Chương V
Chúng tôi thức dậy khi trời còn tối mờ.
"Đã nghe chim hót báo sáng lâu rồi, sao lại tối thế này nhỉ?..." Tôi
xách súng vén mép tăng bước ra. Cả khe suối âm u mù mịt. Mây! Tôi quờ tay, những
hạt bụi nước li ti đọng ướt lòng bàn tay.
Đợi đến khi mây tản bớt có thể nhìn rõ đường,
chúng tôi mới đi được. Chặng đường hôm nay bắt đầu bằng việc băng qua đồi cỏ
tranh. Phải dùng cả hai tay để rẽ những đám cỏ sũng nước lấy lối đi. Nhiều lúc
chân chúng tôi bước sụp trong lớp cỏ khô mục rụi xuống lâu ngày kết thành từng
mảng dày bốc mùi ấm mốc.
Khi mặt trời nhô ra khỏi các đám mây, chúng
tôi cũng vừa lên tới đỉnh đồi. Bên dưới là một biển mây màu trắng màu hồng trải
mênh mông như vô cùng vô tận. Những đỉnh núi cao vượt trên mây lô nhô như những
hòn đảo. Không nhìn rõ chặng đường trước mặt. Anh Sơn rút địa bàn nhắm hướng,
chúng tôi rẽ cỏ tranh luồn trong đám bụi nước đi xuống.
Nắng càng lúc càng gay gắt. Mây tan dần, chỉ
còn mấy dải trắng là là trong các khe núi. Trên trời lác đác vài vệt mây mỏng
tang, trông giống những mảnh lụa ai xé gió thổi tít lên cao. Cảnh vật hiện ra
rõ mồn một. Núi non nhấp nhô điệp trùng với những đường nét sắc nhọn, gãy góc.
Đang bước, anh Hùng nhìn trời tặc lưỡi:
- Trời này nắng phải biết! Ta không mang thêm
nước là sai lầm.
- Mình cũng vừa nghĩ thế! - Anh Đằng nói -
đúng là đi rừng già nửa đời rồi mà còn dại. Thôi lỡ rồi, đành tìm cách khắc phục
sau vậy.
Đến quá trưa, chúng tôi vẫn lội trong đám cỏ
tranh cao ngập đầu. Mỗi khi gió thổi, ngọn cỏ nối nhau rạp xuống rập rờn như
sóng. Dưới ánh mặt trời chói chang, dùng đồi cỏ bạt ngàn càng vắng vẻ hoang vu.
Không một cánh chim, không một bóng thú. Thảng hoặc mới có vài bóng cây xanh đứng
im lìm trơ trọi như lạc lõng giữa màu cỏ vàng úa.
Tôi mệt nhọc bước đi trong cái nắng cháy bỏng
da thịt. Nhưng vết lá cỏ tranh cứa trên cổ, trên mu bàn tay thấm mồ hôi rát buốt.
Dù đã khát khô cổ họng nhưng tôi cố nhịn, chỉ thỉnh thoảng mới mở nắp bi đông
nhấp một hớp nhỏ cho nước bọt khỏi khô đặc trong miệng. Tình thế này chưa biết
khi nào mới gặp nguồn nước, vì vậy có tiếng nước óc ách trong bi đông vẫn yên
lòng hơn. Mọi người đều mệt lử nhưng ai cũng gắng bước bởi nghỉ lại giữa đồi cỏ
khô cháy này càng mau kiệt sức. Chiếc ba lô trên lưng anh Đằng chập chờn trước
mặt lúc gần lúc xa, tất cả như mờ ảo trong mắt tôi...
Mãi xế chiều lúc bóng nắng đã ngả dài trước mặt,
chúng tôi mới thoát khỏi vùng cỏ tranh. Mọi người ngồi phịch dưới một tán cây
thấp, trút ba lô, mở phanh cúc áo cho hơi nóng trên người tản bớt đi.
Tôi cầm bi đông lắc lắc, nước còn ít lắm. Kề
bi đông lên miệng, tôi hớp một hớp nhỏ, ngậm một lúc cho đỡ khô miệng rồi mới
nuốt. Ngần ngừ một lát, tôi hớp thêm hớp nữa và kiên quyết vặn nắp lại.
Anh Đằng đưa tay nhìn đồng hồ, bảo:
- Ta nghỉ một lúc rồi tranh thủ đi tiếp may ra
tìm thấy nước, chứ ở đây thì chịu chết.
Anh Hùng không nói gì, với tay gỡ chiếc ống
nhòm trên cổ anh Đằng, níu cành cây trên đầu đu người lên. Chúng tôi im lặng chờ
đợi. Lát sau, anh lẳng lặng tụt xuống. Tôi hỏi:
- Thấy gì không, anh Hùng?
- Chẳng nơi nào có vẻ có nước. Mà sao vùng này
lạ quá - Anh quay sang anh Sơn, băn khoăn hỏi - Này Sơn, cậu nhìn kỹ xung
quanh, xem có thấy nơi nào như thế này chưa?
Chúng tôi cùng đứng cả dậy, đưa mắt nhìn
quanh. đúng là có cái gì khác lạ mà nãy giờ vì mệt nên không ai để ý. Tôi chăm
chú nhìn, bỗng nhận ra rừng ở đây không giống như không nơi khác. Xung quanh
toàn cây thấp cằn cỗi và mọc không theo một phương nào cả. Những thân cây gầy
guộc dáng nghiêng ngả như đang vội vã chống đỡ lại một sức mạnh vô hình nào đó.
Trên những nhánh cây cong queo, mấy chiếc lá nhỏ mọc thưa thớt, đầu lá sém nắng.
Dưới gốc cây mặt đất khô bụi lác đác mấy búi cỏ thấp lè tè.
Tôi vớ cái ống nhòm từ tay anh Hùng, chọn một
cây cao nhất trèo lên. Nhìn từ trên cao, cả cánh rừng rộng trong tầm mắt như
đang quằn quại. Những ngọn cây ngã rạp, xoắn lại theo vòng xoáy trôn ốc. Bao phủ
khắp rừng là một màu xanh khô khan cạn kiệt sức sống ánh nắng cuối chiều nhuốm
lên rừng một màu vàng hiu hắt, làm cho nó càng có vẻ ma quái, ảm đạm. Tôi cảm
thấy rờn rợn...
Tôi ôm thân cây tuột xuống, trong đầu cứ vương
vướng điều gì đó. Đến khi đặt chân lên đất mới chợt nghĩ ra: ở đây không có tiếng
chim hót, tiếng côn trùng rền ri quen thuộc như các nơi khác.
Nghe tôi nói lại những điều nhìn thấy anh Sơn
suy nghĩ một lúc rồi thò tay vào túi áo ngực lấy địa bàn ra mở nắp nhìn: kim địa
bàn quay loạn xạ. Anh nói ngay:
- Phải đi khỏi đây thôi, càng nhanh càng tốt.
- Anh vớ ba lô khoác lên vai.
Mọi người vội vã làm theo. Không kịp hỏi,
nhưng ai cũng đoán được là có mối nguy hiểm nào quanh đây. Anh Đằng ngoái hỏi
tôi:
- Hải thấy vùng xoáy rộng bao nhiêu?
- Khoảng bốn, năm cây số - Tôi đáp.
Anh Hùng gật đầu: "Chỉ chừng đó
thôi!" Anh Đằng nhìn anh Sơn:
- Ta băng qua chứ?
- Băng thôi! Rừng thưa, có thể đi nhanh được.
Không còn cách nào khác. Quay lại đồi cỏ tranh
coi như thất bại. Đi vòng thì xa và chắc gì không nguy hiểm.
Chúng tôi hối hả đi nhanh. Lúc này trời vẫn
sáng nhưng không có sắc vàng của nắng, khí trời ong ong nặng nề. Khu rừng này lạ
lắm? Càng đi sâu vào càng thấy bồn chồn khó chịu. Mươi phút sau như có linh
tính, mọi người cùng bứt lên chạy, mặc cho cành lá quật vào người rào rào. Những
cành cây khẳng khiu tướt vùn vụt qua mặt. Tôi không ngờ mình còn chạy được
nhanh đến thế.
Hơn nửa giờ sau, chúng tôi qua hết quãng rừng
im lìm đáng sợ đó và bước xuống một bãi đất trống chỉ lơ thơ những ngọn cỏ mọc
quanh mấy tảng đá màu xám đen.
Đang đi chậm lại, bỗng nghe sau lưng có ngọn
gió thổi tới. Lúc đầu tôi không để ý, nhưng lát sau gió thổi mạnh hơn, lá cây
bay ào ào. Tôi quay đầu lại nhìn và chợt ngớ ra vì kinh ngạc: một cơn lốc lớn
đang cuộn thành vòi rồng ở trên cánh rừng chúng tôi vừa đi qua. Cây cột cát bụi
khổng lồ cuồn cuộn dâng lên mỗi lúc một cao, cuốn theo tất cả những gì nó gặp
và lừng lững tiến lại ngày càng gần. Tôi nhìn rõ những thân cây to và những vật
gì đen đen quay tít mù trong vòng xoáy mờ mịt.
Tiếng anh Đằng thét giật giọng: "Chạy đi,
nhanh lên?"
Chúng tôi chúi đầu chạy thục mạng về hướng khu
rừng trước mặt. Tôi vấp chân vào một hòn đá suýt ngã giập xuống, may gượng lại
được lảo đảo chạy tiếp, mặc cho ngón chân tóe máu đau nhói.
Trên trời mây đen kịt, không gian tối sầm lại.
Gió càng lúc càng giật mạnh hơn, đất cát tung mù mịt, mấy hòn sỏi văng vào người
đau rát. Cũng may khoang trống chỉ rộng hơn trăm mét, chúng tôi đâm vào rừng tiếp
tục chạy. Tiếng gió hú ầm ầm trên đầu, tiếng cây gãy răng rác. Những cành cây
quật lên quật xuống làm lấ rụng tơi tả. Đến một cái khe cạn, anh Đằng đứng lại
thét bảo chúng tôi chạy theo lòng khe.
Phải mươi phút sau gió mới dịu lại. Tiếng rít
của vòi rồng nghe xa dần, chắc nó đã cuộn sang hướng khác.
Chúng tôi nhìn nhau. Ai nấy đều phủ bụi cát
đen nhẻrn, chỉ còn lại đôi lượt. Tôi mở nắp bi đông uống nốt những giọt nước cuối
cùng. Anh Đằng lên tiếng:
- May mình vừa đi khỏi đám rừng ấy thì nó tới.
Nếu gặp lúc đang qua, hẳn giờ này đã lên tới trời rồi.
- Tôi cũng nhiều lần gặp vòi rồng, nhưng chưa
khi nào thấy dữ dội như vậy. - Anh Sơn nói - Lúc nãy mình ở ngoài vòng cuốn cua
nó mà gió còn đẩy chúi người. Nếu gần hơn chắc không chạy nổi.
Mọi người lục tục kéo ra khỏi lòng khe, tìm chỗ
nghỉ đêm. Mặt trời sắp lặn, nắng chỉ còn le lói trên ngọn cây. Những con chim
sau cơn hốt hoảng nay mới kêu nháo nhác, hối hả bay về tổ.
Chúng tôi men theo cái khe cạn đi xuống phía
thấp hơn, nhưng không tìm thấy giọt nước nào. Tất cả đã bốc hơi khô kiệt đi từ
lâu. Trời sắp tối, anh Đằng quyết định dừng lại nghỉ. Mọi người đặt ba lô xuống,
vội vã dựng lều rồi đi kéo củi. Khi ngọn lửa cháy lên bập bùng thì trời cũng tối
hẳn.
Tôi ngồi tựa lưng vào gốc cây, duỗi chân ra. Mệt
rã rời. Bụng đói cồn cào nhưng miệng đắng chát không muốn ăn, chỉ thấy khát. Cả
một ngày như vậy mà chỉ đổ vào người có lít nước, mới đủ phần nhỏ lượng mồ hôi
toát ra. Các bắp thịt như nhão đi, lớp da đọng muối từ mồ hôi và bụi bám khô quắt
lại. Tôi nghĩ tới dòng suối đầy ắp nước trong veo, mới chiều qua chứ đâu! Giá
lúc này mà được cúi xuống một dòng suối như thế để uống cho đã, rồi nhào xuống
vùng vẫy cho nước tẩy hết lớp bụi đất rợp ráp trên người, cho từng giọt nước thấm
vào lỗ chân lông làm da mềm lại...
Ngón chân cái bên trái giật giật đau nhức và
nóng ran làm tôi nhớ đến chỗ vấp lúc chiều. Tôi co chân nhìn. Đầu ngón chân toé
máu phủ bụi đen sạm, gần nửa cái móng bị bong ra. Tôi mở ba lô lấy cuộn băng cá
nhân.
- Hải làm sao thế? - Anh Sơn nhìn thấy hỏi.
- Em bị vấp ở đầu ngón chân, không sao đâu!
Anh Hùng bước tới, nâng bàn chân tôi tới gần
ngọn lửa:
- Bị tróc móng, không khéo là nhiễm trùng như
chơi. Nhưng chưa cần băng vội, cậu đợi đấy!
Anh nói rồi cầm đèn pin lủi vào rừng, lát sau
đã quay lại với mấy ngọn lá trên tay.
- Đưa chân đây. - Anh nói như ra lệnh. Tôi
ngoan ngoãn chìa chân ra. Anh lấy lá cây lau sạch bụi rui bỏ mấy chiếc lá còn lại
vào mồm nhai, lấy bã đắp lên đầu ngón chân bị đau.
- Cậu lấy đoạn băng buộc lại. Không sợ nhiễm
trùng đâu, thuốc kháng sinh đấy. Một ngày sau sẽ lành.
Tôi làm theo lời anh, lát sau thấy đầu ngón
chân dịu lại, không nhức nữa.
Bữa tối, chúng tôi phải ăn lương khô vì không
có nước nấu cơm. Tôi nhai như nhai trấu, chẳng thấy ngon lành gì nhưng cũng cố
nuốt vào bụng. Mẩu lương khô thấm hết nước bọt làm cổ họng nghẹn lại. Đang ăn,
chợt anh Đằng bảo:
- Các cậu đem bi đông ra đây?
Tôi hơi ngạc nhiên nhưng cũng đưa bi đông cho
anh. Anh mở nắp từng chiếc, nghiêng miệng thận trọng róc vào bidông của mình, cố
dốc hết từng giọt nước. Xong anh cầm lên lắc lắc: "Còn đến nửa bi đông đấy,
các cậu ạ!"
Với chừng ấy nước chia đều cho mỗi người, tôi
ăn hết phong lương khô. Ít ra cũng bù đắp được phần lớn lượng calo tiêu tốn
trong ngày. Cả ba anh đều còn nước để dành, chứ trong bi đông của tôi may ra chỉ
có vài giọt, nhưng các anh không muốn tôi mặc cảm với sự “hoang phí” của mình.
Trước khi đi ngủ, chúng tôi đem mấy tấm nilon
đi mưa buộc căng vào các nhánh cây, hy vọng sẽ hứng được những giọt sương đọng
lại.
Anh Đằng kéo mấy khúc củi to chất thêm vào đống
lửa để nó cháy được suốt đêm. Ngoài tê giác ra, các con thú ở rừng đều sợ lửa.
Tê giác có tư chất của người bảo vệ rừng, nó ghét lửa như bò tót ghét màu đỏ vậy.
Nhưng ở trên cao này khó có thể gặp được loài thú quý vốn đã rất hiếm ấy.
Chúng tôi khoan khoái duỗi tấm thân mỏi nhừ
trên lớp lá lót trong lều. Lúc này anh Đáng mới hỏi:
- Sơn này, sao lúc chiều cậu biết là sắp có
vòi rồng!
Anh Sơn cười trả lời:
- Em không biết chính xác, chỉ linh cảm thấy
điều khác thường khi nhìn rừng cây. Lại nữa thấy xung quanh chim thú trốn biệt
đâu cả. Các loài vật ở rừng thường biết trước mối nguy hiểm.
Anh Hùng nói:
- Đó không phải là linh cảm, mà là hiểu biết
và kinh nghiệm tích lũy được trong đầu. Đến lúc cần thiết, bộ óc phản ứng, tự động
ráp nối các sự kiện và bật ra lời giải.
- Đúng vậy! - Anh Sơn nói tiếp - Em chưa nhìn
thấy bao giờ, nhưng đã có đọc về hiện tượng rừng cây nghiêng ngả khác thường.
Người ta phán đoán nhiều nguyên nhân khác nhau như tác động của phóng xạ, từ
trường hoặc một chất gì đó có trong nền đất hay ở xung quanh. Cũng có khi do đất
trượt. Rừng mọc trên một thềm đất trượt theo chu kỳ đều đặn so với khối nền bên
dưới nó. Cây lớn lên ở đó luôn hướng về nơi có nhiều ánh sáng. Lâu ngày cả rừng
cây phát triển thành dáng quái lạ khó hiểu, nhưng thực ra nó không nằm ngoài những
quy luật của thiên nhiên.
- Có phải vùng rừng lúc chiều luôn có vòi rồng
phải không anh? - Tôi hỏi.
- Có thể nói từ rất lâu ở đây đã có những cơn
lốc xoáy thành vòi rồng, nhưng không phải lúc nào cũng có, ngày nào cũng có. Nếu
vậy cây cối làm sao sống nổi? Nó chỉ xây ra nhiều vào mùa nắng nóng.
Tôi vẫn thắc mắc:
- Nhưng tại sao chỉ có trên vùng rừng ấy? Ở
xung quanh em thấy vẫn bình thường...
- Đó là điều mình đang suy nghĩ... - Anh ngập
ngừng một lúc rồi nói tiếp - Trên miền núi cao nhiệt đới thường có các ổ không
khí loãng. Trong điều kiện khí hậu khắc nghiệt và tùy theo địa hình, vùng không
khí đó có thể biến đổi thành áp thấp cục bộ. Máy bay bay qua những nơi này rất
dễ gặp tai nạn. Có điều... ở đây vòi rồng chỉ xoáy quanh một vùng không rộng lắm...
Có thể nơi đây là giao điểm của hai luồng gió: gió nóng tây nam và gió mát từ
biển thổi vào, nên mùa này thường xây ra những luồng khí xoáy cực mạnh.
- Thế vì sao kim địa bàn không chỉ hướng được?
Anh Sơn cười:
- Đúng là chẳng có gì qua được mắt cậu. Mình
cũng muốn làm rõ điều này mà chưa có dịp. Cố lẽ ở đây còn có một địa từ trường
lạ được tạo bởi lý do nào đó. Lúc đi trong vùng rừng ấy mình cảm thấy rất căng
thẳng... Hồi chiều qua bãi đá mình định bửa lấy mẫu, nhưng chưa kịp rút búa ra
thì đã bị rồng đuổi chạy tơi bời rồi.
- Thiên nhiên chưa muốn cậu xâm phạm vào bí mật
của nó. - Anh Hùng nói - Phải đợi dịp khác thôi! Cậu cứ chấm vào bản đồ đi, khi
nào hòa bình anh em ta quay lại đây một lần nữa.
- Nhất trí ngay! Nhưng phải đủ cả bốn người tớ
mới đi đấy nhé! Còn bây giờ ngủ thôi, các cậu!
Đêm đó còn có hai đợt gió nữa, chắc lại gió
xoáy trên vùng rừng lúc chiều. Khi gió nổi lần thứ hai, tôi ngồi dậy rồi không
sao ngủ lại được. Bên ngoài đống lửa vẫn cháy lép bép, thỉnh thoảng lại bùng
lên rừng rực lúc gió thổi tới. Ánh lửa chập chờn trên những bụi cây tối om xung
quanh, làm cho rừng càng trở nên bí ẩn.
Đến sáng, chúng tôi nhặt hết lá rụng trên mấy
tấm nilon và gom được góc bi đông nước. Thế cũng tốt lắm rồi. Tôi thè lưỡi liếm
những chiếc lá đọng sương cho đỡ khô miệng. Nước hứng được phải dành cho cả
ngày.
Anh Đằng bắc soong lên đống lửa rang nửa bao gạo
sấy. Chúng tôi chia nhau bỏ vào túi quần vừa đi vừa nhai. Đó là bữa sáng khá tiện
lợi, tuy gạo sấy rang cũng khó nuốt vì khô quá. Ăn xong mỗi người được chia hai
nắp bi đông nước. Ít ỏi, nhưng có còn hơn không.
Anh Đằng bàn với chúng tôi:
- Xem chừng cả ngày hôm nay cũng không có nước.
Các cậu nghĩ xem có cách gì khắc phục không? Và nhớ để mắt tìm con thú nào vừa
ăn bắn lấy một con. Phải đổi món, ăn lấy sức mà đi. Dành lương khô khi nào kẹt
lắm mới dùng.
Chúng tôi đều gật đầu nhất trí. Gì chứ thú rừng
không thiếu. Nước thì gay đấy! Xưa nay tôi chỉ biết là có thể vắt lấy nước
trong nõn cây chuối rừng, hơi chát nhưng uống chút ít cũng đỡ khát. Hoặc tìm
cây tre có lỗ sâu đục chặt lấy nước trong ống tre. Nhưng cả hai thứ ấy ở vùng
khô cằn này đào đâu ra?
Đoạn đường hôm nay dễ đi vì cây thưa. Mùa này
rừng khô, lá cây ngả màu héo hon. Những thân cây cổ thụ vần sừng sững như muốn
thách thức với nắng gió khắc nghiệt. Trên mấy cây dây leo lủng lẳng những chùm
quả vàng vàng đỏ đỏ, trông đẹp mắt chứ không ăn được, chỉ có mấy con ong vo ve
quanh quẩn cố tìm chút mật ngọt trong lớp vỏ.
Chúng tôi đi qua nhiều cái khe, nhưng tất cả đều
cạn khô. Đó chỉ là những chỗ trũng ven sườn đồi sườn núi, mùa mưa mới có nước.
Lúc cả tổ dừng lại nghỉ, tôi men theo một cái khe trông còn ẩm ướt, đi mãi vẫn
chỉ thấy lòng khe đầy đá tảng và đá cuội. Những giọt nước quý báu đã trôi hết về
nơi thấp hơn, hoặc thấm xuống lòng đất, hoặc bốc hơi trong cái nóng hừng hực tỏa
ra từ nguồn lửa khổng lồ vô tận của mặt trời.
Lúc quay lại, thấy anh Hùng kiếm đâu về một mớ
dâu rừng bọc trong vạt áo. Những chùm dâu chi chít quả, mới trông đã ứa nước bọt.
Dâu rừng hạt to và chua kinh khủng. Cả lớp vỏ màu trắng hơi phớt hồng cũng chứa
đầy thứ nước chua mà khi vừa cắn ngập răng, bên hàm đã buốt lên vì nước bọt tứa
ra không kịp. Chúng tôi nhấm nháp mấy quả dâu, thấy cũng dễ chịu.
Gần trưa, cả tổ bước vào một vạt rừng mọc toàn
dẻ gai. Những cây dẻ to lớn có lớp vỏ sần sùi nứt nẻ, trên tán lá sum sê lấp ló
những chùm qua mọc đầy gai như quả chôm chôm nhưng nhỏ hơn, gai cũng nhọn và cứng
hơn. Loại dẻ gai này ăn được. Khi quả khô rụng xuống, lớp vỏ bên ngoài nứt ra
còn lại hạt tròn to hơn hạt lạc được bọc một lớp vỏ cứng màu nâu nhạt. Hạt dẻ
đem rang lên, tách vỏ cứng, ăn bùi và thơm. Nhưng lúc này chưa tới mùa quả rụng.
Mặt đất phủ đầy lá khô và những mảnh vỏ gai của mùa dẻ năm trước. Trên cành
cây, mấy con sóc đang chuyền tíu tít, chúng biết ở đâu có những quả dẻ đầu mùa
đã nứt vỏ.
Đang đi, tôi chợt khựng lại khi gặp một bầy
nai. Có ba con, hai con lớn và một con mới bằng con bê. Chúng bước đủng đỉnh,
lúc lúc lại chúi mõm xuống đất như đang tìm gì đó. Khi thấy tôi, đàn nai đứng lại,
mắt ngơ ngác nhìn nửa tò mò nửa sợ sệt, những cẳng chân thon dài ngập ngừng
trên lớp ỉa khô như muốn bỏ chạy. Lát sau chúng rẽ sang lối khác, thong thả bước
khuất dần sau những thân cây. Tiếng anh Đằng nói ngay sau lưng tôi:
- Sao không bắn mà cứ đứng ngây người ra thế!
- Đẹp quá anh ạ! Em không nỡ bắn? Cả nhà nai,
mình bắn đi một con, thấy tồi tội thế nào ấy?
Anh Đằng cười:
- Ừ, bắn làm gì! Có hạ một con cũng không ăn hết.
Để rồi kiếm con thú khác.
Mươi phút sau, khi vòng qua một gốc dẻ to,
chúng tôi gặp con chồn đang chúi đầu dũi đất, chỉ cách dăm mét. Nghe động, nó
quay vụt lại bám thân cây thoăn thoắt leo lên. Tôi chưa kịp tuột súng khỏi vai
thì anh Đằng đã rút dao găm chùng chân xuống, rướn người vung tay phóng. Lưỡi
dao cắm phập đúng cổ con vật, găm nó vào gốc cây. Tôi reo lên, chạy tới gỡ lưỡi
dao cùng con thú.
Anh Sơn trầm trồ:
- Chịu tài anh đấy? Đúng là cánh đặc công các
anh "danh bất hư truyền".
Anh Hùng tủm tỉm:
- Đi với anh Đằng rồi các cậu còn biết! Tài
nghệ chưa thi thố hết đâu nhé!
Tôi nhìn con chồn nặng trĩu trên tay, thầm
nghĩ: “Thế nào cũng nhờ anh ấy dạy cho ngón phóng dao. Còn hơn cả làm xiếc!"
Bên cạnh các anh, tôi thấy mình nhỏ bé lại. Đúng là càng đi nhiều càng biết được
nhiều điều, và càng biết nhiều càng thấy mình kém cỏi.
Trưa hôm đó chúng tôi ăn thịt nướng trừ bữa và
tráng miệng bằng quả dâu rừng. Anh Đằng dốc hết số nước hứng được lúc sáng chia
đều cho mọi người. Tôi bưng chỗ nước ít ỏi nhấp từng hớp nhỏ, trịnh trọng như
các cụ uống rượu.
Ăn xong bữa, chúng tôi tiếp tục đi sau khi đã
cẩn thận dập tắt đống lửa. Khô nóng thế này, chỉ cần một tia lửa cũng đủ gây
cháy rừng.
Qua hết rừng dẻ gai thì tới một triền núi cây
mọc lúp xúp chen với cỏ lau. Nắng chang chang trên đầu. Mọi người nói nhau băng
qua rừng lau vàng cháy. Lá lau khô sắc như dao cứa vào những chỗ da thịt không
có lớp vải che chở, những vết cứa không nhìn thấy ngay được, chỉ khi mồ hôi ngấm
vào ta mới biết.
Lúc này cổ họng tôi đắng nghét, nước bọt dính
dẻo trong miệng. ánh nắng nhảy múa trước mắt như những quầng lửa. Tôi thò tay
vào túi quần lấy một quả dâu cho vào miệng cắn, chợt bật kêu lên vì cảm giác
đau buốt hai bên má. Cố không nghĩ đến cơn khát, tôi loạng choạng đạp trên những
thân lau khô giòn đuổi theo những người đi trước.
Quá nửa chiều mới xuống đến chân núi. Cả tổ dừng
nghỉ dưới bóng một khóm lau. Mấy bông lau trắng khô xác phất phơ trong gió như
muốn báo rằng không thể tìm thấy nước ở vùng này. Nghỉ được vài phút, anh Hùng
lại cầm dao xách súng lủi đi. Lát sau nghe tiếng anh gọi vang, cách đấy chừng
trăm mét: "Lên đây các cậu ơi! Có nước rồi!" Chúng tôi nhỏm dậy, xách
theo chiếc ba lô của anh vội vã bươn tới. Leo qua đoạn dốc ngắn, thấy anh đang
đứng bên một gốc cây to lá mọc thưa thớt, có những chạc dây leo bám lòng thòng
vào nhánh cây. Tôi ngạc nhiên hỏi:
- Nước đâu anh?
- Nước đây chứ đâu! - Anh Hùng mỉm cười, tay cầm
dao chỉ vào mấy cây dây leo.
Đợi mọi người lên đủ, anh vung tay vung dao phạt
ngang những thân dây leo, giúi vào tay mỗi người một gốc: "Uống đi, nước
máy đây?" Tôi ngỡ ngàng đưa đầu thân cây vào miệng, cảm thấy nước rịn ra từ
vết chém thấm mát đầu lưỡi. Nước không nhiều nhưng rất ngọt và cũng làm cơn
khát dịu đi. Tôi nhìn đoạn dây leo xù xì, tự hỏi không biết rễ của loài cây này
đâm sâu tận đâu trong lòng đất mới hút được nước lên nuôi những chiếc lá trên
cao kia?
Khi đỡ khát, chúng tôi tiếp tục băng qua triền
núi trọc. Mãi lúc trời chạng vạng tối mới tới được một cánh rừng có màu lá xanh
đậm. Dựng xong lều và đốt lên đống lửa thì bóng đêm đã đen ngòm trên vòm cây. Mấy
ngôi sao hiện ra nhấp nháy qua kẽ lá. Chúng tôi ngồi quanh đống lửa, ai nấy đều
mỏi mệt. Thiếu nước nên sức người mau kiệt. Chút nước từ cây dây leo chỉ làm dịu
cơn khát chứ không cung cấp đủ lượng nước cơ thể đòi hỏi. Tuy vậy tôi cũng gắng
ăn hết nửa phong lương khô. Nếu không ăn, sẽ khó lòng đi tiếp được.
Anh Đằng lấy trong ba lô ra một lọ viên C mà
không biết anh mang theo tự lúc nào, chia cho mỗi người mười viên. Tôi ngậm những
viên thuốc trong miệng cho nó tan dần. Vị chua dìu dịu thấm trên đầu lưỡi làm
người tỉnh táo hơn.
Trời tối mịt. Tôi cùng anh Hùng ra ngoài căng
mấy tấm nilon để hứng sương, lúc quay vào thấy hai anh đang rọi đèn xem bản đồ.
Anh Sơn nói:
- Ta vẫn đi đúng hướng, nhưng sắp tới địa hình
khá phức tạp. Đây này, - Anh chỉ trên bản đồ - vùng này có nhiều ngọn núi san
sát, nhiều khe sâu. Phải chú ý sao cho khỏi chệch hướng, nhất là khi đi vòng
tránh những chỗ khó. Tôi hỏi:
- Còn xa không anh? - Theo đường thẳng chỉ bốn
chục cây, nhưng sẽ phải đi quãng đường dài hơn nhiều lần đấy?
- Thế anh đi rừng có bị lạc khi nào không?
- Có chứ! Lạc rừng là chuyện cơm bữa. Kể cả
khi có bản đồ, địa bàn trong tay mà phải băng rừng nhiều ngày, không cẩn thận
cũng rất dễ chệch hướng. Sai một ly, đi nhiều dặm là chuyện thường.
Anh Hùng cười:
- Lạc đường là một khái niệm do con người đặt
ra. Đúng ra phải nói: đi chưa đúng với dự tính lúc đầu. Nếu anh quen với rừng,
sống được giữa rừng thì chuyện đó chẳng là cái gì cả chỉ cần đừng có hốt hoảng
quá.
- Vậy theo anh, ở rừng sợ nhất chuyện gì?
Anh Hùng thoáng nhăn mặt:
- Một câu hỏi khó trả lời đấy! Bởi theo mình
thì chẳng có gì đáng sợ cả, làm sao có "sợ nhất" được? Sống trong rừng
đúng là có thể gặp nhiều rủi ro, ví như rắn độc, thú dữ, sốt rét, lũ cuốn...,
nhưng khi anh sống giữa cuộc sống đời thường, những rủi ro cũng đâu có thiếu?
Suy cho cùng, những nguy hiểm trong rừng ta có thể biết trước, và cũng có cách
đề phòng, có cách vượt qua. Từ xa xưa loài người chẳng đã sống dựa vào thiên
nhiên, chinh phục thiên nhiên là gì?
Anh Đằng cười:
- Cậu muốn con người quay lại rừng sống như thời
tiền sử chắc?
Anh Hùng chẳng hề lúng túng:
- Hoàn toàn không phải như vậy. Ngay từ thời
tiền sử rừng không chỉ nuôi sống con người mà còn dạy cho họ biết lao động để tồn
tại và phát triển. Nhờ rừng mà con người biết chăn nuôi trồng trọt. Hạt lúa củ
khoái, con gà con trâu... bây giờ cũng từ rừng mà có. Dòng suối dạy con người
làm cối giã gạo, con sông ngọn thác dạy làm thủy điện. Nghe nói cái thác Bờ quê
tôi, tức quê vợ tôi ấy mà, sau này làm thủy điện là nhất! Rừng có lúc khắc nghiệt
thật, nhưng không ác độc bao giờ. Khi sống với rừng, con người trở nên nhân
nghĩa hơn. Đời xưa, các cụ ẩn dật thường vào sống ở chốn non xanh núi thẳm, vui
chơi nơi khe suối thác nước, tháng ngày bầu bạn với cỏ cây muông thú, cũng
chính vì thế.
Anh Sơn chêm vào:
- Các cụ ẩn dật nhưng cơm nước có đệ tử lo, đi
câu cá có tiểu đồng theo hầu rượu, gạt bỏ mọi vướng víu toan tính trong cuộc sống
cho người khác lo hộ, chẳng lẽ như thế lại mẫu mực ư?
Anh Hùng ngẫm nghĩ một lát rồi trả lời:
- Tôi không nói đó là cách sống hoàn hảo. Người
ẩn dật không màng danh lợi, kiềm chế được tham vọng là điều tốt, nhưng chỉ về mặt
tu tâm dưỡng tính thôi, chứ quay lưng với đời thì chưa hẳn đã hay. Chuyện này
bàn dài lắm. Ở đây tôi chỉ muốn nói đến tác động của thiên nhiên đối với con
người. Rừng biết cách làm dịu nỗi đau khi con người gặp bất hạnh. Những lúc
căng thẳng lo âu, anh hãy vào rừng nghe tiếng gió lùa trong lá, tiếng chim líu
lo vô tư, tiếng suối róc rách triền miên... Anh ngả lưng lên đám cỏ xanh dưới gốc
cây hay bước đi trên lớp lá khô xào xạc và ngửi mùi hoa dại... Lúc đó sẽ thấy
lòng dịu lại, nhẹ nhõm và thanh thản hơn. Con người biết tìm đến với rừng như một
bản năng trở về với cội nguồn của mình. Đứng trước vẻ đẹp hùng vĩ và sự giàu có
vô tận của rừng cũng như những bí ẩn kỳ thú cùng những thử thách khắc nghiệt của
nó, thì mọi suy tính nhỏ nhen ích kỷ, mọi bon chen vụn vặt trong cuộc sống thường
ngày đều trở nên vô nghĩa...
Nghe đến đây, anh Đằng vỗ tay cười ha hả:
- Đấy? Các cậu biết lính trinh sát chưa? Triết
lý không kém các bậc thâm nho uyên bác đâu nhé?
Lần này anh Hùng lúng túng thật sự. Anh gãi đầu
ngượng nghịu:
- Triết lý gì đâu! Chẳng qua tôi nghĩ sao nói
vậy thôi...
Tôi biết anh nói thực lòng. Những điều anh vừa
tâm sự là những suy nghĩ, nghiền ngẫm qua nhiều năm tháng của cuộc đời. Nhưng
phải là người yêu rừng đến độ say mê, gắn bó với rừng bằng cả tâm hồn và máu thịt
mới nghĩ được, nói được như vậy.
Lúc trời sáng rõ, tôi mới nhận ra đêm qua mình
nghỉ lại trong một rừng lim. Và suốt buổi sáng hôm ấy, chúng tôi vẫn đi dưới những
tán lim. Những cây lim cổ thụ dễ phải đến hàng trăm năm tuổi xòe cành lá rườm
rà xúm xuê che rợp khắp rừng. Rất ít loài cây khác mọc lẫn vào. Trên nền đất phủ
dày lá khô, những quả lim rụng xuống nứt ra vô số hạt màu đỏ tròn nhỏ xinh xinh
như những viên thuốc bổ. Anh Hùng đập tay vào lớp vỏ nứt nẻ của một gốc lim to
cỡ bốn chúng tôi ôm không xuể trầm trồ:
- Cây lim xanh đấy! Loại này đứng đầu hàng thiết
mộc. Các cụ có gỗ này làm đình thì sướng phải biết! Cứ gọi là hàng trăm năm
không mục, không mối mọt.
Còn tôi nhìn màu xanh tươi mát của rừng lim mà
hy vọng sẽ tìm thấy nước. Số nước hứng được hôm qua chỉ đủ mỗi người một ngụm
nhỏ uống sau khi ăn lương khô buổi sáng. Đi trong rừng mát đỡ ra mồ hôi, nhưng
cái khát không vì thế mà giảm đi.
Rừng lim mọc trên một triền dốc, càng đi càng
xuống thấp. Đến gần trưa chúng tôi gặp được một con suối nhỏ, rộng chưa đầy hai
mét, nhưng khá sâu. Tôi nhảy cẫng lên mừng rỡ. Dòng nước mới trong mát làm sao!
Cứ như là trong mơ? Chưa chi tôi đã cảm thấy vị ngọt mát trôi qua cổ, thấm dần
vào từng mạch máu, từng thớ thịt.
Mắt sáng lên, tôi bước gấp mấy bước đến bên bờ
suối định nhảy ùm xuống. Chợt anh Hùng thét giật giọng:
- Khoan, đừng xuống! - Anh chạy tới túm tay
tôi kéo giật trở lại.
Tôi ngơ ngác nhìn, chẳng hiểu gì cả. Anh Đằng
lặng lẽ đứng quan sát dòng nước, lát sau mới bảo:
- Các cậu lên đây! Ta ngồi nghỉ một lúc.
Anh bước đến bên một gốc lim, cởi ba lô ngồi
xuống. Chúng tôi làm theo.
- Nước ở đây không uống được - Anh nói chậm
rãi.
Tôi sửng sốt kêu lên:
- Sao lại không uống được?
- Nước độc đấy? Con suối này chảy giữa rừng
lim, mà cây lim rất độc. Nhựa cây ngấm ra từ rễ và từ lá rụng ngâm trong nước,
uống nó rất nguy hiểm. Tôi ấm ức:
- Chẳng lẽ nơi nào có cây lim thì nước đều
không dùng được à?
- Cũng không hẳn như vậy! - Anh Đằng giải
thích - Khi nước chảy qua những nơi cây lim mọc chen với các loài cây khác, chắc
không sao. Nhất là nếu con suối chảy xiết, cuốn lá cây trôi nhanh. Còn ở đây, cậu
nhìn kỹ xem!
Quả thật dòng suối này chảy lờ đờ, dưới đáy đầy
lá rụng và cành cây đã mục ải. Có lẽ vì thế mà nước suối có sắc đen, mặc dù vẫn
trong veo. Không thấy những con vật sống dưới nước như thường có ở các con suối
khác. Ngay cả những tảng đá dầm chân dưới suối cũng đọng màu xám đen chứ không
có lớp rêu xanh. Con suối này đã ngâm lá lim hàng trăm năm nay rồi.
Chúng tôi bàn bạc, cuối cùng quyết định sẽ đi
ngược dòng suối cho đến khi tìm ra một khe nước có thể uống được. Như vậy sẽ phải
đi vòng khá xa, nhưng đành chấp nhận vì không thể liều mạng băng qua rừng lim
trong tình trạng này.
Tôi khoác ba lô lên vai, tiếc rẻ nhìn dòng nước
đầy ắp bên cạnh. Đã đến lúc ăn trưa, nhưng chẳng ai ăn nổi vì vừa khát vừa mệt.
Cảm giác đó càng nặng nề thêm bởi sự thất vọng trước dòng suối mà tôi ngỡ sẽ được
uống được tắm thỏa thích.
Hơn một giờ sau, chúng tôi vẫn đi trong rừng
lim xanh âm u. Dòng suối bên cạnh lúc lúc lại reo róc rách trêu ngươi, mặt nước
lóng lánh nắng như mời mọc khêu gợi. Tôi lê từng bước nặng nhọc, hơi thở lùng
bùng trong tai, chân tay như muốn rời ra. Lưỡi phồng rộp, cổ họng đau rát, tôi
cố nuốt nước bọt nhưng chỉ có cảm giác đau tức chạy từ họng xuống ngực rồi tràn
ra hai lá phổi...
Phía trước có tiếng anh Đằng nói với lại: “Sắp
hết rừng lim rồi..." Tôi ngẩng nhìn. Tán lá trên đầu thưa hơn và ánh mặt
trời chói lòa qua các khoảng trống. Mắt sáng lên, tôi bước hối hả eho kịp anh Đằng.
Những cây lim cổ thụ thưa dần, nhiều bụi cây mọc lúp xúp dọc bờ suối. Ra khỏi rừng
lim nước sẽ uống được.
Nhưng đi thêm chừng nửa cây số thì sự hăm hở
trong tôi cũng nguội dần. Phía bên kia suối, rừng lim vẫn xanh rì như chẳng bao
giờ hết. Chắc hiểu rõ tâm trạng của tôi, anh Sơn nói bằng giọng khản đặc:
- Không sao đâu! Thế nào mình cũng gặp được
khe nước ở phía bên này. Phải có khe mới hợp thành suối được chứ!
- Anh gặp rừng lim nào như thế này chưa? - Tôi
hỏi, cốt để quên đi con suối độc ác đang chảy bên cạnh.
- Cũng có gặp, nhưng không như ở đây. Này, Hải
đã dọc Tam Quốc chưa?
- Em đọc rồi! Sao không anh?
- Cậu còn nhớ đoạn Khổng Minh dẫn quân đi đánh
Mạnh Hoạch không?
- Em nhớ Khổng Minh đánh bảy lần mới chinh phục
được. Anh muốn nói là...
- Vậy cậu có nhớ lúc quân Khổng Minh lội qua
suối nước độc chứ? Chỉ lội xuống thôi mà chết hàng ngàn người ngựa. Các cụ xưa
viết thế không phải là bịa đâu nhé, có cơ sở cả đấy? Có thể con suối đó chảy
qua rừng cây có nhựa độc nên mới như vậy. Trong rừng thiếu gì cây độc! Ngay ở
dưới xuôi ta, cây xoan cũng rất độc. Chỗ nào có lá xoan rụng xuống lâu ngày hoặc
rễ nó bò tới, đố trồng được cây gì nên hồn...
Đúng lúc đó, một tiếng thét lạc giọng vang lên
từ phía sau. Tôi quay ngoắt lại. Điều trông thấy trước mắt thật khủng khiếp: một
con trăn to tướng da đen mốc loang lổ đang quấn cả anh Hùng lẫn chiếc ba lô
trong những vòng thân cuồn cuộn lởm chởm vảy. Cái đầu tam giác của nó đung đưa,
miệng ngoác ra đỏ lòm. Anh Hùng giơ hai tay trước ngực, gồng người chống đỡ với
những vòng cuốn như thép đang siết lại.
Tôi kinh hoàng ngã ngồi xuống đất, người run bắn.
Như cái máy, tôi lập cập giương súng hướng nòng lên trời, ngón tay tự động bịt
khóa an toàn và bóp cò. Loạt đạn nổ vang, nòng súng phụt khói trắng nẩy bần bật.
Bên cạnh, anh Sơn cũng nâng súng lên nhưng chần chừ chưa dám bắn.
"Đừng bắn". Anh Đằng thét lớn và lao
vụt đến như tia chớp, tay vung dao phạt ngang cái đầu con trăn đang phóng tới.
Nó rụt lại tránh được. Anh thụp người sát đất tránh cú mổ tiếp theo rồi nhào ra
phía sau, chém phập một nhát vào khúc đuôi đang ngoe nguẩy trên đầu anh Hùng.
Bị đòn chí tử, con trăn bung mạnh cả cái thân
dài thòng quật anh Đằng ngã lăn xuống đất, lưỡi dao trên tay văng ra xa. Nhưng
địch thủ của anh không còn làm gì được nữa, nó lao vút vào bụi rậm kéo lê theo
cái chót đuôi bết máu.
Tôi chạy tới đỡ anh Hùng dậy. Người anh nhũn
ra vì phải dùng hết sức trong những giây vừa qua. Chúng tôi dìu anh đến ngồi tựa
vào gốc cây gần đó.
- Có sao không Hùng? - Anh Đằng hỏi trong hơi
thở hổn hển.
- Không... không sao? May mà tôi... gồng tay đỡ
được trước ngực, sau lưng... có cái ba lô... - Anh Hùng mỉm cười yếu ớt. Nhờ soạt
súng Hải bắn nên con trăn giật mình không quấn tiếp được... Nó mà quấn vào cổ
là nguy rồi...
Tôi sờ nắn khắp người anh. Chưa bị gãy chiếc
xương nào, chỉ trên bắp tay trái chỗ bị trăn cắn máu đang nhỏ giọt.
- Nghe soạt một cái, mới quay lại nhìn đã thấy
nó lao tới. Tôi vung tay đỡ, nó táp ngay vào tay. - Anh Hùng kể, co tay nhìn vết
thương.
Tôi cùng anh Sơn cố nặn hết những giọt máu bầm.
Con trăn không có nọc độc, nhưng hàm răng của nó chẳng sạch sẽ gì, vết cắn rất
dễ nhiễm trùng. Chúng tôi lấy cồn lau sạch vết thương và băng lại. Anh Hùng bảo
cứ băng tạm, để rồi anh kiếm lá đắp vào. Một lát sau, anh giục đi tiếp vì trời
đã chiều.
Chúng tôi men theo con suối đi lên một sườn dốc
thoai thoải. Không hiểu sao tôi thấy mình không còn mệt mỏi như lúc nãy. Sự việc
vừa qua đã đẩy cơn khát xuống hàng thứ yếu.
Đi thêm nửa giờ thì gặp một cái khe nhỏ chảy từ
trong sườn núi ra. Dòng nước chỉ lắp xắp bàn tay nhưng vẫn là cứu tinh của
chúng tôi. Tôi để nguyên ba lô trên dưng nằm skế hoạch trên cỏ, vục mặt xuống
nước uống đến căng bụng. Chưa bao giờ có thứ nước nào ngon ngọt đến thế. Nước
mát lạnh, uống vào đến đâu biết đến đó. Từng thớ thịt trong người mềm ra, hơi
thở nhẹ lại, đầu óc sáng láng tỉnh táo hẳn.
Uống xong nước, anh Đằng dặn chúng tôi nấu cơm
rồi xách súng lủi đi. Mươi phút sau, một phát súng vang lên ở mé trên khe nước,
tiếng nổ vọng vào vách núi rền như tiếng sấm. Lát sau anh quay về, tay xách con
cheo nặng chửng bảy kí, trông giống lợn rừng nhưng chân thấp mõm ngắn và nhỏ
con hơn nhiều.
Tôi dùng dao găm đào một cái hố bằng miệng
thúng ngay giữa lòng khe. Nước chảy vào đầy hố cuốn đất bùn trôi đi tạo thành
cái giếng nhỏ nước trong vắt.
Trời còn sớm nên chúng tôi thong thả đun nước
làm thịt con cheo và thay nhau tắm giặt.
Một ngày nắng gắt trôi qua khi mặt trời khuất
sau ngọn núi. Ráng chiều đỏ ửng cả góc trời phía tây. Chúng tôi ngồi bên đống lửa,
ăn bữa cơm ngon lành sau ba ngày đói khát. Thực đơn khá thịnh soạn: thịt nướng,
thịt luộc bóp muối, canh rau rừng nấu với lòng cheo, lại còn món thịt kho mặn để
dành cho ngày mai.
Trong bữa ăn, câu chuyện vẫn xoay quanh vụ con
trăn. Tôi nói với anh Hùng:
- Khi đó em cuống lên, chẳng còn biết mình bắn
như thế nào nữa. May có anh Đằng chứ không thì... - Tôi bỏ lửng câu nói, không
dám nghĩ tới cảnh chúng tôi cầm súng trong tay mà chịu đứng nhìn con vật bò sát
kinh tởm đó quấn chết anh.
Anh Hùng bảo:
- Con trăn mạnh nhờ xương sống, nhưng chót
đuôi là chỗ nhạy cảm nhất của nó. Đánh được vào đó coi như điểm trúng huyệt, nắm
chắc phần thắng trong tay.
Tôi buột miệng:
- Đấy anh cứ khen mãi đi! Em thấy rừng chẳng
hiền lành chút nào...
Anh Hùng ngắt lời tôi:
- Khi đã vào rừng, dù muốn hay không, anh cũng
phải tham gia vào cuộc đấu tranh sinh tồn khốc liệt. Lúc sống trong thế giới hiện
đại, con người cũng thường xuyên bị nguy hiểm rình rập đấy thôi! Có khi còn ở mức
độ cao hơn ấy chứ! - Anh nháy mắt với tôi - Cậu cứ coi như vừa rồi mình đi trên
đường phố bị tai nạn ô tô thôi...
Mọi người bật cười. Biết anh nói có lý, nhưng
thực lòng tôi chẳng hề ưa "chiếc ô tô" của anh chút nào.