp dẫn thần thức đi thọ sanh cho nên gọi nó là
nghiệp thức uẩn. Thọ sanh đời nầy, đời kia, có khi lên, có khi xuống đủ thứ
hết. Nhà Phật gọi đó là nghiệp thức chứ không phải linh hồn. Vì thức là cái đổi
thay do sự huân tập của mình tốt hay xấu.
Chúng ta tu là tạo nghiệp tốt
nên thần thức sẽ dẫn chúng ta thọ sanh chỗ tốt. Như vậy muốn tránh khổ ở ngày
mai thì ngay đời nầy chúng ta phải tạo nghiệp lành, tránh nghiệp dữ. Nói như
vậy quí vị sẽ có thắc mắc. Như người tu Tịnh độ niệm Phật cho tới Nhất tâm bất
loạn. Hoặc tu Thiền đến chỗ định tâm, không còn khởi nghĩ tốt xấu, thiện ác,
như vậy khi lâm chung đi đâu? Còn nghĩ là còn theo nghiệp. Hết nghĩ thì hết
nghiệp. Không nghĩ thiện, không nghĩ ác; đó là chỗ Lục Tổ được tâm ấn nơi
Ngũ Tổ rồi. Tôi xin nhắc lại tích truyện nầy một chút.
Khi được y bát ở Ngũ Tổ rồi,
Lục Tổ đi về phương Nam .
Dọc đường có một đoàn người đuổi theo, trong đó người đi đầu là Thượng tọa Minh
ở chùa Quỳnh Mai. Hồi xưa ông là một tướng cưỡi ngựa giỏi nên đuổi theo kịp. Tổ
thấy rồi, Ngài để y bát trên bàn đá, chung vào bụi cỏ ẩn. Thượng tọa Minh đến
nơi, thấy y bát mừng quá vội ôm lên nhưng ôm không nổi. Lúc đó ông biết đây là
vật cao siêu, không biết lấy tâm tầm thường mà giành, nên ông vội quì xuống
thưa: “Hành giả, hành giả! Tôi đến đây vì pháp, chứ không phải vì y bát”. Lục
Tổ ẩn trong bui liền đi ra nói: “Nếu như vì pháp thì ngươi hãy đứng yên lặng
một chút, ta sẽ nói cho nghe”. Thượng tọa Minh đứng yên lặng giây lâu, Lục Tổ
bảo: “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái gì là Bản lai diện mục của
Thượng tọa Minh?” nghe câu nầy Thượng tọa Minh kiền ngộ đạo.
Thiện ác đã dứt thì hai đường
lành dữ cũng dứt. Bấy giờ Chân tâm Phật tánh hiện bày, như vậy là giải thoát
sanh tử rồi, còn thọ sanh ở đâu nữa. Cho nên người mới tu, Phật dạy bỏ nghiệp
ác, làm nghiệp lành để sau khi chết, được sanh cõi lành tu tiếp. Nhưng đối với
người đã có chủng tử tu thuần thục rồi, Phật dạy phải buông cả hai bên, Tâm
thanh tịnh trong lặng. Tâm thanh tịnh trong lặng rồi thì dứt sạch các nghiệp.
Đã hết nghiệp thì đâu còn bị nghiệp dẫn đi trong luân hồi sanh tử nữa. Chừng đó
tùy duyên, mặc tình theo nguyện mà thọ sanh hoặc không thọ sanh.
Cho nên người tu Thiền thì
phải Định, người niệm Phật thì phải Nhất tâm, người trì chú thì phải được Tam
mật. Vì mật mới đi tới chỗ Tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh thì không còn nghiệp
nữa, không còn nghiệp thì giải thoát sanh tử. Song có nhiều người lại luyến
tiếc. Nếu được sanh trong nhà giàu, đẹp đẽ, nhiều tiền của thì sướng quá sao
không chịu sanh, bỏ đi chi uổng. Hoặc giả được sanh lên cõi Trời, muốn gì được
nấy sướng biết mấy, sao không sanh lên đó. Cho nên chúng ta phải hiểu thật
tường tận ý Phật muốn chỉ dạy cho chúng ta.
Trong kinh Phật dạy, nếu chưa
thể giải thoát sanh tử, chúng ta nên nguyện đời sau trở lại làm người, tiếp tục
tu hành, đừng cầu sanh lên cõi Trời. Tại sao? Bởi vì sanh lên cõi Trời muốn gì
được nấy thì không bao giờ nghĩ đến việc tu. Lại tuổi thọ ở cõi Trời quá dài,
khi trở lại làm người đã mất một thời gian lâu nên không tu được gì. Chỉ ở cõi
người khổ vui lẫn lộn nên dễ thức tỉnh, dễ tu. Vì vậy chúng ta dễ tiến trên
đường đạo. Ngay trong đời nầy, những người được sanh ra trong gia đình giàu
sang, được nuông chiều đủ thứ, cũng đã khó tu rồi, huống gì sanh cõi Trời.
Chúng ta muốn tu là phải ở trong cảnh có khổ có vui. Nhờ cảnh khổ nên ta thức
tỉnh mau, mới lo tu hành. Nhờ cảnh vui, tinh thần ta không bị bức bách ép ngặt
nên có thể an sống tu hành.
Tuy nhiên trên đường tu chúng
ta không chỉ hài lòng ở chỗ được sanh cõi lành, mà phải đi tới chỗ dứt sạch
nghiệp. Chỉ còn một Tâm thanh tịnh thôi, đó mới là chỗ cứu kính giải thoát sinh
tử. Nếu chúng ta còn kẹt một chút ham muốn cũng chưa hết dòng sanh tử. Như vậy,
đức Phật dạy khác hơn người đời. Người đời cứ ngỡ rằng nơi con người có hai
phần vật chất và tinh thần. Vật chất là thân và tinh thần là linh hồn. Linh hồn
phải nguyên vẹn từ đời nầy qua đời khác. Với Phật, Ngài không chấp nhận linh
hồn, bởi vì nó chỉ là một phần thần thức theo nghiệp dẫn đi, chuyển biến trong
sanh tử.
Nếu chúng ta chịu nghiền ngẫm
thấu đáo lời Phật dạy thì mới thấy được lẽ thật. Thấy được lẽ thật là mở sáng
con mắt trí tuệ. Nếu chúng ta cứ nghe rồi tin, không nghiền ngẫm quán chiếu thì
không có trí tuệ. Không có trí tuệ thì chúng ta khó đi trên con đường giải
thoát đến nơi đến chốn được. Trí tuệ đó không phải từ đâu đến với chúng ta, mà
nó nằm sẵn ngay nơi mình.
Trong kinh Phật dạy: “Các
ngươi nên tự thắp đuốc lên mà đi. Thắp lên với chánh pháp”. Nếu chúng ta chưa
có trí tuệ thấy đúng như thật, thì phải nương theo chánh pháp để phát triển trí
tuệ của mình. Cũng như cây đuốc của mình chưa cháy, thì phải mồi với ngọn đuốc
đã cháy. Ngọn đuốc đó là chánh pháp. Trí tuệ chúng ta còn mù mịt tối tăm, nên
phải nhờ ánh sáng trí tuệ của Phật. Mồi với chánh pháp thì ngọn đuốc trí tuệ
của mình mới sáng. Có trí tuệ thấy đúng như thật bản thân mình và tất cả sự vật
bên ngoài, chúng ta không còn lầm, không còn mê. Mê lầm không còn thì khổ đau
theo đó hết. Như vậy trí tuệ đưa chúng ta tới chỗ an lành tự tại giải thoát. Đó
là chỗ cứu kính mà chúng ta hằng mong mỏi.
Hàng xuất gia cũng như tại
gia đều phải nắm vững yếu chỉ đó để tu hành, thì mới thấy giá trị của đạo Phật.
Nếu chúng ta hiểu không tới, nhận không rõ thì việc tu mù mờ, rồi hướng dẫn cho
người khác cũng sai lầm, không hết khổ đau được. Cho nên có nhiều người tu càng
lâu càng thấy khổ, chứ không được lợi ích gì hết. Người biết dùng trí tuệ thì
dụng công ít mà kết quả lại nhiều.
Ví dụ dùng con mắt trí tuệ
nhìn cái đồng hồ thì thấy nó không có chủ thể cố định, là giả tạm. Giả sử nó
được mạ vàng mình cũng xem nó là giả. Do giả nên không tham luyến. Ngược lại,
nếu cứ chấp nhận đồng hồ là thật, lại được tô điểm thêm màu mè nữa thì thấy nó
càng đẹp. Do thấy đẹp nên sanh lòng ham muốn. Tham muốn nên giữ gìn sợ mất,
theo đó mà bao nhiêu thứ khổ phát sinh. Như vậy tất cả tội lỗi chúng ta gây ra
gốc từ mê lầm.
Cho nên người học Phật phải
giác, phải có trí tuệ. Nếu chưa giác ngộ được như đức Phật thì ít ra phải có
trí tuệ thấy đúng như thật về những lời Phật dạy. Chúng ta thường tán tụng lời
Phật là lời vàng lời ngọc. Nếu đã là lời vàng ngọc thì không thể dối gạt chúng
sanh. Vậy tại sao Phật nói tu hết khổ mà chúng ta tu hoài khổ vẫn còn khổ? Cho
nên nếu không hiểu tường tận, không áp dụng đúng như lời Phật dạy, chẳng những
chúng ta tự hại mình mà còn làm mất giá trị giáo lý của đức Phật nữa.
Hàng Phật tử tại gia biết tu
thì chính mình trở thành người đức hạnh trong gia đình, một công dân tốt ngoài
xã hội. Đời nầy, đời sau đều đi theo con đường lành. Hàng xuất gia biết rõ phật
pháp, nhìn sự vật và con người bằng con mắt trí tuệ, thì cuộc sống của chúng ta
mỗi ngày mỗi an lành. Sống một ngày là vui một ngày. Khi sắp lâm chung cũng
cười vì được xã bỏ thân giả tạm, thoát khỏi đãy da nhơ thối nầy. Vậy tu là đem
lại nguồn an lành, hạnh phúc miên viễn cho chúng ta và mọi người.
Người biết tu thì cuộc sống
của mình là cuộc sống có ý nghĩa, cuộc sống của người sáng suốt, người thức
tỉnh chứ không phải của kẻ mê lầm nữa. Sống trong cuộc đời đau khổ, trong giành
giựt hơn thua mà chúng ta vẫn an lành tự tại, đó là giá trị chân thật của đạo
đức, của người tu. Tất cả chúng ta đã có phúc duyên đời nầy và đời trước, nên
bây giờ mới gặp nhau trong hội Phật. Nhưng nếu tu mà không đi đúng chánh pháp
thì thật là đáng tiếc.
Mong rằng quí vị nghe hiểu
rồi khéo ứng dụng tu để xứng đáng là con Phật, là trưởng tử của Như Lai, là
người đi trước để nhắc nhở người sau đi đúng đường chư Phật đã dạy. Đó là trách
nhiệm và bổn phận của chúng ta vậy.
***
Hòa thượng. THÍCH THANH TỪ
Đây là bài của một cư sỹ đăng trên trang Học thuật phương Đông - mình xin phép đưa về đây để trước là đọc - hiểu, sau là tùy duyên ai đó đọc để có thêm kiến thức.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét