08/09/2014

Tụng Kinh, Trì Chú, Niệm Phật


A.- Mở đề
Người Phật tử, nếu chỉ thờ, lạy và cúng Phật, thì cũng chưa có thể gọi là thuần thành. Người Phật tử thuần thành còn phải tụng kinh, trì chú và niệm Phật. Vả lại nếu bỏ qua ba phần sau này, thì ba phần trước là thờ, lạy và cúng khó có thể viên dung cả Sự và Lý được.
Vì phần Lý là phần cao siêu khó thực hành, mà nếu chúng ta không tụng kinh, niệm Phật để cho tâm hồn được sáng suốt, tỏ ngộ các lý lẽ sâu xa huyền diệu trong kinh đìển, thì chúng ta không làm thế nào để đạt được 4 phép lạy thuộc về Lý là: Phát trí thanh tịnh lễ, biến nhập pháp giới lễ, chánh quán lễ, thật tướng bình đẳng lễ và 5 món diệu hương để cúng Phật là: Giới hương, Ðịnh hương, Huệ hương, Giải thoát hương, Giải thoát tri kiến hương. Và nếu không thực hành được 4 phép lạy về Lý và cúng dường được 5 món diệu hương, thì sự lạy và cúng chỉ là phần “Sự” là phần hình thức, và vì thế, kẻ tín đồ khó có thể tiến được trên đường Ðạo. Bỡi vậy, cùng một lần với thờ, lạy và cúng Phật, chúng ta phải tụng kinh, trì chú và niệm Phật. Ðó là những điểm căn bản tối thiểu mà một Phật tử thuần thành không thể bỏ qua được.
B.- Chánh Ðề
I.- Ðịnh Nghĩa
1) Tụng kinh: Tụng là đọc thành tiếng một cách có âm diệu và thành kính. Tụng kinh là đọc một cách thành kính những lời Ðức Phật đã dạy trong kinh điển, hợp với chân lý và căn cơ của chúng sanh.
2) Trì chú: Trì là nắm giữ một cách chắc chắn. Chú là lời bí mật của Chư Phật mà chỉ có Chư Phật mới hiểu được, chứ các hàng Bồtát cũng không hiểu thấu. Các bài chú đều có oai thần và công đức không thể nghĩ bàn, dứt trừ được nghiệp chướng, tiêu tai giải nạn và tăng trưởng phước huệ, nên cũng gọi là thần chú.
3) Niệm Phật: Niệm là tưởng nhớ. Niêm Phật là tưởng nhớ danh hiệu Phật, hình dung
Phật và đức hạnh của Phật, để luôn luôn cố gắng noi theo bước chân Ngài.
II.- Lý Do Phải Tụng Kinh – Trì Chú – Niệm Phật
1) Vì sao phải tụng kinh? Chúng ta sống trong cõi dục, cho nên lòng dục vọng của chúng ta không bao giờ ngừng nghỉ, cho đến trong giấc ngủ, cũng còn chiêm bao cãi lẩy, cười khóc, vui buồn như lúc thức. Trong cảnh mê mờ đầy dục vọng ấy, may thay, Ðức Phật vì đã thương xót chúng sanh mà truyền dạy những lời vàng ngọc, có thể phá tan màng mây u ám của vô minh và tội lỗi. Nhưng những lời lẽ cao siêu ấy, chúng ta nghe qua một lần , hai lần cũng không thể hiểu thấu và nhớ hết được. Cho nên chúng ta cần phải đọc đi đọc lại mãi, để cho lý nghĩa thâm huyền được tỏa ra, và ghi khắc trong thâm tâm chúng ta, không bao giờ quên được. Ðó là lý do khiến chúng ta phải tụng kinh.
2) Vì sao phải trì chú? Chú có công năng phi thường, nếu người thành tâm trì chú, thì được nhiều hiệu lực không thể tưởng tượng. Chẳng hạn thần chú “Bạc nhứt thế nghiệp chướng căn bổn đắc sinh Tịnh độ Ðà la ni” có hiệu lực tiêu trừ được hết gốc
rễ nghiệp chướng, làm cho người được vãng sanh về Tịnh độ. Thần chú “Tiêu tai kiết tường” có hiệu lực làm cho tiêu trừ các hoạn nạn, tai chướng, được gặp những điều lành. Thầ chú “Lăng Nghiêm” thì phá trừ được những ma chướng và nghiệp báo nặng nềv.v… Thần chú “Chuẩn Ðề” trừ tà, diệt quỷ. Thần chú “Thất Phật diệt tội” có công năng tiêu trừ tội chướng của chúng ta từ nhiều đời nhiều kiếp v.v… Vì thế nên chúng ta phải trì chú.
3) Vì sao phải niệm Phật? Tâm chúng ta bị vô minh làm mờ đục, chẳng khác gì nước bị bùn nhơ làm ngầu đục. Muốn cho nước đục kia hóa ra trong, không có phương pháp nào hay hơn là gia một chút phèn vào, thì các chất dơ bẩn ngầu đục kia dần
dần lắng xuống, bấy giờ nước đục trở nên trong sạch. Phương pháp niệm Phật cũng vậy, có công năng trừ phá các vọng niệm đen tối ở nơi tâm của chúng ta, làm cho tâm mê muội, mờ ám trở nên sáng suốt, chẳng khác gì chất phèn làm cho nước trở nên trong vậy.
Vì sao niệm Phật lại làm cho tâm mê muội trở nên trong sáng ? Vì lý do rất dễ hiểu sau đây:
Tâm chúng ta rất điên đảo, không bao giờ dừng nghỉ. Kinh thường nói: “Tâm viên, ý mã”, nghĩa là “tâm” lăng xăng như con vượn nhảy từ cành nầy qua cành khác, và “ý” như con ngựa chạy lung tung luôn ngày suốt buổi. Làm sao cho tâm ý chúng ta đừng nghĩ xằng bậy? Chỉ có một cách là bắt nó nghĩ những điều tốt lành, hay đẹp. Niệm Phật chính là nhớ nghĩ đến những Vị hoàn toàn tốt đẹp, những hành động trong sáng, những đức tánh thuần lương. Càng niệm Phật nhiều chừng nào, thì ít niệm ma
chừng ấy. Ma ở đây là tất cả những gì xấu xa đen tối, làm hại mình hại người. Vì thế chúng ta nên luôn luôn niệm Phật.
III.- Phải Thường Tụng Những Bộ kinh Nào, Trì Chú Gì Và Niệm Danh Hiệu Phật Nào ?
1.- Các kinh thường tụng. Phàm là kinh Phật thì bộ nào tụng cũng được cả, vì kinh nào cũng có công năng thù thắng là phá trừ mê mờ, khai mở tâm trí sáng suốt cho chúng sanh, nếu chúng ta chí thành đọc tụng. Nhưng vì căn cơ của chúng ta không đến, nên chúng ta phải lựa những bộ kinh nào thích hợp với căn cơ và sở nguyện của chúng ta mà đọc tụng.
Thông thường, các Phật tử Việt Nam, từ xuất gia cho đến tại gia đều trì tụng những kinh như: Di-Ðà, Hồng Danh, Vu-Lan, Phổ Môn, Dược Sư, Ðịa Tạng, Kim Cang, Lăng Nghiêm, Pháp Hoa v.v…
Nhiều người có quan niệm, chọn bộ kinh cho thích hợp với mỗi hoàn cảnh, mỗi trường hợp để tụng, như lúc:
- Cầu siêu thì tụng kinh Di-Ðà, Ðịa Tạng, Vu Lan v.v…; – Cầu an thì tụng kinh Phổ Môn, Dược Sư v.v…; – Cầu tiêu tai giải bịnh thì tụng kinh Kim-Cang, Lăng-Nghiêm v.v…; – Cầu sám hối thì tụng kinh Hồng-Danh.
Cái quan niệm lựa chọn như thế cũng có phần hay là làm cho tâm chuyên nhất sẽ được hiệu nghiệm hơn. Nhưng chúng ta không nên quên rằng về mặt giáo lý cũng như về mặt công đức, bất luận một bộ kinh nào, nếu chí tâm trì tụng, thì kết qủa cũng đều mỹ mãn như nhau cả.
2.- Các chú thường trì. Ở chùa, chư Tăng hằng ngày, trong thời khóa trụng khuya, trì chú Lăng Nghiêm, Ð5i Bi, Thập chú hay Ngũ Bộ chú v.v… còn ở nhà, phần nhiều cư sĩ trì chú Ðại Bi và Thập chú, bỡi hai lẽ: một là thời giờ ít ỏi, vì còn phải lo sinh sống cho gia đình; hai là chú Lăng Nghiêm đã dài, lại thêm chữ âm vận, trắc trở khó đọc, khó thuộc. Nhưng nếu cư sĩ nào có thể học hết các thần chú, trì tụng được như chư Tăng thì càng tốt.
3.- Các hiệu Phật thường niệm. Ðúc Phật nào cũng đủ cả 10 hiệu, đồng một tâm toàn giác, từ bi vô lượng, phước trí vô biên, thương chúng sanh vô cùng vô tận, nên chỉ niệm danh hiệu một Ðức Phật nào cũng đều được cảm ứng đến tất cả Chư Phật, công đức cũng đều vô lượng vô biên.
Nhưng đứng về phương diện trìng độ và hoàn cảnh mà luận, thì hiện nay, chúng ta là người ở thế giới Ta Bà, nhằm quốc độ của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni giáo hóa, lẽ cố nhiên chúnng ta phải niệm danh hiệu của Ngài. Dụ như dân chúng ở trong nước nào, phải nhớ nghĩ đến ơn nhà cầm quyền chính trị sáng suốt ở trong nước đó.
Nếu Tín đồ nào tu theo pháp môn Tịnh Ðộ, thì thường ngày phải niệm danh hiệu Ðức Phật A-Di-Ðà. Pháp môn này được thành lập do lời dạy sau đây của Ðức Phật Thích Ca: “Ở cõi thế giới Ta Bà này, đến thời kỳ mạc pháp, cách Phật lâu xa, chỉ
có pháp “Trì danh niệm Phật”, cầu vãng sanh về Tây phương cực lạc là quốc độ của Ðức Phật A-Di-Ðà, thì dễ tu dễ chứng hơn hết”. Ngoài ra, cũng có người niệm danh hiệu Ðức Phật Di-Lặc, để cầu sanh về cõi trời Ðâu Xuất; hoặc niệm danh hiệu Ðức Phật Dược Sư, để cầu cho khỏi tật bịnh.
Tóm lại, tín đồ phải niệm đủ Tam thế Phật:
a) Niệm Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, là niệm Ðức Phật hiện tại, cũng là Ðức Phật Giáo chủ của chúng ta.
b) Niệm Ðức Phật A-Di-Ðà, là niệm Ðức Phật đã thành từ quá khứ xa xưa, mà cũng là Ðức Phật tiếp dẫn chúng ta về Cực Lạc.
c) Niệm Ðức Phật Di-Lặc, là niệm Ðức Phật vị lai.
IV.- Lợi Ích Của Sự Tụng Kinh – Trì Chú – Niệm Phật
1.- Lợi ích của sự tụng kinh. Những lời giáo hóa trong ba tạng kinh điển của Phật, đều toàn là những lời hiền lành, sáng suốt do lòng từ bi và trí tuệ siêu phàm của Phật nói ra. Kinh Phật, vì thế, có phần siêu việt hơn tất cả những lời lẽ của thế gian. Nếu chúng ta chí tâm trì tụng, chắc chắn sẽ được nhiều lợi ích cho mình, cho gia đình và những người chung quanh:
a) CHO MÌNH: Lúc tụng niệm, hành gỉa đem hết tâm trí chí thành đặt vào văn kinh để khỏi sơ xuất, nên sáu căn: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý không còn móng lên mười điều ác nữa, mà chỉ ghi nhớ những lời hay, lễ phải.
b)CHO GIA ÐÌNH: Trước khi sắp sửa tụng kinh, những người trong nhà đều dứt các câu chuyện ngoài đời và khách hàng xóm đến ngồi lê đôi mách cũng tự giải tán. Trong gia đình nhờ thế được thanh tịnh, trang nghiêm, hòa thuận.
c)CHO NGƯỜI CHUNG QUANH: Trong những lúc đêm thanh canh vắng, lời tụng kinh trầm bỗng theo với tiềng mõ nhịp đều, tiếng chuông ngân nga, có thể đánh thức người đời ra khỏi giấc mê, đưa lọt vào tai kẻ lạc lối những ý nghĩa thâm huyền, những lời khuyên dạy bổ ích, chứa đựng trong kinh mà hành giả đang tụng.
Như vậy rõ ràng tụng kinh chẳng những có lợi ích cho mình, cho gia đình, mà còn cho những người chung quanh nữa. Ðó là mới nói những điều ích lợi thông thường có thể thấy được, ngoài ra tụng kinh còn có những điều lợi ích, linh nghiệm lạ thường,
không thể giải thích được, ai tụng sẽ tự chứng nghiệm mà thôi.
2.- Lợi ích của sự trì chú. Các thần chú tuy không thể giải nghĩa ra được, nhưng người chí tâm thọ trì, sẽ được công hiệu thật là kỳ diệu, khó có thể nghĩ bàn, như người uống nước ấm, lạnh thì tự biết lấy. có thể nói: một câu thần chú, thâu gồm hết
một bộ kinh, vì vậy, hiệu lực của các thần chú rất phi thường. Khi gặp tai nạn, nếu thực tâm trì chú, thì mau được giải nguy. Như thuở xưa, Ngài A-Nan mắc nạn, Ðức Phật liền nói thần chú Lăng Nghiêm, sai ngài Văn Thù Sư Lợi đến cứu, thì Ngài A-Nan liền được thoát nguy.
Ngày nay có nhiều trường hợp mà người thành tâm niệm chú thấy được hiệu nghiệm rõ ràng. Theo lời Bác sĩ Thiện Thành nói lại, thì vào năm 1946, giữa lúc loạn ly, BS ở trong một vùng rừng sâu, núi hiểm tại Trung việt. Một lần Bs bị một chứng bịnh
nan y, mặc dù lương dược Ðông, Tây sẵn có trong tay, cũng không làm sao trị được. Bác sĩ tưởng sẽ bỏ mình trong xóm người Sơn cước, không ngờ lúc còn ở dưới mái nhà cha mẹ, thường đêm nghe thân phụ trì chú “Công Ðức Bảo Sơn”, BS liền đem
thần chú ấy ra áp dụng. Trong lúc ấy, các người nuôi bịnh cũng xúm lại hộ niệm cho BS suốt đêm. Sáng hôm sau, quả thật BS lành mạnh trở lại một cách dễ dàng, làm cho tất cả các bạn đồng nghiệp đều ngạc nhiên.
3.- Lợi ích của sự niệm Phật. Niệm Phật công đức lại còn to lớn hơn nữa, vì một câu niệm Phật có thể gồm thâu cả 3 tạng kinh điển, hết thảy thần chú, cùng là các pháp viên đốn, như tham thiền, quán tưởng v.v…
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni có dạy rằng: “Sau khi Phật nhập diệt , về thời kỳ mạt pháp, đến kiếp hoại, các kinh sẽ bị tiêu diệt hết, chỉ còn kinh Di-Ðà lưu truyền lại độ trăm năm rồi cũng diệt luôn. Lúc bấy giờ chỉ còn một câu niệm Phật gồm 6 chữ
“Nam mô A-Di-Ðà Phật”, mà đủ năng lực đưa chúng sanh về cõi “Cực-Lạc”.
Lời Phật nói không sai, bằng chứng là có nhiều nhân vật chuyên trì một câu niệm Phật, mà biết được ngày giờ và thấy được điềm lành trước khi vãng sanh. Như Tổ Huệ Viễn, trong 10 năm niệm Phật, 3 lần thấy Ðức Di-Ðà rờ đầu; trong hội Liên xã, có 123 người chuyên tu phép “Trì danh niệm Phật”, đều lần lược được Phật rước về cõi Tịnh Ðộ. Gần đây ở Nam phần VN, vào năm 1940, có 3 vị sĩ quan Pháp là Ðại úy Touffan, Trung úy Retourna, Thiếu úy Brillant đồng lái một chiếc thuỷ ohi cơ bay từ đảo Côn Lôn về Sài gòn. Giữa đường, chiếc phi cơ hư, , rơi xuống biển. Thiếu úy Brillant (người Pháp lai Việt) niệm Phật cầu cứu. Chiếc thủy Phi cơ lửng thửng trên mặt biển suốt 3 giờ , mới gặp một chiếc tàu đánh cá của người Nhật đến cứu. Khi 3 vị vừa bước sang tàu, thì chiếc phi cơ chìm ngay xuống biển. Ai nấy đều lấy làm lạ, hỏi nhau: Tai sao khi nãy có 3 người ngồi nặng, phi cơ lại nổi, mà bây giờ không có người nó lại chìm ngấm? Chỉ có thiếu úy Brillant mới giải thích được sự lạ lùng ấy. Ông kể lại cho mọi người nghe sự linh ứng của pháp niệm Phật mà ông thường áp dụng, và lần nầy là lần thứ hai ông được thoát nạn nhờ phép niệm Phật ấy. Ðại úy Touffan và trung úy Retourna hết lòng tin tưởng, nên khi về đến Saigon, hai vị sĩ
quan ấy chung nhau một số tiền, cất một cái am đẹp đẽ ở Cát lái, làng Thạnh Mỹ Lợi, tỉnh Gia Ðịnh để thờ Phật gọi là tỏ lòng tri ân. Ðây chỉ là một câu chuyện trong muôn ngàn câu chuyện về sự lợi ích của phép niệm Phật.
C.- Kết Luận
Khuyên Phật Tử Tụng kinh Niệm Phật Và Trì Chú Cả Sự Lẫn Lý Cho D(ược Viên Dung . Tụng kinh, trì chú, niệm Phật là 3 phương pháp tu hành gồm đủ cả Sự và Lý. Dù tại gia hay xuất gia, dù tiểu thừa hay Ðại thừa, tiêu cực hay tích cực, không ai
có thể rời 3 phương pháp nầy được. Bỡi thế, Phật tử cần phải học tụng kinh, niệm Phật và trì chú choSự,Lý đi đôi, lời nói và việc làm phù hợp, mới có được kết quả tốt đẹp.
Ba pháp môn tụng kinh, trì chú, niệm Phật, tuy không đồng mà kết qủa đều thù thắng. Phật tử có thể tùy theo trình độ, hoàn cảnh của mình mà tu một, hai hay cả ba pháp ấy. Thí dụ như người biết chữ và mạnh khoẻ, công ăn việc làm hằng ngày không bận rộn lắm, thì nên tụng kinh, trì chú, niệm Phật đủ cả ba pháp môn. Còn người tuổi gìa, sức yếu, mắt mờ, răng rụng, miệng lưỡi phều phào, thân thể mỏi mệt, nếu tụng kinh , trì chú không nổi, thì phải chuyên tâm niệm Phật, đi đứng nằm nồi,
túc nào cũng phải niệm Phật. Nhưng các Phật tử nên nhớ, khi miệng tụng kinh, trì chú, niệm Phật, tay gõ mõ, đánh chuông, lần chuỗi, thì tâm trí phải gột rửa hết bao ý nghĩ bất chính, những ham muốn đê hèn, và đạc vào dấy hình ảnh của Ðấng Từ Bi.
Rồi phải noi gương Ngài, mở lòng thương rộng lớn, nghĩ đến nỗi thống khổ của muôn loài và phát nguyện đem sức mình ra, ban vui cứu khổ cho tất cả. Ðến khi thôi tụng niệm, trở lại tiếp xúc việc đời, thì phải làm thế nào cho những hành động của mình cũng được từ bi như tư tưởng và lời nói của mình vậy.
Người tụng kinh trì chú và niệm Phật, làm đúng như thế, thì chắc chắn sẽ được chứng qủa Thánh không sai.

Tin mới

Tết Trung thu xưa

   Chùm ảnh này nằm trong một bộ sưu tập do Viện Viễn Đông Bác cổ của Pháp (École Francaise d’ Extrême - Orient) hiện lưu tại Thư viên Khoa học Xã hội. Đó là những tấm ảnh chụp về những sinh hoạt trong ngày Tết Trung thu cách đây chừng 70, 80 năm, những hình ảnh ở đầu thế kỷ XX khi đời sống đô thị đã hình thành tạo ra những nét sinh hoạt thời cận đại.
   Tết Trung Thu đối với trẻ nhỏ trước hết là những bánh trái đặc trưng bởi hai món chính là bành dẻo và bánh nướng mà tập trung nhất là trên các cửa hàng ở phố Hàng Đường (của người Việt) và Hàng Buồm (của Hoa kiều). Điều hấp dẫn đối với lũ trẻ là đứng nhìn những người thợ đóng bánh ngoài quầy tạo nên những âm thanh rộn ràng khi khuôn bánh gõ mạnh trên mặt bàn theo những nhịp điệu khoan nhặt rất đặc trưng trên đường phố.
Trẻ con tò mò nhìn những người thợ làm bánh Trung thu.
   Sau bánh trái là những đồ chơi mà tiêu biểu nhất là các loại đèn được thắp sáng trong đêm Trung Thu khi đợi trăng lên hay rước rong ngoài phố. Những cửa hàng bán các loại đèn làm bằng nan lợp giấy bóng kính hình các con vật mà nhiều nhất là thỏ và cá.
   Ngoài ra còn các loại đèn lồng xếp bằng các loại giấy màu và cầu kỳ nhưng cũng gây hấp dẫn nhất là đèn kéo quân với rất nhiều tích truyện được thể hiện bằng những bóng hình xoay tròn nhờ sức nóng của những ngọn nến tạo ra những luồng khí đẩy những cái vòng quay tròn theo trục đèn. Các loại đèn này tập trung nhiều trên phố Hàng Mã những còn được bày bán ở Hàng Gai...
Đèn lồng xếp bằng nhiều loại giấy màu sắc cầu kỳ.
Đèn kéo quân cũng thu hút trẻ con.
Ngắm nghía những cái đèn (hình con cua) được người lớn mua cho là cái thú âm ỉ đối với lũ trẻ trong những ngày chờ Trung Thu đến.
   Lại thêm “ông tiến sĩ giấy” gửi gắm lòng cầu mong của đấng sinh thành đối với con cái của mình lấy danh vị “tiến sĩ’ làm mơ ước. Có người bảo rằng cái ông tiến sĩ bằng giấy có bộ mặt non choẹt nhưng đáng yêu ấy chính là hình ảnh ông Trạng trẻ Nguyễn Hiền có thật trong lịch sử (!?).
   Chắc từ thời Tây sang mới có một loại đồ chơi mới vì nó làm bằng một thứ vật liệu được gọi là “sắt Tây”. Nó có thể cắt ra từ những tấm kim loại hoặc tận dụng các loại bao bì bằng sắt Tây như hộp sữa bò, thùng dầu hoả...
   Cái khéo léo của người thợ trên phố Hàng Thiếc với cái kéo cắt săt và những mỏ hàn bằng thiếc tạo ra những con giống đặt trên các bánh xe và nhờ những liên kết khéo léo của các tay đòn bằng giây thép cứng mà nó cử động được như con thỏ đánh trống hay con bướm đập cánh.
Rồi hợp với thời thượng là những chiếc ôtô, tàu bay bên cạnh cái xe kéo cũng mới có từ khi Tây sang. Xem kỹ ảnh thấy rất nhiều đồ chơi loại này, nào là Hai bà cưỡi voi, vinh quy bái tổ, con lân, con phượng , Tôn Ngộ Không và rất nhiều nhân vật làm hình nhân.
Đồ chơi bằng thiếc từ ô tô xe kéo...
Đến con lân, con phượng, Tôn Ngộ Không, Hai Bà cưỡi voi...
   Nhưng có thể nói cái gây hứng thú nhất cho lũ trẻ là những chiếc tàu thuỷ làm bằng sắt Tây bên trong có cái phao dầu khi đốt cháy đẩy khí nóng thổi mạnh vào nước kêu “pành- pạch” đẩy con tàu về phía trước và trong những cái chậu tôn được lũ trẻ hình dung là biển cả. Hẳn là món đồ này có muộn hơn thời điểm chụp những tấm ảnh này (?).
   Còn những lũ trẻ năng động nhất thì thích ở ngoài đường với cái đầu sư tử bồi bằng giấy. Chúng hợp thành những đoàn có trống, xèng xèng và thế nào cũng có một chú phỗng múa may làm vui. Chúng múa chơi đôi khi đòi những cửa hàng nơi chúng đến múa phải treo giải...
Múa lân vẫn là hoạt động được lũ trẻ yêu thích.
   Cuối cùng là cái phút chờ đợi nhất, trong sự ấm cúng của gia đình xoay quanh nơi bày cỗ. Những món đồ ăn và đồ chơi được bày biện trong nhà hay ngoài trời phô bày sự chăm sóc của gia đình với con trẻ trong ngày Tết được chờ đợi nhất trong năm, lại vào lúc tiết trời đẹp nhất: gió mát trăng trong.
Bàn cỗ Trung thu với nhiều bánh trái, hoa quả.
   Chưa thật đầy đủ, nhưng những tấm ảnh này giúp bạn biết được cảnh xưa và người già có dịp hồi nhớ quá khứ và so sánh với Trung thu hôm nay.

03/09/2014

Ý nghĩa hình tượng Bồ-tát Quán Thế Âm


   Hôm nay đủ duyên chúng ta hội ngộ tại đây, trước hết tôi có lời thăm viếng tất cả Tăng Ni và Phật tử. Đối với các Phật tử lớn tuổi, đi chùa học đạo nhiều năm, bây giờ có dịp gặp lại thăm viếng nhau, tôi chúc mừng quí vị vẫn còn có mặt trên thế gian, còn đến chùa học đạo, thật là quí báu. Nhân đây tôi cũng có vài điều nhắc nhở cho tất cả quí vị nhớ Phật pháp, an ổn tu hành đến ngày nhắm mắt, có hướng đi rõ ràng tốt đẹp.
   Chùa này tên là chùa Quan Âm, vì vậy chúng ta sẽ nói về Bồ-tát Quán Thế Âm. Hầu hết các chùa Việt Nam đều có thờ tượng đức Quan Âm lộ thiên. Khi sang Trung Quốc hay Nhật Bản tôi thấy các nước này thờ tượng Quan Âm lộ thiên không nhiều như ở Việt Nam. Như vậy thờ tượng Quan Âm lộ thiên hay tín ngưỡng Bồ-tát Quán Thế Âm là một đặc điểm của Phật giáo Việt Nam. Đặc điểm đó như thế nào? Nếu không khéo quí Phật tử lại hiểu lầm, người Việt thờ đức Quan Âm để cầu cứu Ngài khi gặp khổ. Như thế vô tình Phật giáo Việt Nam trở thành ỷ lại, mê tín. Đó là điều chúng tôi muốn nói để quí vị hiểu cho tường tận thấu đáo.


Thờ tượng Bồ-tát Quán Thế Âm có những gì cao siêu kỳ đặc, mà tôi gọi đó là một đặc điểm của Phật giáo Việt Nam? Khi chúng ta thờ một đức Phật, một vị Bồ-tát cần phải thâm hiểu ý nghĩa hình tượng các ngài. Bây giờ quí Phật tử hình dung tượng đức Quán Thế Âm như thế nào không? Trước tiên tôi xin hỏi Bồ-tát Quán Thế Âm là tượng nam hay nữ? - Nữ. Nhưng trong kinh Phổ Môn nói Bồ-tát là nam hay nữ? Không phải nam cũng không phải nữ. Bồ-tát Quán Thế Âm tùy theo nhu cầu thiết yếu của chúng sanh muốn Ngài cứu độ, nếu là đồng nam cầu cứu Ngài hiện thân đồng nam, nếu là đồng nữ cầu cứu Ngài hiện thân đồng nữ, cho tới trưởng giả v.v... Ngài đều tùy duyên thị hiện để cứu độ tất cả. Như vậy đâu bắt buộc cố định hình tượng Ngài là người nữ, vậy tại sao hầu hết các chùa thờ đức Quán Thế Âm đều tạc hình người nữ? Đó là vấn đề chúng ta cần phải hiểu rõ.

Ở Việt Nam chúng ta ngày xưa, các cụ già thường hay răn dạy con cái phải luôn tưởng nhớ công ơn cha mẹ. Nếu người cha đứng đắn dạy bảo con cái nghiêm trang, người ta gọi là nghiêm phụ. Người mẹ hiền lành thường khuyên răn con nhỏ nhẹ, chớ không rầy không đánh nên người ta gọi là từ mẫu tức mẹ hiền. Cha thì nghiêm, mẹ thì từ. Bồ-tát Quán Thế Âm tu hạnh từ bi, thường cứu khổ chúng sanh, nên người ta thường xưng tán Ngài là Đại từ Đại bi Quán Thế Âm Bồ-tát. Hạnh đại từ bi của Ngài là lúc nào cũng an ủi, nhắc nhở, khuyên lơn, đem lại nguồn an vui cho tất cả chúng sanh. Ở đâu có tiếng than, có nỗi khổ, Ngài đều đến để cứu vớt. Vì vậy Ngài tượng trưng cho tâm hạnh từ bi. Hạnh từ bi thì gần với tình thương của người mẹ, nên người ta tạc tượng Ngài là nữ. Đó là hình ảnh biểu trưng cho hạnh từ bi, chớ không phải Ngài thật là người nữ.

Thêm một điểm nữa, Bồ-tát Quán Thế Âm tay trái cầm bình cam lồ, tay phải cầm cành dương liễu. Quí vị tụng kinh Phổ Môn có câu “Nam-mô thanh tịnh bình thùy dương liễu Quan Âm Như Lai cam lồ sái tâm nguyện”. “Thanh tịnh bình” là bình thanh tịnh, “thùy dương liễu” là cành dương liễu rủ xuống, “Quan Âm Như Lai cam lồ sái tâm” là nước cam lồ của đức Quan Âm rưới lên tâm. Ý nghĩa nguyên câu ấy là bình thanh tịnh đựng nước cam lồ, nhờ cành dương liễu rưới khắp làm cho tâm người được mát mẻ. Đó là câu nguyện của Bồ-tát Quán Thế Âm mà chúng ta hằng lạy trong mười hai câu nguyện. Đây là những hình ảnh biểu trưng cho hạnh nguyện của Bồ-tát.

Trong bình thanh tịnh chứa nước cam lồ, nước cam lồ biểu trưng cho lòng từ bi. Nước này rưới tới đâu là chan rải tình thương tới đó, làm mát mẻ êm dịu mọi khổ đau của chúng sanh. Đặc điểm của nước cam lồ là vừa ngọt vừa mát. Bình thanh tịnh là giới đức. Như Phật tử giữ năm giới, nhờ giữ giới mà trong sạch thanh tịnh. Người không giữ giới không bao giờ có tình thương chân thật hay lòng từ bi. Tôi nói ví dụ nhỏ thôi, như người phạm giới sát sanh có từ bi được không? Nếu phạm giới sát sanh không thể gọi là người từ bi. Hoặc người phạm giới trộm cắp, gọi từ bi được không? - Không. Cho tới phạm giới uống rượu, có từ bi được không? - Không. Vì từ bi phải đi đôi với trí tuệ sáng suốt, uống rượu vô say sưa rồi không thể nào sáng suốt được. Dân quê Việt Nam gọi mấy kẻ say là ba ngầu, lúc đó đã mất bình tĩnh, đâu còn tỉnh táo sáng suốt để làm điều tốt đẹp giúp người. Do đó phạm một trong năm giới thì không có lòng từ bi. Muốn lòng từ bi càng ngày càng tăng trưởng, đòi hỏi chúng ta phải giữ giới.

Vì vậy giới đức thanh tịnh tượng trưng cho bình thanh tịnh. Từ bình thanh tịnh mới chứa được nước cam lồ. Con người có giới đức thanh tịnh mới chứa đựng lòng từ bi. Còn cành dương liễu để làm gì? Cành dương liễu yếu mềm dẽo dai nên khó gãy, gió chiều nào nó lay theo chiều đó nhưng không gãy. Những cành cây cứng gặp gió mạnh nó dễ gãy. Như vậy cành dương liễu biểu trưng cho đức nhẫn nhục. Muốn đem lòng từ bi ban rải cho chúng sanh được an vui mà thiếu đức nhẫn nhục thì lòng từ bi khó thực hiện được. Tại sao? Gần nhất như chùa Quan Âm ở đây, quí Phật tử phát tâm xây dựng vì nghĩ mình cất ngôi chùa này để huynh đệ hướng tâm về Phật pháp có nơi chốn lễ Phật, tụng kinh, nghe pháp. Rồi lập hội Quan Âm để bảo trợ chùa, có đủ phương tiện tồn tại dài lâu. Đó là lòng từ bi. Có hội thì có họp. Họp thì bàn cãi, mà bàn cãi thì nhiều ý kiến bất đồng. Nếu quí vị thiếu lòng nhẫn nhục thì lòng từ bi có thể đổ vỡ.

Khi chúng ta thương mọi người, muốn giúp họ đến với đạo để tu hành, tâm hồn được trong sạch an vui, đó là lòng từ bi. Nhưng nếu thiếu đức nhẫn nhục thì khó bảo vệ được Phật sự lâu dài, cho nên phải có đức nhẫn nhục. Khi có những bất đồng, có những người không hợp đạo lý, chúng ta cũng ráng ẩn nhẫn bỏ qua, để cùng hòa thuận với nhau giúp đỡ xây dựng nhau. Như thế khả dĩ Phật sự bền lâu được.

Các chùa quê ở Việt Nam, đến rằm tháng bảy hay phát quà cho những người nghèo khổ, bệnh tật. Giả sử quí Phật tử phát tâm bố thí cho hai trăm người, hai trăm lá phiếu được phát cho dân nghèo đến lãnh quà. Có người quí vị phát rồi, họ trở lại xin nữa. Thành ra cuối cùng không đủ quà, những người đến sau không có quà họ chửi mình. Phật tử làm việc từ thiện vì thương họ, rốt cuộc họ lại chửi quí vị. Nếu không có đức nhẫn nhục, gặp trường hợp như thế, chắc quí vị sẽ thề ngang đây không thèm làm nữa. Rõ ràng từ bi mà thiếu nhẫn nhục thì không thể làm tròn, không thể trường cửu được.

Vì vậy Bồ-tát dùng cành dương rưới nước cam lồ, biểu trưng cho lòng nhẫn nhục nhu nhuyến. Thiếu cành dương không rưới nước cam lồ được. Cũng vậy, có lòng từ bi mà thiếu đức nhẫn nhục thì lòng từ bi đó không lâu dài, không đem đến lợi ích cho chúng sanh được. Cho nên đức nhẫn nhục, lòng từ bi luôn đi đôi với nhau, thiếu một đức thì đức kia không thể thực hiện.

Phật tử thờ đức Quan Âm, khi nào phiền não quá liền lạy cầu Bồ-tát rưới nước cam lồ cho con được mát mẻ phải không? Như vậy là đòi hỏi, xin xỏ chớ không nhớ chúng ta thờ đức Quan Âm để nhắc mình phải học theo hạnh từ bi của Ngài. Muốn học hạnh từ bi, đầu tiên phải giữ giới luật cho trong sạch. Kế đó phát tâm từ bi thương chúng sanh và thực hiện tâm ấy phải có đức nhẫn nhục. Đó là gương sáng, đức tánh tốt. Mỗi Phật tử tới lạy Bồ-tát Quán Thế Âm luôn nhớ ba điều này thì tốt đẹp biết mấy.

Phật tử Việt Nam có đặc tánh muốn đem tình thương của mình giúp đỡ mọi người một cách bền bỉ lâu dài, mới thờ Bồ-tát Quán Thế Âm với hình tượng như thế. Cho nên tinh thần từ bi và nhẫn nhục là tinh thần rất thiết yếu trong cuộc sống hiện tại. Người Việt Nam thờ đức Phật hoặc các vị Bồ-tát lộ thiên đều nhớ ý nghĩa ấy thì rất hay, Phật pháp sáng sủa biết bao nhiêu. Một chùa thờ đức Quan Âm, nhiều chùa thờ đức Quan Âm, để nói lên tinh thần người Phật tử Việt Nam khao khát thực hiện lòng từ bi và đức nhẫn nhục. Đó là mục tiêu trọng yếu của tinh thần Phật giáo Việt Nam. Tôi nhắc lại chân tinh thần này để quí Phật tử không quên ý nghĩa và mục đích việc học Phật và tu Phật của mình.

Quí vị lớn tuổi ở Việt Nam hồi xưa từng đọc mấy bài thơ cổ như Lục Vân Tiên, Quan Âm Thị Kính, Quan Âm Diệu Thiện… chúng ta thấy người Việt Nam yêu chuộng lòng từ bi, đức nhẫn nhục nên ngoài hình tượng thờ, những đức tánh cao đẹp ấy còn biểu trưng đầy đủ qua thơ văn. Quan Âm Thị Kính thường được dân quê Việt Nam gọi là Phật Bà. Ở cách xưng danh này, tôi xin lưu ý quí Phật tử một chút. Gọi như vậy e sẽ bị kẹt, nếu người ta hỏi Quan Âm là Phật Bà, vậy ai là Phật Ông? Phật tử trả lời thế nào? Cho nên phải hiểu rõ, Phật là Phật không có bà có ông. Chỉ vì dân gian gọi theo cảm tính thôi, danh xưng ấy không có trong danh từ chuyên môn nhà Phật.

Người ngoại quốc chưa rành về Phật giáo đến hỏi, chúng ta giới thiệu sai là lỗi lớn nên quí vị phải hiểu cho thật kỹ. Ai muốn tìm hiểu đạo Phật, chúng ta nói những ý nghĩa thâm trầm để người ta thấy Phật giáo Việt Nam có những cái hay cái đẹp, có chân tinh thần sâu xa tế nhị bên trong, chớ không phải chỉ những hình thức nổi bên ngoài thôi. Đó là trách nhiệm lớn của Tăng Ni Phật tử Việt Nam, không thể xem thường được.

Trong quyển thơ văn Quan Âm Thị Kính, tôi tóm lược vài điểm cho quí vị thấy được cái hay của Thị Kính. Bà là người con gái vừa tuổi mười tám, xuất thân trong một gia đình hết sức đứng đắn nghiêm trang, rất đáng cho mọi người quí trọng. Khi đó bà được gả cho một chàng thư sinh đang đi học, hai người sống với nhau rất đầm ấm. Một hôm, ông chồng đi học về mệt nhoài nằm nghỉ, ngủ mê. Bà nhìn trên cằm có sợi râu mọc ngược khó coi quá, mới lấy kéo kê sát cằm hớt sợi râu. Cây kéo đụng làm ông chồng giựt mình thức dậy. Thấy vợ kê kéo sát cổ, anh ta hiểu lầm vợ muốn ám sát mình nên chụp tay la lên vợ ám sát mình. Nghe tiếng la ám sát, cha mẹ anh hoảng chạy ra thì thấy Thị Kính cầm kéo, bị chồng nắm chặt tay. Quả tang là vợ ám sát chồng rồi. Thế là họ mời ông bà xui tới trả con gái với tội giết chồng. Đó là nỗi oan ức không thể tưởng.

Chúng ta nghĩ một phụ nữ yếu ớt gặp hàm oan như vậy thì thế nào? Tự vận chết phải không? Nhưng Thị Kính không làm thế. Bà nghĩ có thân này không phải dễ, cha mẹ sanh ra, công ơn nuôi dưỡng quá lớn. Bây giờ mình vô phước gặp hàm oan này, phải làm sao chọn con đường đi cao thượng hơn, tốt đẹp hơn. Nghĩ thế bà đi tu thay vì tự vận. Nhưng khổ nỗi, hồi xưa không có chùa Ni, chỉ có chùa Tăng. Bà đi tu ai chứa, cho nên phải giả trai. Hòa thượng Trụ trì nhận cho tu, đặt pháp hiệu là Kính Tâm. Như vậy quá tốt!

Mọi việc tưởng đâu ổn cả, không ngờ vì bà có nhan sắc nên giả trai lại càng đẹp hơn. Có một cô gái con nhà giàu tên Thị Mầu, đi chùa thấy thầy Kính Tâm dung mạo xinh đẹp nên để lòng thương mến. Thương nhưng không tỏ tình được, vốn sẵn không có nết na nên Thị Mầu lôi thôi với người nô bộc trong nhà đến có thai. Cha mẹ cô hay chuyện gạn hỏi nhiều lần, cuối cùng sợ mất danh giá vì thất thân với kẻ nô bộc trong nhà, nên Thị Mầu khai chủ nhân cái thai ấy là thầy Kính Tâm.

Thị Kính chịu hàm oan trước chưa giải xong, bây giờ chịu thêm hàm oan thứ hai nặng hơn. Nếu nói thật ra thì chỉ cần một câu thôi, Thị Kính trắng án liền, không có chuyện gì xảy ra. Nhưng vì muốn tu hành, bà nhất định không nói mình là người nữ, chấp nhận mọi hình thức khảo tra đánh đập để giữ trọn bản nguyện. Bởi vì bà nguyện đi tu là phải tu suốt đời, nếu khai mình là người nữ thì bị đuổi ra khỏi chùa, không được tu nữa. Vì vậy thà chịu hàm oan, chịu đánh đập chớ không nói mình là người nữ. Chúng ta thấy sức nhẫn ấy ít ai làm nổi.

Khi đánh đập đã, làng xã mời Hòa thượng tới nói đệ tử của ngài hư quá, bây giờ ngài tính sao. Họ gởi trả về chùa. Hòa thượng nhận đệ tử về nhưng còn nghi nên không dám cho ở trong chùa, mà cho ở ngoài hành lang, xem Kính Tâm có trong sạch không, sau sẽ cho vô chùa. Ở ngoài hành lang như vậy mà còn chưa yên. Chẳng bao lâu sau Thị Mầu sanh con ẵm tới hành lang, nói con của ông tôi trả cho ông, rồi bỏ đi về.

Trong hoàn cảnh đó Thị Kính không biết xử trí ra sao? Nếu ôm đứa bé nuôi thì có hai điều không thể giải quyết nổi. Điều thứ nhất là nếu mình không có liên hệ thì sanh mặc nó, tử mặc nó, bà không nóng ruột chút nào. Nếu ôm nuôi người ta sẽ nói chắc là máu mủ rồi nên không đành bỏ. Như vậy cái nghi càng tăng. Điều thứ hai, nếu nuôi sữa đâu cho nó bú? Cuối cùng bà can đảm thà bị nghi, nhất định nuôi đứa bé. Trong bài thơ tôi còn nhớ hai câu thế này: “Dù xây chín đợt phù đồ, không bằng làm phước cứu cho một người”, nghĩa là dù mình xây một ngôi tháp chín tầng, không bằng cứu một mạng sống. Lòng từ bi vì người của bà Thị Kính đã thắng những nỗi niềm oan khiên riêng.

Bấy giờ chính ông Hòa thượng Trụ trì cũng lắc đầu nghĩ “nếu không có máu mủ gì, mà chú ôm nuôi tôi cũng không tin nổi”. Ông thầy còn không tin thì ai tin, cho nên tiếng xấu đồn xa khắp hết xóm làng. Bấy giờ không có phương tiện nuôi, nên mỗi sáng Thị Kính phải bồng đứa bé đi cùng làng cùng xóm xin sữa. Thôi thì kẻ mắng người chửi, họ phỉ nhổ không còn gì để nói, ông thầy Kính Tâm cứ lầm lũi bồng đứa bé đi xin sữa. Như vậy mà nuôi từ ba bốn ngày cho tới lớn. Chúng ta thấy nhục nhã chừng cỡ nào, không thể tưởng tượng nổi. Bình thường ta làm gì nhục nhã trong một ngày một giờ còn chịu không nổi, đằng này Thị Kính chịu nhục nhã cả mấy năm trời. Ai chửi mắng mặc, miễn sao nuôi được đứa bé sống thì thôi.

Qua câu chuyện đó quí vị mới thấy lòng từ bi tràn trề vì cứu mạng chúng sanh của Bồ-tát. Lòng từ bi đó được thành công nhờ có đức gì? Đức nhẫn nhục, nếu yếu thì không bao giờ làm nổi. Như vậy văn hóa Việt Nam mang đầy đủ tánh chất từ bi nhẫn nhục. Người Việt Nam được hun đúc trong nền văn hóa đó nên ai cũng sẵn lòng từ bi, ai cũng có đức nhẫn nhục, song đôi khi chưa đủ. Bởi vậy người Việt Nam xem cải lương hay khóc lắm. Thấy hoạn nạn khóc sướt mướt, vì tình thương nhiều quá dồi dào quá. Nhưng đức nhẫn nhục thì chưa được nhiều nên lòng từ bi chưa thể thực hiện trọn vẹn và bền lâu.

Quan Âm Thị Kính gặp cảnh khổ không nghĩ tới chuyện chết. Phải nhẫn nhục mà sống, sống để làm gì? Sống để tu. Trong ba lần nhẫn nhục lớn của bà, lần nhẫn nhục thứ nhất chúng ta có thể làm được. Nhưng tới lần nhẫn nhục thứ hai bị hàm oan, có đủ điều kiện minh oan mà Ngài không minh oan. Vì sự tu mà nhẫn nhục bị đòn bị đánh. Tới lần nhẫn nhục thứ ba, vì tình thương chúng sanh mà nhẫn nhục mọi nhục nhã khinh khi của người đời. Hai lần trước nhẫn nhục vì nguyện ước của mình, lần sau cuối nhẫn nhục vì thương chúng sanh, muốn cứu mạng chúng sanh mà quên hết đau khổ tủi nhục của bản thân. Đó là sự nhẫn nhục quá cao cả. Chính nhờ đức nhẫn nhục ấy mà thực hiện trọn vẹn lòng từ bi nuôi đứa bé lớn khôn. Vì vậy cuối cùng bà thành Phật. Khi đã thành Phật tất cả gia quyến đều được Ngài độ.

Như vậy hình ảnh Quan Âm Thị Kính trong văn thơ giúp chúng ta thấy rõ hơn, ai đủ lòng từ bi và đức nhẫn nhục, người đó tu hành sẽ thành tựu viên mãn. Tự mình được an lạc và làm cho thân thuộc cùng được an lạc. Quí vị phát tâm từ bi, phải luôn nhớ tập đức nhẫn nhục. Ý nghĩa chúng ta thờ tượng Bồ-tát Quán Thế Âm đáng quí đáng kính như vậy. Phật tử Việt Nam chú trọng trí tuệ và từ bi nên chùa nào cũng có tượng Bồ-tát Quán Thế Âm. Đã thế chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa hình tượng tôn thờ ấy, để ứng dụng Phật pháp đúng vào đời sống của bản thân, đem lại lợi ích cho mình và mọi người.

Đến hình ảnh Công chúa Diệu Thiện, dân ta còn gọi là Quan Âm Diệu Thiện. Theo sách vở ghi thì bà là con của vua nước Ấn Độ, Công chúa thứ ba. Nhà vua không có con trai, chỉ sanh ra ba người con gái. Khi ba cô Công chúa lớn lên, nhà vua chọn những chàng rể xứng đáng để gả, bà nhất định từ chối, không ưng lấy chồng. Nhà vua khuyên răn bao nhiêu bà cũng cương quyết không chịu, đòi đi tu. Vua cha giận quá ra lệnh cho Công chúa vào tu trong một ngôi chùa gần hoàng thành và bảo Hòa thượng Trụ trì phải đày đọa hành hạ Công chúa đủ cách để cô chán nản trở về.

Lệnh vua như vậy không ai dám cãi, nên Hòa thượng và thầy Tri sự bắt Công chúa làm đủ thứ hết, gánh nước bửa củi, những việc cô chưa từng làm. Công chúa vui vẻ làm, khổ mấy cũng làm. Mấy năm trời như vậy không thối tâm. Nhà vua chờ hoài, chờ con gái mình chán nản trở về mà nó không về. Nhà vua tức quá ra lệnh đốt chùa, vì nghĩ trong chùa hành không đúng mức nên Công chúa không chịu về. Chùa bị đốt cháy hết nhưng Công chúa được cọp cõng đi, chạy từ Ấn Độ tuốt sang Việt Nam, vào động Hương Tích ở tu. Công chúa ở đó tu cho tới thành đạo chứng quả.

Bấy giờ được tin vua cha bệnh nặng, thầy thuốc không cứu chữa nổi, Công chúa mới trở về. Sau khi gặp cha, cô cho thuốc cha uống hết bệnh, rồi giáo hóa cha mẹ, tất cả thần dân trong nước đều biết đạo. Việc cứu độ xong bà trở về Hương Tích tu cho tới ngày nhập Niết-bàn. Bây giờ chúng ta ra động Hương Tích thấy những bài thơ ca tán bà Công chúa Ba vẫn còn khắc trên vách đá. Sự thật thế nào không biết, nhưng đây là tinh thần tu tập dũng mãnh của người con Phật. Qua đó chúng ta thấy bà là người quyết chí tu hành. Khi đã quyết chí tu rồi, dù bị đày đọa khổ sở mấy cũng không lay chuyển. Nếu không nhẫn nhục có lẽ bà đã rút lui rồi.

Bà đi tu ở phương xa, nhưng khi biết tin cha bệnh nặng liền trở về cứu cha. Như vậy để thấy tâm hiếu thảo của bà đâu thua gì ngài Mục-kiền-liên. Ngài Mục-kiền-liên chứng quả rồi tìm mẹ để cứu. Ở đây bà cũng thành đạo rồi, trở về cứu cha, cứu cả những người trong thân quyến, khuyên họ về với đạo. Cho nên tinh thần của người con Phật, dù đã xuất gia hay tại gia, tâm hiếu thảo không quên. Đó không phải đặc điểm của Phật giáo Việt Nam là gì? Như vậy từ hình tượng cho đến văn thơ đều tán thán tinh thần từ bi nhẫn nhục, hiếu thảo của người dân Việt Nam. Chúng ta đã được nuôi nấng trong cái nôi đẹp đẽ đó thì chắc không bao giờ quên. Chúng ta tới động Hương Tích chỉ thấy thắng cảnh mà ít lưu tâm đến sự tích tu hành của Quan Âm Diệu Thiện là một thiếu sót lớn.

Năm tôi đi Trung Quốc có lên Ngũ Đài sơn và Phổ Đà sơn. Phổ Đà ở ngoài biển. Khi tới Phổ Đà sơn, tôi tủi cho người Việt Nam mình. Hiện giờ nhiều chùa khi lạy vía Quan Âm, thường niệm câu “Nam-mô Nam Hải Phổ Đà sơn Quán Thế Âm Bồ-tát” mà không biết sự tích như thế nào. Nghe câu niệm ấy tưởng chừng Phổ Đà sơn là quê hương của đức Bồ-tát Quán Thế Âm, nên chúng ta hướng về đó mà lạy. Chúng tôi tới đó đọc sự tích rất là giản đơn, không có gì lạ. Hồi đời Đường có một người Phật tử Nhật sang Trung Hoa tìm tới Ngũ Đài sơn để lễ. Lễ bái xong vị đó thỉnh một tượng Bồ-tát Quán Thế Âm xuống thuyền trở về. Đi chưa bao xa gặp giông to gió lớn, thuyền phải tắp vô bờ vì đi không được nữa. Trải qua năm bảy ngày như vậy, vị Phật tử này nghĩ có lẽ Bồ-tát không chịu về Nhật nên nguyện: “Nếu Ngài không muốn về Nhật Bản thì xin cho gió yên sóng lặng, con sẽ thỉnh tượng Ngài lên đảo này để thờ.” Sau đó gió yên biển lặng, ông liền thỉnh tượng Bồ-tát lên đảo Phổ Đà, tìm một cái động tương đối rộng rãi, dân lành nơi ấy cũng phụ giúp ông sửa sang lại động, rồi thỉnh Bồ-tát Quán Thế Âm vào thờ trong đó, ở ngoài đề bảng “Bất khẳng khứ”. Bất khẳng khứ là không chịu đi.

Chúng ta thấy sự tích hết sức đơn giản, vậy mà người Trung Hoa tán thán đó là quê hương của Bồ-tát Quán Thế Âm. Dân mình cứ hướng về đó mà lạy, trong khi ở Việt Nam có một sự tích rất quan trọng, là động Hương Tích mà lại không hướng về động Hương Tích lạy Bồ-tát bao giờ. Đó là khuyết điểm của chúng ta.

Tóm lại tôi muốn nhắc các câu chuyện có liên quan tới Bồ-tát Quán Thế Âm, để tất cả quí vị hiểu Bồ-tát mà chúng ta hiện thờ cũng như những bản thơ văn nói về Ngài là nói lên tinh thần Phật giáo Việt Nam muốn dạy, muốn nhắc cho Phật tử Việt Nam tu Phật, phải có đủ đức tánh nhẫn nhục để làm tăng trưởng lòng từ bi. Tu Phật phải có tâm hiếu thảo với cha mẹ, kính nhường anh em. Như vậy mới đúng là đệ tử Phật, đúng với tinh thần Phật giáo Việt Nam. Hiểu và hành như thế, không ai dám nói tu theo Phật là mê tín dị đoan. Đó là ý nghĩa thâm trầm tế nhị tôi xin nhắc nhở quí Phật tử.

Nhiều người thắc mắc niệm Quán Thế Âm Bồ-tát được tai qua nạn khỏi, vậy những người ra biển niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm sao vẫn không qua khỏi ách nạn? Nếu tất cả người gặp tai nạn là Phật tử, ít ai không nhớ niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm, bởi vì tất cả đều thuộc danh hiệu của Ngài, song có người được linh ứng, có người không được. Như vậy là sao? Không lẽ Bồ-tát thương người này bỏ người kia? Đó là một vấn đề, chúng ta không thể nhìn một chiều được.

Bồ-tát lúc nào cũng thương, cũng muốn độ chúng sanh. Điều này không ai chối cãi cả. Nhưng tại sao có chúng sanh cầu nguyện linh ứng, có chúng sanh cầu nguyện không linh ứng. Như vậy Bồ-tát có thiên lệch chăng? Nếu thiên lệch thì đâu phải Bồ-tát. Trong nhà Phật thường dạy chúng ta có niệm lành niệm dữ, từ đó tạo nghiệp lành nghiệp dữ. Nếu người nghiệp lành nhiều, nghiệp dữ ít, khi gặp hoạn nạn, tha thiết chí thành tưởng niệm Bồ-tát thì sẽ linh ứng, sự linh ứng là do phước của vị ấy. Nếu người thiếu phước khi niệm Bồ-tát không thấy linh ứng. Không phải Bồ-tát thương người này bỏ người kia. Rốt lại tất cả đều qui trở về mình. Bên ngoài có cảm ứng hay không, gốc từ mình mà ra.

Cũng như quí Phật tử xin việc làm, có người thấy mặt người ta thương nên được nhận liền, có người mặt mũi không biết thế nào đi đâu cũng bị từ chối. Tại sao như vậy? Tại người có phước có duyên, người ta thấy dễ thương nên muốn giúp. Còn kẻ ít phước người ta thấy khó thương nên không muốn nhận. Lỗi đó tại ai? Cũng tại mình mà ra. Hiểu thế rồi, chúng ta không trách ai mà chỉ trách mình thiếu tu, thiếu phước. Vì vậy ráng tu cho có phước, đó là điều thiết yếu.

Hôm nay tôi nói về hình tượng đức Quán Thế Âm Bồ-tát mà các chùa thường tôn thờ, Phật tử cũng luôn hướng về Ngài. Quí vị nên nhớ tinh thần thờ đức Quán Thế Âm Bồ-tát là tinh thần tôn xưng quí trọng lòng từ bi, đức nhẫn nhục và tâm hiếu thảo của người Việt Nam. Đó là nền tảng đạo đức của Phật giáo Việt Nam hay của dân tộc Việt Nam. Bây giờ dù ở nước ngoài, tâm hồn người dân Việt chúng ta cũng nặng trĩu hình ảnh ấy, nên tới đâu cũng muốn thờ đức Quan Âm lộ thiên. Tôi nêu lên để nhắc nhở tất cả Phật tử muốn thực hiện lòng từ bi như Bồ-tát thì phải tập đức nhẫn nhục. Nếu chỉ có một phần thì sẽ không bao giờ được viên mãn tâm nguyện.

Chúc quí vị tu hành tinh tấn và luôn luôn niệm danh hiệu Bồ-tát để tự cảnh tỉnh mình nuôi lớn tâm từ bi và đức nhẫn nhục.
***
Có một Phật tử thắc mắc thế này:

- Kính bạch Hòa thượng, chúng con là những Phật tử sống ở ngoài đời, hằng ngày phải đối diện với nhiều công ăn việc làm. Từ trong nhà đến ngoài xã hội, mọi cám dỗ, mọi ràng buộc vây hãm. Kính xin Hòa thượng hãy chỉ dạy cho chúng con làm thế nào để gìn giữ cho tâm được yên tĩnh hay tâm bình thường, vì tâm là vấn đề quan trọng mà đức Phật thường dạy chúng con phải điều phục, phải làm chủ?

- Phật tử sống trong hoàn cảnh phải đi làm. Trong khi đi làm, làm sao giữ được tâm bình thường là điều rất khó. Muốn giữ tâm bình thường, theo tôi có hai cách. Một là chúng ta nhìn tất cả sự vật bên ngoài hiện có nhưng không thật, không bền lâu. Dù vật ấy đẹp hay quí đến đâu, chúng ta cũng biết chỉ là giả dối. Quán sát như vậy luôn, tâm sẽ ít chạy đuổi theo. Tâm không chạy không đuổi theo, tự nó sẽ bình.

Trường hợp thứ hai, muốn cho tâm an thì khi làm việc gì, luôn luôn phải nhớ đừng để cho nó chạy bậy. Như đang làm đây nó chạy đằng kia, đang làm đằng kia nó chạy đằng nọ, chạy tứ tung hết. Đó là gốc của bất an. Chúng ta làm việc gì cột nó ở việc ấy, vừa làm vừa chăn con trâu, đừng cho nó phóng ra ngoài. Dùng phương tiện này chăn giữ, dần dần nó bớt chạy nhảy lăng xăng, từ từ sẽ an. Thật ra muốn tâm an phải trải qua thời gian công phu lâu lắm, chớ không giản đơn. Vì tâm an là cả một vấn đề chuyển mê thành giác. Phật tử phải quyết tâm mới thực hiện được và nhớ cũng không nên nóng vội.

Chúc quí vị tu hành được nhiều tiến bộ và an vui.

 

Ý nghĩa của An cư kiết hạ

H.T Thích Thanh Từ 
Trong đạo mỗi năm đều có ba tháng an cư dành cho Tăng Ni, kể từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy. Lý ra ngày an cư tôi có mặt để làm lễ cho quý vị, nhưng vì tôi không có mặt ngay ngày đó, nên hôm nay Trụ trì Thường Chiếu cũng như tất cả Tăng Ni thỉnh tôi nhắc nhở việc tu hành cho quý vị nhân mùa an cư này.
Mùa an cư năm nay Tăng Ni rất đông đảo. Quý vị ở nội viện cũng như ngoại viện Thiền viện Thường Chiếu đều ứng dụng đúng như lời Phật dạy tổ chức ba tháng kiết hạ an cư.

Trước hết, tôi nói ý nghĩa an cư kiết hạ, sau sẽ nhắc thêm những điều cần thiết. Ai cũng biết tháng tư là đầu mùa mưa ở Việt Nam, ở Ấn Độ tháng này mưa nhiều. Hồi xưa thời đức Phật còn tại thế, bình thường chư Tăng Ni đi giáo hóa nơi này nơi nọ, ít ở một chỗ cùng nương nhờ chư Thượng tọa, Đại đức có giới hạnh cao thâm nhắc nhở chỉ dạy tu hành. Đến mùa mưa nước nổi các loài trùng kiến bò ra đường rất nhiều. Chư Tăng, chư Ni đi nay, đi kia sẽ giẫm đạp chúng. Đức Phật vì lòng từ bi chẳng những thương người mà còn thương tất cả các loài trùng kiến nhỏ bé nữa, nên không đành giẫm đạp lên chúng trong mùa nước nổi. Vì vậy, Phật chế ra ba tháng an cư ở yên một chỗ để tránh sát hại côn trùng.

Như vậy, ba tháng an cư là để cho Tăng Ni không giẫm đạp các loài trùng kiến phạm tội sát sanh, nói lên lòng từ bi vô lượng của đức Phật. Kế đến, nhân mùa an cư, Tăng Ni tụ hội lại một nơi, thỉnh những vị đạo cao đức trọng nhắc nhở, dạy bảo tu hành. Nhờ những bậc có kinh nghiệm trên bước đường tu hành đi trước, chỉ dạy lại cho người sau. Do đó, trong đại chúng ai cũng có đủ duyên tu tiến, không trở ngại, không lùi bước.
Tóm lại, mùa an cư có hai ý nghĩa: thể hiện lòng từ bi không nỡ làm tổn hại chúng sinh, đồng thời tập trung việc hướng dẫn dạy dỗ tu học cho Tăng Ni. Nhờ các vị đạo cao đức trọng chỉ dạy trong ba tháng ròng rã, chư Tăng, chư Ni tu hành được tinh tấn và kết quả tốt. Do đó ngày xưa có những vị Tỳ-kheo qua ba tháng an cư chứng một quả vị. Nếu tu gần tiến lên một quả vị, nhưng tới mãn ngày an cư, các ngài xin Phật cho ở lại tu thêm để đạt được đạo quả như Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, v.v... Như vậy, mùa an cư là mùa chư Tăng, chư Ni cố gắng tu hành để tiến lên những quả vị hay những công hạnh mà trước kia chưa tiến được. Đó là điểm chính yếu mà tất cả Tăng Ni ngày nay phải nhớ.
Hiện giờ đất nước chúng ta đường sá rộng lớn, xe cộ đi lại không phải giẫm đạp trùng kiến như ngày xưa, nhưng thể theo lời đức Phật dạy chúng ta cũng kiết hạ an cư. Thời này mình không thể hiện lòng từ bi như thời đức Phật, chỉ có cùng nhau chung ở một điểm, một khu vực để rồi cố gắng tinh tấn tu hành. Nương nhờ các vị lớn tu trước, hiểu đạo hơn, hướng dẫn chỉ dạy chúng ta cố gắng tu cho có kết quả tốt. Như vậy, trọng tâm an cư ngày nay đặt vấn đề tu học nhiều hơn vấn đề sợ trùng kiến chết. Cho nên ba tháng an cư rất quý báu.
Một năm mười hai tháng chúng ta bận rộn nhiều vấn đề, như giao tiếp Phật tử, hoặc vì những nhân duyên khác mà quý vị đi đây đi kia, không ở một chỗ nỗ lực tu. Đến mùa an cư mọi việc đều gác qua, dồn hết tâm lực cho việc tu học thôi, mong rằng tất cả quý vị phải cố gắng đem hết tâm lực mình tu và học cho được kết quả tốt.
Tuy ba tháng không dài nhưng với ý chí mãnh liệt, với nhiệt tình không bờ bến, chúng ta cũng có thể thực hiện được phần nào kết quả trên đường tu. Đã là tu sĩ Phật giáo, hoặc Tăng, hoặc Ni, không thể nào học theo những việc của người thế tục. Chúng ta không phải là nhà kinh tế, nhà kiến thiết, nhà ngoại giao, hay học giả… mà là hành giả. Tại sao tôi nói như vậy? Vì trên đường tu, khi nói tới nỗ lực, tới sự cố gắng tu hành là muốn nói đến việc giải thoát sinh tử của mình. Chúng ta tu là để giác ngộ được tất cả lẽ thật của con người và của muôn pháp. Do đó, ta đặt nặng việc tu cho có kết quả.
Người tu không thể có khả năng giỏi làm ra tiền bạc, mà dồn tâm lực vào việc tu hành. Cho nên, thời gian của chúng ta không thể dồn vào các chuyện khác. Người tu sống chân thật, ôn hòa, không phải là người giỏi giao thiệp. Người giỏi giao thiệp với thế gian thấy như được nhiều lợi lộc, nhưng đó là tư cách của một nhà ngoại giao, không phải của người tu.
Tăng Ni phải làm sao trong đời mình giác ngộ được chân lý, giải thoát được sinh tử, chớ không phải làm cho được lòng mọi người. Nếu người tu cứ chiều chuộng để mọi người được vui, được vừa lòng, đó là vô tình chúng ta trở thành một nhà ngoại giao, không phải là một nhà tu. Chúng ta học đạo để hiểu, hiểu để tu, chớ không phải là học giả được cấp bằng cao, chức phận này chức phận nọ. Nếu vì cấp bằng, vì chức phận mà học, đó là học giả chớ không phải nhà tu.
Lời Phật dạy rất đúng đắn, đó là chân lý, mà có khi người học đạo còn cạn hẹp nên không hiểu. Vì vậy, phải được những bậc đi trước, những bậc thầy hướng dẫn chỉ dạy để hiểu, hiểu rồi ứng dụng tu, chớ không chạy theo cấp bằng học vị, lấy làm thỏa mãn. Điều này hết sức quan trọng. Như vậy, một nhà tu phải tu như thế nào, phải làm những gì, hôm nay tôi sẽ nhắc cho tất cả Tăng Ni nhớ.
Chúng ta tu cần nhất và đơn giản nhất là phải đủ hai mặt, từ bi và trí tuệ. Từ bi nên thương tất cả chúng sinh, thương tất cả mọi người, mọi loài. Đem tình thương phân bủa, giúp đỡ, che chở cho chúng sinh. Lòng từ bi chưa đủ mà phải có trí tuệ sáng suốt, thấy rõ chân lý, đạt được lẽ thực, để đem chân lý đó chỉ bảo cho mọi người cùng thấy cùng ngộ như mình. Bởi vậy, trí tuệ và từ bi không tách rời nhau.
Người thường cứ nghĩ từ bi trước rồi sau mới có trí tuệ, nhưng thực sự trí tuệ phải có trước rồi mới đến từ bi. Bởi vì, thấy được lẽ thực, biết được chân lý khiến cho chúng ta thoát khỏi những khổ đau do vô minh mê lầm. Khi chúng ta thấy được lẽ thực rồi, nhìn lại huynh đệ, bạn bè vẫn còn ở trong u tối, mình không đành lòng để họ phải khổ, nên đem hết những điều thấy biết của mình nhắc nhở bạn bè, thân quyến, tất cả mọi người cùng thấy, cùng hiểu để họ bớt khổ. Đó là lòng từ bi.
Trí tuệ và từ bi là hai điều then chốt của người tu hành. Cho nên, khi nói tới quy y Phật là nói quy y với bậc Lưỡng túc tôn. Lưỡng túc là đủ hai việc, phước túc và tuệ túc. Phước đầy đủ, tuệ đầy đủ, đó là Phật. Chúng ta luôn luôn cung kính, tôn trọng đức Phật vì Ngài đầy đủ trí tuệ và từ bi. Chúng ta tu theo Phật thì phải làm sao? Cũng phải đầy đủ hai phần này, bởi vậy có câu: “Phước tuệ lưỡng toàn phương tắc Phật”. Phước là từ bi, tuệ là trí tuệ, cả hai đều hoàn toàn mới tiến tới Phật quả được. Người tu mà thiếu phước, thiếu tuệ thì không bao giờ thành Phật.
Trên đường tu, tuy Phật dạy rất nhiều pháp môn nhưng thực sự căn bản là đủ phước và đủ tuệ. Nếu thiếu hai phần này thì không xứng đáng là người tu. Ở đâu Tăng Ni tụ hội lại mà còn có những chuyện cãi vã, giành giật, đó là thiếu lòng từ bi. Vì thiếu lòng từ bi nên không thương nhau, không tha thứ cho nhau, không hướng dẫn dạy bảo nhau, cho nên mới sanh ra cãi vã, giành giật, không xứng đáng tư cách một người tu.
Tu là phải học, phải mở mang trí tuệ, cố gắng thiền định cho trí tuệ phát sáng, như vậy mới đầy đủ tư cách một nhà tu. Điều này rất thiết yếu đối với tất cả Tăng Ni. Có thể nói rằng, chúng ta tu được là được tất cả, chúng ta tu không được là mất tất cả. Được tất cả là được những gì? Mục đích chúng ta tu là trên đền đáp tứ trọng ân: ân cha mẹ, ân Phật Tổ, ân quốc gia, ân thí chủ; dưới cứu giúp ba đường khổ. Nếu tu được chúng ta mới có thể đền đáp bốn ân, cứu giúp ba đường khổ, đó là được tất cả. Ngược lại, nếu tu không được thì mất tất cả, vì không đền đáp được tứ trọng ân, không cứu giúp ba đường khổ, như vậy là mất tất cả.
Quý vị ở nội viện cũng như ngoại viện, đã an cư thì cố gắng tu cho đúng ý nghĩa an cư. Đây là trọng tâm, là tạo duyên lành thuận lợi cho tất cả Tăng Ni cùng tu. Nếu duyên thuận mà tu không được, gặp nghịch duyên làm sao chúng ta tu? Cho nên người tu phải luôn luôn nhớ tới tứ trọng ân, vì đền đáp trọng ân nên chúng ta phải nỗ lực, phải cố gắng tu hành xứng đáng.
Tứ trọng ân là gì? Đó là ân cha mẹ. Nếu chúng ta tu được là đền đáp được ân đức của cha mẹ. Phật dạy một người con tu hành đắc đạo thì cha mẹ được sanh thiên. Đức Thế Tôn sau khi thành đạo, thì thân mẫu và phụ vương của Ngài cũng đều được đầy đủ công đức sanh lên cõi trời. Đó là đức Phật đã đền ân cha mẹ.
Người con Phật chẳng phải đợi khi cha mẹ chết rồi mới đền ân, mà chính khi cha mẹ còn hiện tiền, phải tu cho có kết quả tốt. Cha mẹ thấy con tu hành, đạo đức tăng trưởng, cũng hoan hỉ tùy thuận mà tu theo. Nhờ tu theo nên thoát khổ, không rơi vào tam đồ ác đạo, đời sau có thể trở lại làm người hoặc sanh về các cõi lành. Dù chúng ta chưa đắc đạo nhưng với lòng quyết tâm tu chân chánh cũng có thể đem lại lợi ích cụ thể, cha mẹ, anh em thân tộc cùng phát tâm tu với chúng ta. Đó là đền ân cha mẹ.
Chúng ta tu được mới đền ân Phật Tổ hay Thầy Tổ. Phật Tổ hay Thầy đều muốn dạy đệ tử tu hành đạt kết quả tốt, nên trong nhà Phật dùng câu: “Đền ân Phật Tổ là đền ân chẳng đền”. Ân chẳng đền là sao? Phật đã nhập Niết-bàn, Tổ cũng tịch rồi, nhưng vì thương chúng sanh nên các Ngài chỉ dạy chúng ta tiếp nối ngọn đèn trí tuệ, để rọi sáng cho chúng sanh. Chúng ta vâng theo lời Phật Tổ, cố gắng mồi đuốc thắp đèn cho sáng, hướng dẫn mọi người thoát khỏi đêm tối khổ đau. Đó là đền ân Phật Tổ bằng tinh thần ứng dụng đạo lý, thực hiện đúng theo bản nguyện của các Ngài. Điều này rất cao thượng, rất quý báu.
Kế đến là ân quốc gia. Nếu chúng ta tu hành đủ đức hạnh, sau đó dạy cho người dân biết sống lương thiện, biết thương yêu, đùm bọc nhau với lòng từ bi. Sáng suốt nhìn thấy lỗi quấy không làm, cố gắng làm những điều hay đẹp. Nhờ thế, đem lại an ninh cho đất nước, hạnh phúc cho mọi người, giúp quốc gia hưng thịnh. Đó là đền ân quốc gia.
Chúng ta tu không phải tự làm ra cơm gạo mà ăn, tất cả đều trông nhờ thí chủ. Phật tử vì quí trọng sự tu hành của Tăng Ni nên kẻ giúp việc này, người giúp việc nọ, nhờ thế chúng ta an ổn tu hành. Người có công ân lớn giúp mình tu, đâu thể nào quên được. Chúng ta tu tốt, thí chủ hoan hỉ thấy kết quả xứng đáng, họ cũng cùng tu học theo. Đó là chúng ta đền ân thí chủ.
Như vậy, nhờ tu chúng ta đền đáp bốn trọng ân, cũng nhờ tu mà cứu được tam đồ khổ: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Tăng Ni tu và dạy Phật tử tránh không làm mười điều ác. Không tạo ác nên không rơi vào địa ngục, như vậy là cứu chúng sanh ra khỏi địa ngục. Do tâm tham lam, bỏn xẻn, hiểm độc nên phải đọa ngạ quỷ. Chúng ta tu và đem chánh pháp, lòng từ bi hướng dẫn chỉ dạy cho mọi người bớt tâm tham lam bỏn xẻn, không có lòng ác độc. Như vậy là cứu họ không rơi vào ngạ quỷ. Súc sanh là loài không phân biệt lành dữ, thiện ác, tội phước v.v... Chúng ta tu nhờ trí tuệ thấy rõ tội phước, thiện ác, chánh tà… Từ đó hướng dẫn chỉ dạy mọi người lánh ác làm lành, bỏ tội tu phước, bỏ tà theo chánh. Đó là cứu mọi người thoát khỏi loài súc sanh.
Cứu ba đường khổ là cứu không gây nhân để bị quả đọa trong ba đường khổ, chớ không có nghĩa là vào ba đường khổ cứu tất cả chúng sanh trong đó ra. Cứu ở đây là cứu nhân địa ngục, nhân ngạ quỷ, nhân súc sanh. Nhân đã cứu thì quả nhất định sẽ thoát khỏi. Rõ ràng nhờ tu mà trên đền đáp bốn ân, dưới cứu giúp ba đường khổ.
Chúng ta mặc áo nhà tu ở chùa hay ở am thất mà không cố gắng, không nỗ lực thì bản thân không được gì hết, đối với tứ ân, tam ác đạo không giúp ai. Bởi không giúp được ai nên mất tất cả. Vì thế, Tăng Ni nên cố gắng tinh tấn tu hành, tận dụng ba tháng an cư, mỗi người tự nỗ lực để làm tròn bổn phận một người tu. Đó là điều thiết yếu.
Kế nữa, nếu thật là một người tu thì phải thực hành cho được ba điểm then chốt này. Điểm thứ nhất là phải dẹp bỏ phiền não. Nếu người tu mà sáng buồn, chiều giận, như vậy có gì gọi là tu? Vì cố chấp chúng ta ôm ấp vui buồn giận hờn, không có niềm vui trên đường tu, làm sao lợi ích cho người. Bởi vậy người tu trước tiên phải dẹp bỏ kiến chấp phiền não. Dù ai nói hơn mình, ai khinh bỉ mình, thấy đó cũng là trò ảo mộng. Tu thì phải mở rộng lòng từ bi, phải giác ngộ, chớ hơn thua, phải quấy, phiền não chỉ dẫn mình đi trong trầm luân, đâu có lợi ích gì mà ôm giữ mãi. Đã theo vòng trầm luân thì còn làm gì được nữa. Bản thân mình đã hỏng, còn làm hỏng tất cả mọi người trông cậy vào mình. Vì vậy người quyết tâm tu, phải dẹp bỏ tất cả phiền não chứa chấp trong lòng. Giận ai, buồn ai, hờn ai, phiền ai đều gạt qua một bên. Nên nhớ đó là trò chơi trẻ con không xứng đáng, không thành vấn đề, bỏ đi. Chúng ta đã là con Phật, hàng Thích tử không thể làm chuyện trẻ con, những việc của kẻ ngu muội.
Bước đầu quý vị nỗ lực dẹp cho được những phiền não, kiến chấp thì vào đạo một cách tốt đẹp, an lành.
Kế đến, bước thứ hai, khi bỏ phiền não dứt kiến chấp rồi, chúng ta mới mở rộng lòng từ bi, thương mọi người, thương mọi vật. Thấy một người bạn đồng hành tu mà gặp nghịch cảnh, chúng ta có thể giúp được gì, cố gắng giúp để bạn cùng tiến tu. Đó là từ bi gần, từ bi với những người bạn đồng hành, ở cạnh chúng ta. Đừng bao giờ có ý niệm làm trở ngại tâm tu hành của người khác. Nếu lòng từ bi chưa bủa khắp mọi người, ít ra cũng bủa khắp trong chòm xóm, chung quanh mình, làm sao ai ai cũng vui, cũng an ổn để cùng tu với nhau.
Đừng nghĩ mình tu hay rồi khinh người tu dở, khiến họ phiền não. Hoặc người này thấy người kia có nhiều phương tiện trong lúc tu, mình thiếu thốn đâm ra bực bội nói xiên, nói xỏ v.v... không bao giờ có tâm đó. Chúng ta phải nuôi dưỡng lòng từ bi, chân thật, thương yêu, giúp đỡ nhau, làm sao mọi người chung quanh đều tu được, tiến được. Đó mới thực là những con người chân chánh tu hành.
Thứ ba, tu thì phải có trí tuệ. Tăng Ni đến đây là đến với đạo, đến vì sự tu hành chớ không phải vì một lý do tầm thường. Cho nên chúng ta phải mở sáng con mắt trí tuệ, không thể tu mà mù mịt tối tăm, không nhận rõ chánh tà. Vì vậy, điểm thứ nhất là cần mẫn học tập, để phát huy trí hữu sư, kế đến cố gắng tọa thiền để tâm an định. Tâm an định thì trí tuệ vô sư phát sáng. Từ hữu sư trí bước sang vô sư trí, chúng ta phải nỗ lực, cần mở sáng hai trí này, đừng để cho mù mịt tối tăm. Được vậy mới gọi là người tu chân chánh, đúng theo lời Phật dạy.
Nếu không làm ba điều này là tu không được. Tu không được thì tất cả những gì quý vị trông đợi đều mất. Hôm nay nhân mùa an cư tôi nhắc nhở tất cả Tăng Ni đều phải cố gắng. Ba tháng dành cho việc tu hành, mà chúng ta không cố gắng tu hành, đó là điều đáng trách. Chúng ta không làm tròn bổn phận của mình là phụ lòng mọi người đang trông đợi, là thiếu trách nhiệm. Tôi mong tất cả Tăng Ni ở đạo tràng Thường Chiếu, nội viện cũng như ngoại viện đều nỗ lực tinh tấn tu hành cho mùa kiết hạ an cư năm này được kết quả tốt đẹp nhất. Những vị trong nội viện phải làm gương cho mọi người chung quanh nương nhờ. Như vậy mới xứng là đệ tử của đức Thế Tôn.
Cứ mỗi năm sau mùa an cư, tất cả Tăng Ni các thiền viện tụ hội về chúc mừng khánh tuế tôi, tức là chúc mừng tôi tăng thêm một tuổi hạ. Tôi cũng chúc mừng tất cả quý vị được thêm một tuổi đạo. Thông thường ở thế gian, mỗi năm đến ngày mồng một Tết người ta chúc thọ cho nhau. Trong đạo thì lấy ngày mãn hạ tháng bảy làm ngày khánh tuế, chúc mừng tuổi đạo cho nhau. Tuổi thọ thế gian là tuổi thọ của thân tứ đại, tuổi thọ của đạo là tuổi thọ của giới thân huệ mạng. Hai bên khác nhau.
Thân tứ đại thêm một tuổi là gần tới cái chết một phần, cho nên càng tăng tuổi thọ thì càng gần cái chết. Ngược lại, tuổi thọ trong đạo càng tăng thì càng gần với quả vị Bồ-đề, không phải gần cái chết. Mùa an cư là thời gian chúng ta tích lũy công đức, nỗ lực tu hành để tăng trưởng đức hạnh, tăng trưởng trí tuệ. Đức hạnh, trí tuệ tăng trưởng thì tăng trưởng giới thân huệ mạng. Người tu Phật cốt làm sao mỗi ngày trí tuệ mỗi tăng trưởng cho đến viên mãn, gọi là đạt quả Bồ-đề.
Mỗi năm Tăng Ni cố gắng tu trong ba tháng an cư thật tinh tấn, luôn luôn tỉnh giác, nhờ công đức đó mà trí tuệ tăng trưởng. Nếu mỗi năm trí tuệ mỗi tăng thì con đường đi đến quả vị Bồ-đề càng gần. Tôi nghĩ rằng qua một mùa an cư, tất cả Tăng Ni vui mừng vì sắp được gần cội Bồ-đề của đức Phật. Thế thì được một tuổi đạo là điều đáng mừng đáng vui và đáng khích lệ. Được một tuổi đời thì đáng lo, đáng sợ vì sắp chết. Cho nên tuổi đạo rất quý, người đệ tử xuất gia theo Phật, ai ai cũng cố gắng thực hiện cho xứng đáng một tuổi đạo. Đừng để qua một mùa an cư, tính thêm một tuổi đạo mà chỉ có trên con số, trên hình thức, không có trên đức hạnh. Đó là điều đáng buồn.
Năm nay Tăng Ni được phước duyên lành mới chung họp một nơi, trên có thầy dưới có bạn, chung quanh có Phật tử ủng hộ cho mình tu được viên mãn, không chướng ngại. Thiện hữu tri thức luôn luôn thúc đẩy chúng ta tiến lên, đó là phúc duyên lớn lao, phải cố gắng thực hiện cho đúng với sở nguyện, với ý nghĩa ba tháng an cư kiết hạ. Tôi nhắc cho tất cả Tăng Ni ý thức rõ ràng tầm vóc quan trọng trong mùa an cư như thế. Phải ghi nhớ và thực hành cho tốt.
Kế đến tôi nhắc Tăng Ni và tất cả quý Phật tử việc tu trong tất cả mọi thời điểm. Tất cả ai đã phát nguyện xuất gia đều gọi là đi tu. Đã là người tu thì không chấp nhận địa vị phàm phu của mình mà quyết tâm vươn tới Thánh vị. Nếu chấp nhận phàm vị thì để tóc ở đời, chớ đi tu làm gì? Chúng ta đã cạo tóc đi tu là không thích, không chịu vùi mình trong cõi trần tục.
Phát nguyện xuất gia tu hạnh giải thoát, tức lập hạnh tiến lên Thánh vị. Muốn tiến lên Thánh vị mà chỉ nói bằng ngôn ngữ, ý tưởng, không thực hành đúng lời dạy của các bậc Thánh thì không thể tiến lên bậc Thánh được. Chúng ta xả tục xuất gia là nguyện bỏ hết những thói quen, những tật cũ của thế tục, tập theo hạnh Thánh nhân. Thế mà vào chùa xả tục chừng bao nhiêu phần trăm? Xả trọn vẹn 100% hay xả mà còn tiếc. Xả chừng ba bốn chục phần trăm, còn dành lại năm sáu chục chưa chịu xả, có phải vậy không? Xả như thế là chưa đúng mức.
Chúng ta nhớ xả từ hình thức gia đình đến những vướng mắc trong tâm tư. Ngày trước sống với cha mẹ anh em thân tộc, bây giờ rời xa gia đình thế tục, xả bỏ những gì người đời tranh giành hưởng thụ, như tài sắc danh thực thùy, để bước vào đạo tiến lên quả Thánh. Tất cả những gì người thế gian đang lặn hụp chìm đắm, chúng ta đã vượt qua. Phải quả cảm lắm mới bước ra khỏi nhà thế tục, nhưng còn thói quen tập tục thế gian chúng ta xả được chưa, hết chưa? Đó là câu hỏi mỗi người phải tự vấn và tự trả lời cho mình.
Sông mê bể ái là nơi chúng sanh đang chìm đắm, Phật bảo rất đáng thương. Người xuất gia tu hành như chúng ta phải như thế nào? Còn mê còn ái hay thoát khỏi lưới mê ái? Nếu chúng sanh chìm trong sông mê bể ái, thì người tu là kẻ chèo thuyền Bát-nhã cứu vớt họ lên. Bát-nhã là gì? Là trí tuệ. Chúng sanh mê thì chúng ta phải sáng, chúng sanh ái nhiễm thì chúng ta phải giải thoát trần lao. Như vậy mới đúng ý nghĩa vượt khỏi sông mê bể ái. Mình vượt qua rồi mới chèo thuyền Bát-nhã cứu vớt mọi người.
Hiện giờ quý vị đang chèo thuyền Bát-nhã, hay đang cùng đua lội với chúng sanh trong sông mê bể ái? Câu hỏi này mỗi vị nên tự đặt lại cho mình. Chúng ta đang chèo thuyền Bát-nhã cứu vớt người đang chìm trong sông mê bể ái hay chúng ta cũng đang lặn lội trong sông mê bể ái như họ? Nếu đang lặn lội trong sông mê bể ái như mọi người thì thật là một thiệt thòi lớn cho mình. Bởi vì chúng sanh chưa có nguyện xuất trần thoát tục, nên họ lặn lội trong đó đành rồi. Chúng ta đã có nguyện xuất trần thoát tục mà còn lặn lội trong đó thì sao? Người ta có tóc, giả sử gặp ai chèo thuyền trong đó, họ ngóc đầu lên, nắm tóc kéo lên thuyền cũng được. Người trọc đầu rồi, đâu còn tóc mà nắm mà lôi, có trồi lên cũng không ai vớt nổi. Tôi nói như đùa nhưng đó là một sự thực.
Người tu mà không nhận chân được lẽ thực, không nhận chân được giá trị của chính mình thì người đó hết cứu. Thà là mê muội trần tục mà có thể đánh thức, có thể cứu. Đã là người tu mà vẫn mê đắm như người đời thì hết cứu. Tôi nói như thế cho quý vị hiểu ý nghĩa và giá trị của người tu.
Chúng ta đã đi tu, đã quyết tâm thực hành đạo giải thoát thì không còn một lý do nào lại quay đầu trở về đắm nhiễm trần tục. Tôi xin hỏi thật Tăng Ni, có khi nào quý vị thấy hối tiếc những cặn bã của trần tục không? Chẳng biết có tiếc không mà thỉnh thoảng thấy một hai người muốn quay đầu lại. Cho nên phải hiểu và nhớ trách nhiệm, bổn phận của mình để đừng rơi vào các trường hợp đáng tiếc. Việc mình đang làm không thể khác hơn được, không thể đang tiến tới mà lại hối tiếc chuyện phía sau. Phải can đảm vươn lên, tiến lên, không được lùi. Lùi là mất cả hai. Mất con người bình thường vì sống không giống ai và mất luôn cả ý chí xuất trần.
Cho nên đã đi tu rồi tức là xả tục. Xả từ hình thức gia đình, ăn mặc bên ngoài, xả luôn cả tâm niệm đắm nhiễm bên trong. Dù hình thức có xả mà tâm niệm chưa xả thì chỉ khác người thế tục trên mặt hình thức, chớ không khác tâm phàm Thánh. Chúng ta tuy xuất gia rồi nhưng chưa đạt quả Thánh, tuy nhiên tâm đang hướng về Thánh đạo. Đã hướng về quả Thánh thì tất cả những gì thuộc về phàm tục phải cắt đứt, phải buông hết, không được nắm níu, tiếc nuối. Như vậy mới xứng đáng là người tu.
Xả hình thức không khó lắm nhưng xả tâm niệm rất khó. Những người ra khỏi nhà xin vào chùa tu ban đầu gan lắm, tưởng như xả được tất cả nhưng vào chùa rồi lại xả không nổi. Xả cái gì không nổi? Ở ngoài đời có danh có lợi, mình vào chùa không còn danh không còn lợi, cho nên xả danh lợi dường như hơi dễ, nhưng xả bỉ thử nhân ngã, hơn thua phải quấy rất khó.
Tuy vào chùa mang hình thức người tu mà vẫn chấp ta hơn kia thua, ta phải kia quấy, ta đúng kia sai, ta chân chánh kia tà vạy v.v... Chúng ta chưa xả được tâm đó. Bởi vậy lý đáng vào chùa rồi thì thật là người ngoan hiền, thầy dạy, Phật dạy, Tổ dạy sao mình làm đúng y như vậy, nhưng trên thực tế không phải vậy. Một người can đảm xuất gia rồi, còn cái gì chống đối, còn cái gì ngang trái, vậy mà vẫn xảy ra những chuyện ấy như thường.
Ở ba bốn người thì có cái bất mãn của ba bốn người. Ở một hai người thì có cái bất mãn của một hai người. Ở năm bảy chục người thì có cái bất mãn của năm bảy chục người. Lúc nào cũng không bằng lòng, không vừa ý. Không bằng lòng, không vừa ý ai? Đương nhiên là người khác, nói theo thế gian là đối phương. Những người đối mặt với mình, mình không bằng lòng, không vừa ý. Cứ nhớ không bằng lòng người này, không vừa ý người kia, nhưng nếu tự hỏi lại ta có bằng lòng có vừa ý mình chưa thì thật khó trả lời. Câu này tất cả quý vị phải chín chắn hỏi lại mình.
Hồi mới đi tu mình nguyện thế nào? Hứa với cha mẹ, hứa với người thân những gì, bây giờ làm đúng chưa? Chuyện đó không nhớ mà cứ nhớ người này làm không vừa ý, người kia làm phiền lòng mình v.v... Cứ buồn phiền trách móc người khác mà không nhớ rằng chính mình cũng chưa xứng đáng gì hết. Đối với cha mẹ bỏ đi tu, cha mẹ phải khóc phải than, có khi bị lôi kéo không cho tu nữa, mà vẫn can đảm dứt khoát đi. Vô chùa rồi chuyện hơn thua phải quấy rất trẻ con lại bỏ không được, quý vị nghĩ sao? Có phải tâm niệm phàm tục chưa xả bỏ không?
Nếu không xả bỏ tâm niệm phàm tục, còn hơn thua phải quấy kia đây, đó là chướng ngại trên đường tu, khiến cho tâm Bồ-đề mờ tối. Từ đó hoài bão muốn giác ngộ giải thoát trở thành tro bụi, thành bong bóng. Mong mỏi thành tựu bản nguyện mà chỉ có cái rỗng không, làm sao đạt được kết quả chân thật? Nếu có chẳng qua chỉ là những quả bong bóng thôi. Cho nên quý vị đã tu thì phải nhớ bản nguyện, lòng chí thành từ lúc ban đầu của mình.
Nhiều vị lớn tuổi có gia đình, có con cái thấy được khổ đau của kiếp người, thấy được sự mê muội đáng thương của chúng sanh, cho nên quyết tâm đi tu để cứu độ họ. Nhưng đi tu rồi, thói quen thế tục xả không được, rốt cuộc cũng quanh quanh quẩn quẩn, muốn độ người mà chính mình chưa độ được thì độ ai? Cho nên phải can đảm, phải nhìn lại sự thật, ngay bản thân mình thường luôn kiểm điểm.
Ngày nào, tháng nào, năm nào cũng phải thấy rõ, mình đã tiến được bao nhiêu, đã được điểm hay nào, còn sót lại điểm dở nào. Thấy rõ để dẹp sạch những xấu dở đã huân tập từ trước. Không còn ôm ấp những thói phàm tục mới có thể đi trên đường Thánh. Như vậy, quý vị sẽ thấy đời tu cao siêu, quý báu vô cùng. Đó là nói thói quen nhân ngã bỉ thử.
Kế đến là những thói quen buồn giận, thương ghét. Chúng ta đi tu có nên buồn ai năm ngày bảy ngày, giận ai năm năm, bảy năm và thương ai, ghét ai hay không? Phật Tổ cũng dạy chúng ta: “Tăng hận bất cách túc”. Các Ngài cho giận mà giận không quá một đêm. Lẽ ra Tăng không có quyền giận, nhưng các Ngài cũng an ủi cho giận, mà giận không quá một đêm. Ở đây Tăng Ni sống chung có giận ai quá một đêm không, hay qua năm tháng, bảy tháng, một năm, hai năm cũng còn giận?
Tất cả chúng ta chưa phải là Thánh, tự nhiên còn những điểm dở, gặp việc trái ý thì không vui. Không vui tức là buồn giận. Với người chưa biết tu khi giận họ ôm ấp trong lòng để trả thù. Với người biết tu khi giận hoặc gặp việc trái ý thì hóa giải liền, không nuôi dưỡng ôm ấp trong lòng. Như vậy mới thật là người biết tu. Người đã cạo đầu, mặc áo nhuộm mà khi giận đòi thanh toán thế này thế kia thì còn tư cách của người tu nữa không? Những người như thế thật không xứng đáng là người tu.
Người tu dù ai làm trái ý, không đủ sức chiến thắng liền, ít ra một hôm hoặc là năm bảy tiếng đồng hồ sau cũng hóa giải, đó mới thật là người tu. Tất cả quý vị đã tu rồi phải luôn luôn nhớ trong tâm, mình là người từ bỏ vị trí phàm phu để tiến lên ngôi vị Thánh Hiền, phải từ bỏ những thói quen thế tục ngày xưa, không nên nuôi dưỡng ôm ấp nó nữa. Đó là tôi nói về sân hận buồn phiền.
Kế đến, nói tới ái tức là thương. Phật nói thương theo người thế gian là một bệnh trầm trọng nhất của chúng sanh. Thế gian chìm trong sông mê bể ái, mình tu rồi phải leo lên bờ, đâu có quyền chìm trong đó nữa. Đã tu thì phải ra khỏi biển ái, còn chìm trong biển ái đâu gọi là người tu, thì làm gì có chuyện độ ai. Đó là điều hết sức dở. Chúng ta phải gan dạ vượt qua, không để tái phạm những điều ngày xưa mình từng chán chê.
Người xuất gia vừa có một niệm ái nhiễm phải can đảm cắt đứt, đừng để nó lôi kéo. Được vậy, chúng ta mới thảnh thơi chèo thuyền Bát-nhã cứu vớt những người đang chìm trong biển ái. Trong kinh thường dạy: “Không bao giờ kẻ chết chìm cứu được người chết chìm”. Muốn cứu người chết chìm phải là người có thuyền, biết chèo mới có thể cứu được. Nếu cùng chìm với thiên hạ mà nói cứu người là nói không đúng sự thật.
Nói đến sự tu hành chúng ta phải dứt khoát gạt bỏ các thứ bệnh, như sân hận, buồn phiền, ái nhiễm… Đó là những thói quen phàm tục. Chúng ta không chấp nhận làm kẻ phàm tục, thì không nên chứa chấp những thứ đó. Đây là một lẽ thực.
Người tu phải nên đi thong dong trên bờ giác. Bờ giác là bờ an lành tự tại. Tại sao nói thong dong trên bờ giác? Vì mọi trói buộc đã được cắt đứt thì còn gì làm cho chúng ta phải bận bịu, còn gì làm cho chúng ta phải chướng ngại. Nên nói được thong dong trên bờ giác. Trong Chứng Đạo Ca, thiền sư Huyền Giác nói: “Thường độc hành thường độc bộ, đạt giả đồng du Niết-bàn lộ”. Nghĩa là người giác ngộ thường đi một mình trên bờ Niết-bàn. Bờ giác cũng gọi là bờ Niết-bàn.
Một bên chìm trong sông mê biển ái, một bên là thong dong trên bờ giác, chúng ta chọn bên nào? Khi đi tu quý vị đã quyết định rồi, cho nên kể từ đây Tăng Ni phải là người thảnh thơi, thong dong trên con đường giác ngộ, trên bờ Niết-bàn, không còn bị sanh tử lôi kéo nữa. Rõ ràng một bên tối, một bên sáng, bên khổ bên vui, chúng ta đã chọn lựa rồi thì bây giờ phải giữ đúng như những gì mình đã chọn buổi ban đầu.
Chúng ta đi tu phải làm sao càng ngày càng tiến, càng cao thượng, càng đẹp đẽ hơn, chớ đâu có lý do gì đi tu rồi càng ngày càng phiền não, càng tệ hơn lúc chưa đi tu. Đó là điều Tăng Ni phải thật sự kiểm điểm lại mình. Thầy bạn đi trước, đang dìu dắt chúng ta đi trên con đường giác mà không chịu đi, thì thật đáng buồn đáng trách.
Phải nhớ nói tới tu là nói tới giá trị của một con người xuất trần, giải thoát, chớ không nói kẻ phàm tục, đắm nhiễm. Chúng ta nhiều phúc duyên nên mới được tụ hội cùng chung tu hành, phải biết nuôi dưỡng phúc duyên này càng ngày càng lớn, đừng để nó tiêu mòn. Người quyết chí tu phải một bề hướng thẳng trên con đường giác ngộ, không nên hối tiếc nhìn lại những thứ tầm thường đã qua. Có thế mai kia mới xứng đáng là người chèo thuyền Bát-nhã cứu độ chúng sanh ra khỏi trầm luân sanh tử. Đó là chỗ thiết yếu, là bổn phận không thể nào quên được của Tăng Ni. Người nào quên những điều này là đã cô phụ ân cha mẹ, ân đàn na thí chủ, ân Thầy Tổ chỉ bảo.
Qua một mùa an cư Tăng Ni đã có nền tảng đạo đức rồi, từ đây về sau phải hăng hái tiến lên trên con đường giác, không tuột lại lối mê cũ. Tu thì phải giác, nhất định không cho mê. Được vậy mới thật xứng đáng người tu đầy đủ công đức.
Đó là chỗ tôi nhắc nhở, mong tất cả Tăng Ni ghi nhớ và cố gắng thực hiện cho tốt.