Tác giả: Lưu Á Châu
(Liu Ya-zhou, Trung Quốc)
Có một câu chí lý thế này:
Hay bàn luận về khuyết điểm của người khác thì anh là kẻ đạo đức thấp kém. Hay
bàn luận về khuyết điểm của nhân loại thì anh là một nhà tư tưởng. sự kiện nóng
LTS: Lưu Á Châu sinh năm 1952, là con rể cố Chủ tịch nước Trung
Quốc Lý Tiên Niệm, có thời là Phó Chính uỷ bộ đội không quân Trung Quốc, nay là
Chính uỷ Trường đại học Quốc phòng Trung Quốc, từng là giáo sư
thỉnh giảng của ĐH Stanford Mỹ. Ông đồng thời là một nhà văn có tiếng, chủ nhân
một số giải thưởng văn học. Các bài viết của ông ngôn từ mạnh dạn, quan điểm
mới mẻ (nhất là quan điểm đối với Mỹ), lập luận sắc bén của ông được dư luận
rất quan tâm.
Dưới
đây là phần lược dịch bài nói ngày 11/9/2002 của ông - Trung tướng không quân
Lưu Á Châu, lúc đó là Chính uỷ bộ đội không quân Quân khu Thành Đô Trung Quốc, trước các cán
bộ quân đội cấp tiểu đoàn trở lên tại căn cứ không quân Côn Minh, Vân Nam.
Tuần
Việt Nam xin
đăng lại ý kiến cá nhân của ông, một vị Trung tướng của Trung Quốc để rộng
đường dư luận. Mời quý bạn đọc gần xa, trong nước và nước ngoài gửi bài, ý kiến
trao đổi, tranh luận.
Người phê
phán văn hoá Trung Hoa
Trong quá
khứ, tôi trước tiên là người kế thừa văn hoá Trung Hoa, sau đó mới là người phê
phán văn hoá Trung Hoa. Hiện nay tôi trước tiên là người phê phán văn hoá Trung
Hoa sau đó mới là người kế thừa.
Lịch sử
phương Tây là một bộ sử sửa cái xấu, cái sai thành cái tốt, cái đúng. Lịch sử
Trung Quốc thì là một bộ sử sửa cái tốt cái đúng thành cái xấu cái sai. Thời cổ,
phương Tây cái gì cũng cấm, chỉ có điều không cấm bản năng con người. Trung
Quốc cái gì cũng không cấm, riêng bản năng thì cấm.
Người
phương Tây dám thể hiện bản thân, tức thể hiện tư tưởng mình và còn dám phô bầy
thân xác loã lồ của mình. Trung Quốc chỉ biết mặc quần áo, mặc quần áo cho tư
tưởng. Mặc bao giờ cũng dễ hơn cởi. Phương Tây đả kích mặt đen tối của mình,
cho nên tìm được ánh sáng, tư tưởng của họ đang bay bổng. Chúng ta ca ngợi sự
sáng sủa của mình, kết quả đem lại bóng tối nghìn năm.
Trung Quốc không có nhà tư tưởng, chỉ có nhà mưu lược.
Hegel từng nói: "Trung Quốc không có triết học." Tôi cho rằng mấy
nghìn năm nay Trung Quốc chưa sản sinh được nhà tư tưởng nào. Nhà tư tưởng tôi
nói là những người như Hegel, Socrates, Plato, những nhà tư tưởng ấy có cống
hiến to lớn đối với tiến trình văn minh nhân loại. Lão Đan [tức Lão Tử - ND],
bạn nói ông ấy là nhà tư tưởng phải không?
Chỉ dựa vào "Đạo đức kinh" 5000 chữ mà có thể
làm nhà tư tưởng ư? Đấy là chưa nói "Đạo đức kinh" của ông có vấn đề.
Khổng Tử có thể coi là nhà tư tưởng chăng? Thế hệ chúng
ta xem xét ông thế nào? Tác phẩm của ông bị xem xét ra sao? Tác phẩm của ông
chưa từng cung cấp cho nội tâm người Trung Quốc một hệ thống giá trị có thể đối
kháng quyền lực thế tục. Cái mà ông cung cấp là tất cả xoay xung quanh quyền
lực.
Nếu Nho học là một tôn giáo thì đó là một tôn giáo rởm;
nếu là tín ngưỡng thì là tín ngưỡng rởm; nếu là triết học thì đó là triết học
của xã hội quan trường hoá. Xét trên ý nghĩa này thì Nho học có tội với người
Trung Quốc. Trung Quốc không thể có nhà tư tưởng, chỉ có nhà mưu lược. Xã hội
Trung Quốc là xã hội binh pháp, dân tộc ta chỉ tôn sùng nhà mưu lược. Một Gia
Cát Lượng chẳng mấy thành công về sự nghiệp lại được người ta kỷ niệm nhiều
lần. Ông ấy bụng dạ kém khoáng đạt, cách dùng người cũng chưa thích hợp.
Có tư liệu cho thấy ông ta còn là kẻ lộng quyền. Nhưng
chính con người như thế lại được nâng lên tầm cao phát sợ. Đây cũng là một phác
hoạ tâm hồn dân tộc ta. Dưới hình thái xã hội như thế có ba loại hành vi thịnh
hành ở Trung Quốc.
Ba loại hành vi thịnh hành tại Trung Quốc
1.Thuật nguỵ biện. Con trai tôi năm nay thi vào khoa
báo chí một trường đại học. Khoa này là một trong những khoa báo chí tốt nhất
Trung Quốc. Tôi bảo nó: Đưa giáo trình cho bố xem. Đọc xong tôi bảo thứ này
không đáng đọc. Trong giáo trình có một suy đoán như sau: Trung Quốc phát minh
ra thuốc nổ; thuốc nổ truyền tới châu Âu đã phá tan dinh luỹ phong kiến Trung
thế kỷ của châu Âu. Thật nực cười. Thuốc nổ anh phát minh ra phá tan dinh luỹ
phong kiến của người ta, thế sao dinh luỹ của chính anh lại không bị phá vỡ?
Ngược lại còn vững chắc hơn?
Tại Đại học Quốc phòng Trung Quốc, khi thảo luận vấn đề
Đài Loan có một quan điểm được nhiều người tán đồng như sau: Đài Loan như một
cái ổ khoá. Nếu không giải quyết được vấn đề Đài Loan thì ổ khoá ấy sẽ khoá
chặt cánh cổng lớn của Trung Quốc, Trung Quốc sẽ không có lối ra biển cả. Đó là
sự nguỵ biện. Tây Ban Nha sau khi trở thành cường quốc biển, đâu có thể ngăn
cản anh hàng xóm Bồ Đào Nha cũng trở thành cường quốc biển. Eo biển Dover của
Pháp cách nước Anh có 28 hải lý, Anh Quốc có thể ngăn cản Pháp trở thành cường
quốc biển không?
Trung Quốc mất biển, chủ yếu là do tầng lớp thống trị
Trung Quốc nhiều đời chưa có quan điểmQuyền lực biển.
Có lẽ mọi người chưa chú ý tới chuyện một số hội Phật
Giáo, Đạo giáo thường đứng ra chủ trì việc phê phán một số đoàn thể mê tín
phong kiến, các vị đạo trưởng ung dung nói năng, phê phán người ta là mê tín
phong kiến. Tôi muốn cười thầm nhưng lại không nhịn được cười thành tiếng. Bảo
người ta là mê tín phong kiến, lẽ nào ông là duy vật chăng? Chẳng phải cũng là
mê tín đó sao?
2. Đối ngoại lôi kéo vỗ về, đối nội tàn nhẫn. Văn minh
châu Âu và văn minh Trung Quốc hầu như đồng thời cất bước nhưng châu Âu hình
thành nhiều quốc gia nhỏ, Trung Quốc hình thành một đại đế quốc thống nhất. Nói
tới chuyện này chúng ta thường hí hửng phấn khởi. Thực ra châu Âu hình thành
nhiều quốc gia như thế chính là một dạng thể hiện tư tưởng tự do của họ. Tuy
hình thành nhiều quốc gia như vậy nhưng bao nhiêu thứ có liên quan đến văn minh
nhân loại chính là sinh ra từ các tiểu quốc chia tách ra ấy.
Còn chúng ta đã làm được gì cho văn minh thế giới? Có
thể khẳng định, thống nhất giang sơn có mối quan hệ tất nhiên nào đó với tư
tưởng thống nhất. Xã hội mưu lược là xã hội hướng nội.
Tôi từng nghiên cứu kỹ sự khác biệt giữa Trung Quốc với
Mỹ. Trên mặt công việc quốc tế, về cơ bản Trung Quốc mềm mỏng, còn trên mặt
công việc trong nước thì cứng rắn. Nước Mỹ ngược lại, họ rắn trên mặt công việc
quốc tế, mềm trên mặt công việc trong nước. Chẳng còn nhớ trong một cuốn sách
nào đấy tôi có đề cập vấn đề này, có lẽ là cuốn Đánh giá nguy hiểm tác
chiến với Đài Loan, và kết luận: Chuyện này là do sự khác biệt văn hoá
quyết định.
Văn hoá Trung Quốc có tính khép kín, kín đáo, hướng
nội. Văn hoá Mỹ thì cởi mở, hướng ngoại. Tư tưởng đại nhất thống cũng là tư
tưởng kiểu hướng nội. Điều đó giải thích vì sao trước bọn xâm lược nước ngoài
thì chúng ta là bầy cừu, trước đồng bào mình thì chúng ta là lang sói. Ngót
trăm lính Nhật là đủ để áp giải 50 nghìn tù bình quân Quốc Dân Đảng đến Yến Tử
Cơ [một địa danh thuộc tỉnh Giang Tô - ND] xử bắn. Chưa nói đến chống lại, các
tù binh này chẳng có cả tới dũng khí bỏ chạy nữa kia.
3. Hành vi thô bỉ. Sự thô bỉ về tinh thần ắt đem lại sự
thô bỉ trong hành vi. Sự cao quý tinh thần ắt sẽ đem lại sự cao quý trong hành
vi. Khoảng hai chục năm trước khu phố nhà tôi có xảy ra chuyện như sau: Một đôi
vợ chồng li dị, ông chồng dẫn cô bồ mới về nhà, hai vợ chồng cãi nhau. Bà vợ
chạy lên gác trên muốn nhảy lầu. Rất nhiều người xúm lại xem. Có kẻ vì hí hửng
khi thấy người khác gặp tai nạn mà hét to: "Nhảy đi, nhảy đi!" Về sau
cảnh sát đến cứu được bà kia xuống, những người xem thậm chí còn cảm thấy tiếc
rẻ.
Tôi thở dài một cái rồi về nhà, mở ti-vi xem. Đúng lúc
ấy trên ti-vi đang chiếu bộ phim kể về một chuyện có thật xảy ra ở châu Âu.
Chuyện như sau: Một nước nào đó, nhớ mang máng là Hungary thì phải, 70 năm
trước có một anh thợ mỏ trẻ sắp cưới vợ. Trong lần cuối cùng xuống giếng mỏ
trước ngày cưới thì mỏ xảy ra sụt lở, anh thợ kia mãi mãi không thể trở về. Cô
dâu không thể tin rằng người yêu của mình có thể bỏ cô mà đi, cứ thế đằng đẵng
chờ 70 năm trời.
Cách đây ít lâu người ta sửa lại hầm mỏ, phát hiện thấy
trong vũng nước đọng ở chỗ sâu có một xác người. Đó chính là chàng rể- thợ mỏ
nọ bị vùi dưới giếng 70 năm trước. Vì dưới ấy không có không khí, xác lại ngâm
trong nước có khoáng chất nên người ấy trông vẫn trẻ như lúc chết. Cô dâu thì
đã là bà lão tóc bạc phơ.
Bà cụ ôm lấy người yêu khóc nức nở. Bà quyết định tiếp
tục làm lễ cưới của họ. Cảnh này thật quá xúc động: Cô dâu 80 tuổi mặc áo cưới
trang trọng một màu trắng như tuyết. Tóc cũng trắng như tuyết. Người yêu của bà
thì vẫn trẻ như xưa, mắt nhắm nghiền nằm trên cỗ xe ngựa. Hôn lễ và tang lễ
đồng thời tiến hành. Bao nhiêu người rơi lệ.
Vụ 11/9 thử thách trình độ đạo đức quốc dân
Vụ 11/ 9 năm ngoái là sự việc có thể khảo nghiệm trình
độ đạo đức của dân tộc ta nhất. Hôm nay [tức 11/09/2002 - ND] vừa đúng tròn một
năm sự kiện ấy. Vụ 11/ 9 tuy không thể thay đổi thế giới nhưng đã thay đổi nước
Mỹ. Đồng thời, thế giới sau ngày ấy rất khó trở lại trước sự kiện này.
Khi xảy ra vụ 11/9, ít nhất trong một quãng thời gian
sau đó nước ta bị bao phủ bởi một bầu không khí không lành mạnh. Tối hôm 12/9,
có người bạn gọi điện thoại cho tôi nói sinh viên ĐH Bắc Kinh và ĐH Thanh Hoa
đang khua chiêng gõ trống. Tôi bảo đội tuyển bóng đá quốc gia Trung Quốc còn
chưa lọt vào vòng sau kia mà, phải đến mồng 7/10 đội Trung Quốc mới đấu trận
cuối cùng với đội Liên hiệp Vương quốc A Rập, nếu thắng thì sẽ lọt vào danh
sách dự World Cup. Một lúc sau mới biết thì ra sinh viên Trung Quốc đang chúc
mừng việc toà tháp đôi Mỹ bị đánh sập.
Báo chí nước ngoài đưa tin: Hồi ấy có một đoàn nhà báo
Trung Quốc đang ở thăm Mỹ, khi thấy hình ảnh toà nhà Trung tâm Thương mại thế
giới bị đánh phá, các thành viên đoàn nhà báo này bất giác vỗ tay. Đây là một
dạng ngấm văn hoá; điều đó không thể trách họ, bọn họ đã không thể kiềm chế
được bản thân. Kết quả họ bị [chính phủ Mỹ - ND] tuyên bố là những người mãi
mãi không được hoan nghênh. Hồi ấy tôi đang ở Không quân Bắc Kinh [1], mấy hôm
ấy đều có người ở bộ đội đến thăm, gặp ai tôi cũng hỏi quan điểm của họ đối với
vụ 11/9. Tất cả đều trả lời: Đánh bom hay lắm.
Sau này tôi nói đây là một tình trạng rất đáng buồn.
Nếu những người ấy yêu mến Trung Quốc, thế thì có cứu được Trung Quốc hay
không? Về giới truyền thông thì càng chẳng nên nhắc tới. Ở Trung Quốc, nơi
không có tin tức nhất là trên báo chí.
Năm 1997 công nương Diana chết vì tai nạn giao thông.
Cho dù Diana là người thế nào, hoàng gia Anh Quốc ra sao thì ít nhất bà ấy cũng
có giá trị tin tức. Các tờ báo lớn trên thế giới đều đăng tin này trên trang
nhất, riêng báo chí Trung Quốc không đăng tin ấy. Hôm đó tin tức đầu bảng của
các tờ báo lớn ở Bắc Kinh là "Các trường trung, tiểu học Bắc Kinh hôm nay
khai giảng". Tin này chẳng khác gì tin "Người Bắc Kinh hôm nay ăn
sáng rồi", chỉ có cái giá trị [thông tin - ND] ấy thôi.
Tối hôm 11/9 tôi ngồi xem chương trình "Tiêu điểm
phỏng vấn" trên ti-vi. Tôi muốn xem xem "những cái miệng lưỡi của đất
nước" đánh giá tiêu điểm vụ 11/9 như thế nào. Kết quả chương trình
"Tiêu điểm phỏng vấn" hôm ấy có nội dung là nói về việc các chi bộ ở
nông thôn tăng cường xây dựng chi bộ gì gì đó. Bạn muốn xem cái gì thì không có
cái ấy. Cái bạn không muốn nghe thì người ta cứ nói cho mà nghe. Dĩ nhiên,
những cái miệng lưỡi của quốc gia thì vô tội.
Văn hoá truyền thống ảnh hưởng tới quan niệm
đạo đức
Năm 1999 Mỹ tấn công Nam Tư. Trung Quốc đứng ra phản
đối. Cái giá của lần ấy là Đại sứ quán Trung Quốc tại Nam Tư bị bắn phá. Suýt
nữa thì Trung Quốc lại đứng ra lần nữa. Đoàn tàu văn hoá này của chúng ta có
quán tính lớn, chở chúng ta, những kẻ có khiếm khuyết đạo đức, phóng như bay
tới điểm chót.
Hồi ấy có người còn đề xuất nhân dịp này tấn công Đài
Loan, ra tay một lần là xong. Có thể thông cảm với nỗi lòng của các bạn ấy,
nhưng bấy giờ quả thật không phải là thời cơ thích hợp. Hồi ấy tôi nghĩ, vụ
11/9 chết bao nhiêu người, đều là người vô tội. Cái mất đi là sinh mạng con
người, thứ tôn nghiêm nhất trên thế giới. Những sinh mạng ấy không có liên quan
với chính phủ Mỹ. Chúng ta dùng thái độ như vậy đối xử với người ta, nhưng
người ta không dùng thái độ như vậy đối xử với ta.
Thảm án Dover hình thành sự đối chiếu rõ rệt với việc
này. Năm 2000, một đoàn người Phúc Kiến vượt biên trái phép ngồi trong xe thùng
bịt kín cập cảng Dover lên đất Anh Quốc. Vì ngồi mấy chục giờ trong thùng xe
thiếu không khí, tất cả đều chết ngạt [2], chỉ có 2 người sống sót.
Khi vụ này bị phanh phui, không một quan chức nào của
Đại sứ quán Trung Quốc xuất đầu lộ diện. Cuối cùng dân chúng Anh Quốc vùng
Dover tự phát làm lễ truy điệu và lễ thắp nến tưởng niệm những người đã chết.
Rất nhiều trẻ em tham dự, chúng cầm trong tay những thứ
đồ chơi chế tạo tại Trung Quốc. Nhân đây xin nói thêm, hiện nay 90% đồ chơi
trên thế giới là Made in China. Nhà báo hỏi lũ trẻ: Tại sao các cháu dự lễ truy
điệu? Bọn trẻ nói: Họ cũng là người cả mà; các thứ đồ chơi trong tay chúng cháu
cầm đây có thể là do những người trong số họ sản xuất.
Không một người Trung Quốc nào có mặt trong buổi lễ
truy điệu ấy. Thế nào là văn minh, thế nào là không văn minh? Tôi đang suy
nghĩ.
Thờ ơ, coi nhẹ sinh mạng con người thật đáng
sợ
Thật là đáng sợ khi người ta ca ngợi khủng bố. Trung
Quốc thoát thai từ nền văn hoá giáo dục Trung Quốc, trước hết thờ ơ coi khinh
sinh mạng của chính mình, từ đó mới có thái độ coi tính mạng của người khác,
nước khác như trò trẻ con. Bản thân không có quyền lực quý trọng sinh mạng
mình, cũng không cho người khác có cái quyền ấy. Tâm trạng "khán giả"
năm xưa từng bị Lỗ Tấn hồi trẻ phê phán chính là được tôi luyện như vậy đấy.
Người Trung Quốc xem cảnh giết người khác, không ai
không vui mừng phấn khởi. Giai cấp thống trị cố ý đem người ta ra giết tại nơi
đông người. Kẻ bị thống trị thì hưởng thụ tại nơi đông người cái cảm giác khoái
trá của kẻ thống trị. Nhất là khi xử tử bằng kiểu tùng xẻo, kéo dài ba ngày,
người xem đông nghìn nghịt. Cả đến những chủ sạp hàng nhỏ cũng bày hàng ra bán
tại đấy. Đao phủ còn bán bánh màn thầu dính máu. Trung Quốc ngày nay không có
tục tùng xẻo nữa. Nhưng xử án tại nơi đông người cũng là sự mở rộng tập quán
đó. Người nước ta năm nào đi xem giết Lục Quân Tử Đàm Tự Đồng [3] như đi trẩy
hội. Với những người như thế, trong cuộc chiến tranh Giáp Ngọ [4] ta sao mà
không mất Đài Loan. Con cháu họ, tức chúng ta, nếu lại như họ thì làm sao mà
giải phóng được Đài Loan.
Khi có kẻ xấu hành hung trên xe buýt, những người đi xe
đều im thin thít. Dựa vào những con người ấy đi giải phóng Đài Loan ư? Dựa vào
họ để thực hiện 4 hiện đại hoá ư? Bạn thực hiện 4 hiện đại hoá rồi thì có lợi
gì nhỉ?
Sáng nay khi tập thể dục tôi tranh thủ xem truyền hình,
chương trình quảng cáo "Tin tức buổi sáng", sản phẩm nào bán chạy
nhất? Đó là cửa chống trộm. Đây là nỗi buồn của một dân tộc. Bạn xem đấy, nhà
chúng ta ở chẳng khác gì cái cũi. Tại Thành Đô, tôi ở căn nhà mấy vị chính uỷ
không quân tiền nhiệm từng ở. Tôi vào xem, ôi chao, như vào nhà giam ấy. Cửa
sổ, ban công đều bao bọc bằng hàng rào chấn song chống trộm. Tôi bảo dỡ bỏ hết.
Hôm nọ đọc một cuốn sách có tên "Trung Quốc có
thể nói Không". Tôi bảo, anh có thể nói Không, nhưng anh đứng
sau cánh cửa chống trộm mà nói Không; đó chẳng phải là dũng sĩ mà
là kẻ hèn nhát. Kiều Lương [5] nói chí lý: [Đó là] "Những người yêu nước
khi gặp bọn trộm cướp mà còn lánh mặt nhưng lại dũng cảm dõng dạc nói Không với
một cường quốc ở xa tít mù!"
Cần nhìn nhận nước Mỹ một cách khách quan toàn diện.
Nước Mỹ là một quốc gia như thế nào? Nhớ lại hồi trẻ từng nghe một câu nói hình
dung thành phố New York: Cái tốt nhất trên thế giới và cái xấu nhất trên thế
giới cộng lại với nhau thì là New York. Dùng câu ấy để hình dung nước Mỹ ngày
nay có thích hợp hay không?
Thế hệ quân nhân chúng ta, những quân nhân đảm nhận
niềm hy vọng tương lai của tổ quốc, vừa không nên làm "phái thân Mỹ",
cũng chẳng thể làm "phái chống Mỹ" một cách đơn giản, mà nên làm
"phái hiểu Mỹ" chín chắn.
Hiểu kẻ địch thì mới chiến thắng được kẻ địch. Đánh giá
thấp đối thủ tức là đánh giá thấp chính mình. Thác Bạt Đạo [6] đổi tên nước của
Nhu Nhiên thành "Nhu Nhu", ý là sâu bọ, nhưng chính ông lại bị con
sâu ấy đánh bại. Thế thì ông chẳng bằng con sâu nữa kia.
Mỹ không muốn Trung Quốc hùng mạnh, hoàn toàn cũng như
Trung Quốc không muốn Mỹ xưng bá. Mối quan hệ Trung Quốc- Mỹ có xung đột nhưng
cũng có lợi ích chung nhất định. Làm thế nào hoá giải xung đột, phát triển lợi
ích chung là việc các nhà ngoại giao Trung Quốc hiện nay nên cố gắng làm.
Trung Quốc muốn phát triển thì không thể cắt đứt sự đi
lại với thế giới. Thế giới hiện nay là đơn cực, chỉ khi nào Mỹ suy sụp thì mới
có thể xuất hiện thế giới đa cực. Chúng ta vừa không thể cắt quan hệ với Mỹ lại
vừa không thể có quá nhiều kỳ vọng về Mỹ. Hiện nay mà đối kháng với Mỹ thì chưa
phải là thời cơ thích hợp nhất. Lợi ích quốc gia nên mãi mãi là chuẩn tắc cao
nhất cho hành động của chúng ta. Chúng ta cần nhẫn nại; nhẫn nại không phải là
mềm yếu, chỉ có khuất phục mới là mềm yếu.
Đấu tranh ngoại giao càng cần đấu trí
Dĩ nhiên Mỹ không từ bỏ dã tâm diệt chủ nghĩa xã hội.
Dĩ nhiên Mỹ không muốn Trung Quốc trỗi dậy, không muốn kinh tế Trung Quốc phát
triển đi lên. Nhưng cần nhớ cho kỹ: Khi đấu tranh với đối thủ, nhất định phải
làm cho đối thủ của anh nhìn thấy cái tình hình họ không muốn thấy nhất.
Người Mỹ muốn người Trung Quốc đánh nội chiến; chúng ta
quả thật đánh nội chiến rồi. Họ không rúc trong chăn mà cười đến nôn ruột thì
mới lạ chứ. Dĩ nhiên nhất mực "Nằm gai nếm mật, thao quang dưỡng hối [vờ
ngu giả dại/ giấu tài - ND]" cũng không được.
Là một nước lớn, Trung Quốc có thể làm theo cách như
một võ hiệp thời xưa ẩn vào núi sâu khổ luyện võ công, chờ khi võ nghệ cao
cường rồi tái xuất quyết thắng kẻ địch chăng? Với số dân và tài nguyên của
Trung Quốc, đặc biệt là với nền văn hoá của mình, Trung Quốc không thể lớn mạnh
như nước Mỹ được, huống chi Mỹ cũng chẳng dừng lại không tiến lên.
Vẫn là Mao Trạch Đông nói chí lý: "Đánh vẫn cứ
phải đánh, đàm [đàm phán - ND] vẫn cứ phải đàm, hoà vẫn cứ phải hoà." Con
người cần khôn ngoan tài trí, đấu tranh ngoại giao lại càng cần khôn ngoan.
Phải dắt mũi người ta mà đi chứ đừng bị người ta dắt.
Khơ-rut-xôp là một tay khôn ngoan. Tôi xin kể cho các
bạn nghe chuyện này: Tại một đại hội nọ [ý nói Đại hội XX đảng Cộng sản Liên Xô
- ND], Khơ-rut-xôp ra sức vạch trần và phê phán chế độ chính trị tàn bạo của
Stalin. Có người chuyển lên một mẩu giấy chất vấn Khơ-rut-xôp: Bản thân
Khơ-rut-xôp cũng là một thành viên trong tập đoàn quyền lực nòng cốt khi Stalin
nắm chính quyền.
Vì sao hồi ấy ông không đứng lên chống lại sự độc đoán
của Stalin? Khơ-rut-xôp cao giọng đọc nội dung mẩu giấy kia rồi lớn tiếng nói
với mọi người: Đây là mẩu giấy của ai thế? Xin người đó đứng ra! Đứng ra nào!
... Bên dưới nhốn nháo một lúc nhưng chẳng thấy ai đứng ra cả.
Khơ-rut-xôp nói: Mọi người xem đấy, chúng ta hiện nay
dân chủ như thế này, trong tình hình chẳng có gì phải sợ hãi mà ngay cả đồng
chí viết mẩu giấy này cũng không dám đứng ra. Vậy hãy nghĩ xem, trong bầu không
khí dưới thời Stalin thống trị ấy có người nào dám đứng ra cãi lại Stalin
không? Cả hội trường vỗ tay.
Chúng ta đấu tranh với Mỹ nên có sự khôn ngoan ấy của
Khơ-rut-xôp. Khi cần thao quang dưỡng hối thì thao quang dưỡng hối đến tận nhà.
Như một câu đồng chí Đặng Tiểu Bình năm nào nói với Thủ tướng Canada Trudeau
(đại ý): Cái Thao quang dưỡng hối chúng tôi nói bao gồm cả việc không cần giữ
thể diện cũng nhất định phải giữ mối quan hệ với quốc gia phát triển nhất trên
thế giới. Ý của đồng chí Đặng Tiểu Bình là Trung Quốc nhất định phải bước cùng
nhịp với văn minh thế giới, không thể xa rời nền văn minh thế giới.
Không có lý do căm ghét Mỹ
Trong sự kiện 11/9, trừ một số quốc gia cá biệt, một bộ
phận dân chúng Trung Quốc (chứ không phải là chính phủ) đã tỏ ra mình ở cách
nền văn minh dòng chính của thế giới một khoảng cách xa nhất.
Khi cần đấu tranh thì một tấc cũng không nhường.
"Sùng bái Mỹ" là không đúng, "Thân Mỹ" không đúng,
"Ghét Mỹ" cũng không đúng. Chính phủ và chính khách Mỹ vừa giống dân
chúng Mỹ lại vừa không giống. Bạn cần phải có trí tuệ cao để phân biệt họ.
Trong quá khứ, vì để giúp Trung Quốc thoát khỏi ách
thống trị thực dân mà Mỹ đánh bại Nhật, họ có cống hiến lớn đối với tiến bộ văn
minh của xã hội Trung Quốc. Hai nước Trung Quốc- Mỹ không có xung đột lợi ích
căn bản. Ngày nay, do lợi ích của Mỹ rải khắp toàn cầu nên 2 nước có xung đột.
Nhưng chúng ta vẫn phải dùng tấm lòng đạo đức để bình xét sự vật chứ không thể
kích động. Tôi từng nói rằng đối với Nhật, một nước từng tàn sát mấy chục triệu
đồng bào ta, mà chúng ta thường xuyên nói 2 nước "phải đời đời kiếp kiếp
hữu hảo với nhau". Thế thì chúng ta có lý do nào để căm ghét nhân dân Mỹ
từng giúp ta đánh bại Nhật?
Những cái đáng sợ của Mỹ
Đâu là chỗ thực sự đáng sợ của nước Mỹ? Tuy rằng Mỹ có
quân đội mạnh nhất thế giới, khoa học kỹ thuật tiên tiến nhất thế giới, nhưng
tôi cho rằng những cái đó không đáng sợ. Nghe nói máy bay tàng hình của Mỹ
thường xuyên ra vào bầu trời Trung Quốc rất thoải mái, nhưng điều ấy chẳng có
gì đáng sợ cả. Cái đáng sợ của họ không phải là những thứ ấy.
Năm 1972, tôi học ở Đại học Vũ Hán, lên lớp giờ chính
trị. Một thầy giáo khoa chính trị nói: "Nước Mỹ là đại diện của các nước
tư bản mục nát, suy tàn, đã sắp xuống mồ, hết hơi rồi." Tôi, một sinh viên
công nông binh mặc bộ quân phục, đứng ngay lên phản bác: "Thưa thày, em
cảm thấy thầy nói không đúng ạ. Tuy rằng nước Mỹ không giống Trung Quốc là mặt
trời nhô lên lúc 8- 9 giờ sáng, nhưng Mỹ cũng chẳng phải là mặt trời đang lặn
gì gì đó, mà là mặt trời lúc giữa trưa ạ."
Thầy giáo bực mình, tái mét mặt ấp úng nói: "Cái
cậu học sinh này, sao dám nói thế hả!" Ông ấy không hỏi tôi tại sao lại
nói thế, mà dùng một chữ "dám". Lúc đó tôi thấy hết tâm trạng của
ông.
Chính là cái nước tư bản mục ruỗng suy tàn ấy vào thập
niên 90 thế kỷ trước đã lãnh đạo cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật mới nhất trên
thế giới. Tôi tốt nghiệp đại học đúng vào lúc bắt đầu cải cách mở cửa. Tôi lại
có một quan điểm: Nước Mỹ là quốc gia do hàng chục triệu con người không yêu tổ
quốc mình hợp thành, nhưng họ đều rất yêu nước Mỹ. Hồi ấy rất nhiều người lãnh
đạo vừa chửi Mỹ vừa gửi con cái mình sang Mỹ. Một sự tương phản lớn!
Nói một thôi một hồi rồi, vậy thì cái đáng sợ của Mỹ là
ở đâu? Tôi cảm thấy có ba điểm.
Điểm thứ nhất, không thể coi thường cơ chế tinh anh của
Mỹ. Chế độ cán bộ, chế độ tranh cử của Mỹ có thể bảo đảm những người quyết sách
đều là tinh anh. Bi kịch của Trung Quốc chúng ta, lớn đến nhà nước, nhỏ tới
từng đơn vị, phần lớn tình hình là người có tư tưởng thì không quyết sách,
người quyết sách thì không có tư tưởng. Có đầu óc thì không có cương vị, có
cương vị thì không có đầu óc.
Nước Mỹ ngược hẳn lại, cơ chế hình tháp của họ đưa được
những người tinh anh lên. Nhờ thế, 1 là họ không mắc sai lầm; 2 là họ ít mắc
sai lầm; 3 là mắc sai lầm thì có thể nhanh chóng sửa sai. Chúng ta thì mắc sai
lầm, thường xuyên mắc sai lầm, mắc sai lầm rồi thì rất khó sửa sai.
Mỹ dùng một hòn đảo Đài Loan nhỏ xíu để kiềm chế Trung
Quốc chẵn nửa thế kỷ. Nước cờ này họ đi thật linh hoạt, thật thần kỳ. Một Đài
Loan làm thay đổi hẳn sinh thái chính trị quốc tế. Điều tôi lo ngại nhất là bộ
khung chiến lược phát triển Trung Quốc trong thế kỷ mới sẽ vì vấn đề Đài Loan
mà biến dạng. Ngày nay, đối với các dân tộc có thế mạnh thì tính quan trọng của
lãnh thổ đã giảm nhiều, đã chuyển từ tìm kiếm lãnh thổ sang tìm kiếm thế mạnh
của quốc gia.
Người Mỹ không có yêu cầu lãnh thổ đối với bất cứ quốc
gia nào. Nước Mỹ không quan tâm lãnh thổ, toàn bộ những gì họ làm trong thế kỷ
XX đều là để tạo thế. Tạo thế là gì? Ngoài sự lớn mạnh về kinh tế thì là lòng
dân chứ còn gì nữa! Có lòng dân thì quốc gia có lực ngưng tụ, lãnh thổ mất rồi
sẽ có thể lấy lại. Không có lòng dân thì khẳng định đất đai anh sở hữu sẽ bị
mất. Có nhà lãnh đạo quốc gia chỉ nhìn một bước. Nước Mỹ hành sự thường nhìn 10
bước. Vì thế cho nên mỗi sự kiện lớn toàn cầu xảy ra sau ngày Thế chiến II chấm
dứt đều góp phần làm tăng cường địa vị nước Mỹ. Nếu chúng ta bị họ dắt mũi thì
có thể sẽ mất hết mọi con bài chiến lược.
Tôi nhiều lần nói là trung tâm chiến lược của Mỹ sẽ
không chuyển sang châu Á đâu, song điều đó không có nghĩa là Mỹ không bao vây
Trung Quốc. Rất nhiều bạn chỉ thấy Mỹ bao vây Trung Quốc về quân sự, cũng như
rất nhiều người chỉ thấy khoảng cách chênh lệch về KHKT và trang bị vũ khí giữa
2 nước mà chưa nhìn thấy sự mất cân đối nghiêm trọng hơn sự lạc hậu về trang bị
trên mặt chiến lược lớn, nhất là trên tầng nấc ngoại giao.
Sau vụ 11/9, Mỹ nhanh chóng chiếm Afghanistan trong
vòng 2 tháng, từ phía Tây bao vây Trung Quốc. Sức ép quân sự của Nhật, Đài
Loan, Ấn Độ cũng chẳng bớt đi. Xem ra chúng ta giành được từ vụ 11/9 một số lợi
ích trước mắt, song các lợi ích đó không quá 1- 2 năm có thể biến mất. Tôi cho
rằng bao vây chiến lược đối với Trung Quốc là một kiểu khác, không phải là quân
sự mà là siêu việt quân sự.
Bạn xem đấy, mấy năm gần đây các nước xung quanh Trung
Quốc tới tấp thay đổi chế độ xã hội, biến thành cái gọi là quốc gia "dân
chủ". Nga, Mông Cổ thay đổi rồi, Kazakhstan thay đổi rồi. Cộng thêm các
nước trước đây như Hàn Quốc, Phillippines, Indonesia, lại cộng thêm vùng Đài
Loan. Đối với Trung Quốc, sự đe doạ này còn ghê gớm hơn đe doạ quân sự. Đe doạ
quân sự có thể là hiệu ứng ngắn hạn, còn việc bị cái gọi là các quốc gia
"dân chủ" bao vây là hiệu ứng dài hạn.
Điểm thứ hai, sự độ lượng và khoan dung của nước Mỹ.
Bạn nên sang châu Âu, sau đó sang Mỹ, bạn sẽ thấy một sự khác biệt lớn: Sáng
sớm, các đường phố lớn ở châu Âu chẳng có người nào cả, còn tại Mỹ sáng sớm các
phố lớn ngõ nhỏ đều có rất nhiều người tập thể dục, thậm chí cả ngày như thế.
Tôi có một câu nói: Tập thể dục là một phẩm chất, tập thể dục đại diện cho một
kiểu văn hoá khí thế hừng hực đi lên. Một quốc gia có sức sống hay không, chỉ
cần xem có bao nhiêu người tập thể dục là biết.
Người Mỹ có thể lấy quốc kỳ làm quần lót để mặc. Hồi ở
Mỹ tôi có mua một chiếc quần cộc cờ sao vạch. Tôi thường xuyên mặc chiếc quần
ấy. Tôi mặc nó là để khinh miệt nó, là để trút giận, là một dạng trút sự bực
bội và thoả mãn về tâm lý. Người Mỹ mặc nó là sự trêu chọc bỡn cợt, bản chất
khác. Người Mỹ có thể đốt quốc kỳ nước mình ngoài phố. Đới Húc [7] nói: Nếu một
quốc gia có thể đốt cả quốc kỳ của mình thì anh còn có lý do nào đi đốt quốc
gia ấy nữa?
|
|
|
|
Điểm thứ ba, sức mạnh vĩ đại về tinh thần và đạo
đức. Đây là điều đáng sợ nhất. Vụ 11/9 là một tai nạn. Khi tai hoạ ập đến,
thể xác ngã xuống trước tiên, nhưng linh hồn vẫn đứng. Có dân tộc khi gặp tai
nạn thể xác chưa ngã mà linh hồn đã đầu hàng. Trong vụ 11/9 có xảy ra 3 sự
việc đều có thể để chúng ta qua đó nhìn thấy sức mạnh của người Mỹ. Việc thứ
nhất, sau khi phần trên toà nhà Thương mại thế giới bị máy bay đâm vào, lửa
cháy đùng đùng, tình thế ngàn cân treo sợi tóc. Khi mọi người ở tầng trên qua
cửa thoát hiểm chạy xuống phía dưới, tình hình không rối loạn lắm.
|
Người ta đi xuống, lính cứu hoả xông lên trên. Họ
nhường lối đi cho nhau mà không đâm vào nhau. Khi thấy có đàn bà, trẻ con hoặc
người mù tới, mọi người tự động nhường lối đi để họ đi trước. Thậm chí còn
nhường đường cho cả một chú chó cảnh. Một dân tộc tinh thần không cứng cáp tới
mức nhất định thì dứt khoát không thể có hành vi như vậy. Đứng trước cái chết
vẫn bình tĩnh như không, e rằng không phải là thánh nhân thì cũng gần với thánh
nhân.
Việc thứ hai, hôm sau ngày 11/9, cả thế giới biết vụ
này do bọn khủng bố người A Rập gây ra. Rất nhiều cửa hàng, tiệm ăn của người A
Rập bị những người Mỹ tức giận đập phá. Một số thương nhân người A Rập cũng bị
tấn công. Vào lúc đó có khá nhiều người Mỹ tự phát tổ chức đến đứng gác trước
các cửa hiệu, tiệm ăn của người A Rập hoặc đến các khu người A Rập ở để tuần
tra nhằm ngăn chặn xảy ra bi kịch tiếp theo.
Đó là một tinh thần thế nào nhỉ. Chúng ta thì từ xưa đã
có truyền thống trả thù. Thành Đô nơi tôi ở, ngày xưa Đặng Ngải [8] sau khi
chiếm được Thành Đô, con trai của Bàng Đức [9] giết sạch giá trẻ gái trai gia
đình Quan Vũ. Trả thù đẫm máu, lịch sử loang lổ vết máu không bao giờ hết.
Việc thứ ba, chiếc máy bay Boeing 767 bị rơi ở
Pennsylvania vốn dĩ bị không tặc dùng để đâm vào Nhà Trắng. Sau đấy hành khách
trên máy bay vật lộn với bọn khủng bố nên mới làm máy bay rơi. Vì lúc ấy họ đã
biết tin toà nhà Thương mại thế giới và Lầu Năm Góc bị máy bay đâm vào nên họ
quyết định không thể không hành động, phải đấu tranh sống chết với bọn khủng
bố.
Cho dù trong tình hình ấy họ còn làm một chuyện thế
này: Quyết định biểu quyết thông qua có nên chiến đấu với bọn khủng bố hay
không. Trong giờ phút quan hệ tới sự sống chết ấy, họ cũng không cưỡng chế ý
chí của mình lên người khác. Sau khi toàn thể mọi người đồng ý, họ mới đánh bọn
không tặc. Dân chủ là gì; đây tức là dân chủ. Ý tưởng dân chủ đã thấm vào sinh
mạng của họ, vào trong máu, trong xương cốt. Một dân tộc như thế mà không hưng
thịnh thì ai hưng thịnh. Một dân tộc như thế không thống trị thế giới thì ai có
thể thống trị thế giới.
Nên tham khảo kinh nghiệm thành công của Mỹ
Tôi thường có ý nghĩ quái lạ như thế này: Những vũ khí
đỉnh cao nhất, KHKT tối tân và lực lượng vũ trang mạnh nhất trên thế giới nếu
nằm trong tay những người như thế là rất thích hợp. Bao giờ cũng hơn nằm trong
tay người Nhật, người Libya, người Iraq chứ? Cho là nằm trong tay chúng ta thì
chúng ta có thể làm gì, điều đó cũng chưa thể biết. Nước Mỹ, quốc gia này có
rất nhiều kinh nghiệm thành công, đáng để chúng ta tham khảo học tập. Sau vụ
11/9, Mỹ không thành lập Uỷ ban 11/9, không lập Bộ Chỉ huy ứng phó tình trạng
khẩn cấp gì gì đó.
Tôi cực lực phản đối những thứ không thực tế. Sau khi
đến bộ đội không quân Thành Đô, tôi chủ trương hoặc không họp hoặc ít họp hành.
Cuộc họp nào không thể không họp thì họp ngắn thôi. Đến nơi trước tiên tôi thay
đổi việc học tập của các Uỷ viên thường vụ thành tự học.
Cầm văn kiện đọc thì học được cái gì kia chứ. Tôi đang
đấu tranh với thế lực thói quen. Lực lượng cá nhân tôi có hạn nhưng tôi không
thể không đấu tranh. Cho dù sứt đầu mẻ trán cũng không được nản chí. Chẳng hạn
nói chung khi xuống thăm bộ đội, tôi đều không ăn cơm. Chỉ cần có thể về nhà
trong ngày thì tôi đều mang theo lương khô chứ không ăn cơm bộ đội.
Khi ở bộ đội không quân Bắc Kinh tôi đến sư đoàn 33
cũng thế. Nếu không thể không ăn thì tôi chỉ ăn đơn giản. Tuy rằng nói uống một
chén rượu chưa đủ làm đổ cờ đỏ, ăn một bữa cơm chưa thể mất giang sơn, nhưng
nhiều lần quá, lãng phí quá, tích tiểu thành đại thì rất khó nói. Có người nói
đánh Đài Loan chẳng cần dùng vũ khí mới gì cả, cứ cho mấy vị cán bộ lên đảo ấy
ăn nhậu các thứ của họ 2- 3 năm thì bảo đảm ăn hết các thứ của họ.
Còn một chuyên tiếu lâm nữa nói về chuyện họp hành. Có
ông cục trưởng ốm sắp chết đến nơi, chỉ có điều không trút được hơi thở cuối
cùng. Bà vợ bảo con cháu đến đông đủ cả rồi, ông yên tâm lên đường đi. Không
được, chưa chết được. Vợ lại nói, mọi chuyện đều thu xếp ổn thoả rồi, ông yên
tâm lên đường đi. Không được, chưa chết được. Vợ bảo, tài sản nhà ta đã thu xếp
xong xuôi cả rồi, ông cứ đi đi. Cũng chưa được đâu. Về sau, vẫn là tay thư ký
tương đối hiểu ông ta bèn ghé tai cục trưởng nói: "Báo cáo cục trưởng, mọi
người đến đủ cả rồi, ta họp thôi ạ." Lúc ấy cục trưởng mới hả lòng hả dạ
nhắm mắt xuôi tay. Dĩ nhiên đây là chuyện bịa nhưng nó nói lên sự phản cảm,
chán ghét của mọi người đối với thói quen ấy.
Sự kiện 11/9 là cơ hội của nước Mỹ, cũng là cơ hội của
Trung Quốc. Làm không tốt thì Trung Quốc trở thành vật hy sinh lớn nhất của sự
kiện đó. Vấn đề then chốt là anh nắm cơ hội thế nào, toàn thế giới đều đứng
trước dịp xóc lại quân bài. Khi nghiên cứu nước Mỹ, chúng ta nên nắm được nội
hàm thực sự của nó, không thể chỉ xem cái nhỏ mà phải xem cái lớn. Có một câu
chí lý thế này: Hay bàn luận về khuyết điểm của người khác thì anh là kẻ đạo
đức thấp kém. Hay bàn luận về khuyết điểm của nhân loại thì anh là một nhà tư
tưởng.
....
Hôm nay lần đầu tiên gặp các cán bộ cấp tiểu đoàn trở
lên của căn cứ Côn Minh, tôi đã nói chuyện nhiều thế này với thái độ vô cùng
thẳng thắn và mạnh dạn. Đây là thành quả nghiên cứu của tôi, tôi chịu trách nhiệm
về bài nói của mình.
Chỗ nào tôi nói đúng thì các đồng chí ghi nhớ. Chỗ nào
nói sai thì các đồng chí nghe tai bên này, cho ra tai bên kia, tủm tỉm cười bỏ
qua, chớ cho là chuyện gì cả. Mỗi người là một cá thể, mỗi cá thể đều tự do.
Tôi không thể yêu cầu áp đặt tư tưởng của tôi cho các đồng chí, tôi lại càng
không thể yêu cầu đem tư tưởng của các đồng chí thống nhất vào một tư tưởng nào
đó. Chuyện đó không thể được, nhưng chúng ta lại cứ khăng khăng tìm kiếm khả
năng ấy, đây là chuyện hão huyền, trên thực tế không làm nổi.
-------------------------
[1]: Tác giả đang là Chủ nhiệm chính trị bộ đội Không
quân của Quân khu Bắc Kinh]
[2]: 60 người này lấy hộ chiếu sang Đông Âu rồi chui
vào xe container chở bằng tàu biển từ Bỉ bí mật sang Anh, ngày 19/6 /2000, hải
quan cảng Dover kiểm tra container phát hiện 58 người chết]
[3]: Đàm Tự Đồng: Nhà chính trị cuối đời Thanh, chủ
trương duy tân, sau khi phong trào Duy tân Trung Quốc thất bại, ông bị xử tử
cùng 5 người khác, 6 chí sĩ này được gọi là Lục Quân tử.
[4]: Chiến tranh Giáp Ngọ: Chiến tranh Trung Quốc- Nhật
xảy ra năm Giáp Ngọ tức năm 1894. Kết quả Nhật thắng, Trung Quốc phải cắt đảo
Đài Loan cho Nhật].
[5]: Thiếu tướng không quân, nhà văn Trung Quốc nổi
tiếng
[6]: Tức Thế tổ Bắc Nguỵ, Thái Vũ hoàng đế, vị thống
soái kỵ binh kiệt xuất thời Nam Bắc Triều. Dẫn quân diệt các nước Hạ, Bắc
Yên,... thống nhất phương Bắc; diệt nước Hãn của Nhu Nhiên tại Mông Cổ
[7]: Đại tá không quân Trung Quốc, viết nhiều chuyên
luận quân sự, chính trị
[8]: 197-264, tướng giỏi nước Nguỵ, năm 263 đánh Thục
Hán, đầu tiên chiếm Thành Đô, là công thần diệt Thục của họ Tư Mã.
[9]: Bàng Đức là một viên tướng chủ chốt của Tào Tháo
Nguyễn Hải Hoành giới thiệu và lược dịch
Nguồn: Tuanvietnam - Webcache
Tướng Lưu Á Châu bàn về văn hoá Trung Quốc Tác
giả: Lưu Á Châu (Liu Ya-zhou, Trung Quốc)
Bài đã được xuất bản.: 31/08/2010 06:00
GMT+7
Tinh thần là cái gốc lập mệnh của mỗi con người, là cái gốc lớn mạnh của
một dân tộc, cái gốc sinh tồn của một quốc gia. Cái gì cũng có thể không có
nhưng tinh thần thì không thể không có. sự
kiện nóng
LTS: Tiếp theo bài Tướng Trung Quốc bàn
về niềm tin và đạo đức, (TVN, ngày 15/8/2010), cộng tác
viên Nguyễn Hải Hoành lại vừa gửi Tuần Việt Nam chúng tôi bản dịch tiếp theo
bài của Lưu Á Châu bàn về văn hóa Trung Quốc. Nhận thấy đây là chủ đề thú vị về
văn hóa một dân tộc, tôn trọng tính thông tin đa chiều, Tuần Việt Nam xin trân
trọng đăng tải.
Ngày nay Trung Quốc đang tiến những bước dài, đồng thời
cũng để lộ ra không ít vấn đề. Tất cả mọi vấn đề đều hướng về văn hoá, song tất
cả mọi vấn đề về văn hoá đều hướng vào tôn giáo.
Tôn giáo
Tôn giáo quyết định văn hoá mà văn hoá thì quyết định
tính cách dân tộc; tính cách dân tộc lại quyết định số phận dân tộc.
Xin nêu thí dụ chống tham nhũng. Trừng trị tham nhũng
không thể diệt được tận gốc nạn tham nhũng. Có một biện pháp là hoàn thiện chế
độ xã hội, mà phương pháp căn bản là bắt tay từ văn hoá.
Thí dụ biện pháp "lương cao nuôi dưỡng sự liêm
khiết". Tại Trung Quốc, lương cao chưa chắc đã có thể nuôi dưỡng được sự
liêm khiết. Tại sao thế?
Văn hoá Trung Quốc có màu sắc "văn hoá gia
đình" rất nặng. Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại (Trong 3 điều bất hiếu,
điều lớn nhất là không có con nối dõi - ND). Càng nhiều con cháu càng lắm phúc.
Đời cha nhất định phải để dành tiền của cho con cháu. Điều này khác hẳn văn hoá
phương Tây. Những kẻ làm cha như chúng ta, lương bổng bản thân có cao đến đâu
cũng vẫn muốn để dành cho con, bởi thế người ta vẫn cứ tham. Đây cũng là một
nguyên nhân hình thành "văn hoá hối lộ" trong quan trường Trung Quốc.
Sự hình thành văn hoá Trung Quốc có 3 nhân tố chủ yếu:
Thứ nhất là hoàn cảnh sinh tồn; thứ hai là tôn giáo; thứ ba là chính sách ngu
dân.
Hoàn cảnh sinh tồn
Từ xưa tới nay, số dân trên mảnh đất Trung Quốc này đều
nhiều hơn châu Âu. Đàn bà Trung Quốc bị "văn hoá gia đình" biến thành
máy đẻ.
Châu Âu có diện tích bình quân đất đai trên đầu người
cao hơn Trung Quốc rất nhiều thế mà họ vẫn cảm thấy chật hẹp, không thở hít
được nữa, phải khai thác vùng đất mới, bởi thế mà có việc khám phá các đại lục
mới.
Người Trung Quốc thì tranh đấu trong hoàn cảnh ác liệt
này. Phép sinh tồn rất khắc nghiệt.
Nhưng khi nói về hình thành văn hoá mà chỉ nhấn mạnh
hoàn cảnh là chưa đủ. Hoàn cảnh xấu tạo nên một loại văn hoá không thành công.
Hoàn cảnh tốt cũng vẫn có thể tạo dựng nên một loại văn hoá không thành công.
|
|
Cần xem xét văn hoá Trung Quốc từ hai mặt. Từ xưa Trung
Quốc đã có thảm thực vật rất tốt, khắp nơi là rừng. Vùng Sơn Tây có nhiều than
đá như thế chứng tỏ thời cổ rừng ở đấy rất tốt. Do có quá nhiều rừng nên người
ta chẳng cần đi quá xa nơi ở cũng có thể kiếm được gỗ, vì vậy người ta dùng gỗ
để làm nhà, vừa đơn giản vừa đỡ mất công. Lâu ngày kiến trúc Trung Quốc bèn trở
thành kiến trúc có hình thức kết cấu thổ mộc.
Khi tiến sang thời đại văn minh, các dân tộc châu Âu có
môi trường ác liệt hơn Trung Quốc rất nhiều - rừng ít, đá lắm. Muốn làm nhà, họ
chỉ có cách lấy đá trên núi mà làm. Lâu ngày nền kiến trúc phương Tây trở thành
kiến trúc gạch đá. Qua nhiều nghìn năm, rừng của chúng ta bị đốn hết, các kiến
trúc thổ mộc sụp đổ. Kiến trúc kết cấu gạch đá của phương Tây thì giữ lại được,
rừng của họ cũng giữ được. Tại Ý, hiện nay vẫn thấy các kiến trúc có từ hai
nghìn năm trước, tương đường đời nhà Tần nhà Hán. Tại Trung Quốc hiện nay cả
đến kiến trúc đời nhà Minh cũng hiếm thấy.
Lưu Á Châu năm
nay 57 tuổi, là người huyện Túc thuộc thành phố An Huy, tham gia quân đội năm
16 tuổi, lần lượt giữ chức vụ phó tiểu đội trưởng, tiểu đội trưởng, trung đội
trưởng. Năm 44 tuổi được thăng chức thiếu tướng không quân, bước vào hàng ngũ
tướng lĩnh cấp cao của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA).
Năm 45 tuổi giữ chức Chủ nhiệm Cục chính trị không quân quân khu Bắc Kinh. Năm 50 tuổi là Chính ủy không quân, quân khu Thành Đô. Năm 51 tuổi là Phó Chính ủy không quân kiêm Bí thư Ủy ban Kiểm tra kỷ luật quân ủy, và được thăng chức trung tướng không quân. Hiện nay, Trung tướng Lưu Á Châu, nguyên Phó Chính ủy không quân của PLA giữ chức Chính ủy của Đại học Quốc phòng Trung Quốc, thay Trung tướng Đổng Thế Bình đã được điều động làm Phó Chủ nhiệm Tổng Cục chính trị kiêm Bí thư Ủy ban kiểm tra kỷ luật quân ủy.
Đại học Quốc phòng là trường quân sự cao nhất của Trung Quốc, trực thuộc sự lãnh đạo của Quân ủy Trung ương, là cấp đại quân khu; hiệu trưởng, chính ủy của trường này đều thuộc những chức vụ chính của đại quân khu.
Năm 45 tuổi giữ chức Chủ nhiệm Cục chính trị không quân quân khu Bắc Kinh. Năm 50 tuổi là Chính ủy không quân, quân khu Thành Đô. Năm 51 tuổi là Phó Chính ủy không quân kiêm Bí thư Ủy ban Kiểm tra kỷ luật quân ủy, và được thăng chức trung tướng không quân. Hiện nay, Trung tướng Lưu Á Châu, nguyên Phó Chính ủy không quân của PLA giữ chức Chính ủy của Đại học Quốc phòng Trung Quốc, thay Trung tướng Đổng Thế Bình đã được điều động làm Phó Chủ nhiệm Tổng Cục chính trị kiêm Bí thư Ủy ban kiểm tra kỷ luật quân ủy.
Đại học Quốc phòng là trường quân sự cao nhất của Trung Quốc, trực thuộc sự lãnh đạo của Quân ủy Trung ương, là cấp đại quân khu; hiệu trưởng, chính ủy của trường này đều thuộc những chức vụ chính của đại quân khu.
Trung Quốc có ba tôn giáo chính là Phật Giáo, Đạo Giáo
và Nho Giáo (tôi gọi Nho Học là một loại tôn giáo). Ba tôn giáo này có trách
nhiệm không thể thoái thác đối với với sự hình thành trạng thái tâm lý và đạo
đức ngày nay của người Trung Quốc. Lịch sử cho thấy ba tôn giáo trên căn bản
không thể chấn hưng được dân tộc Trung Hoa.
Xin để tôi so sánh đối chiếu Ki Tô Giáo với tôn giáo
của Trung Quốc.
Văn hoá Trung Quốc dạy chúng ta "Nhân chi sơ, tính
bản thiện" (con người lúc mới ra đời có bản tính lương thiện - ND). Tôn
giáo của phương Tây thì ngược lại, cho rằng con người sinh ra đã là xấu (nguyên
văn chữ Hán: ác - ND), bản tính con người cũng xấu. Bởi vậy, tôn giáo phải hạn
chế anh, bắt anh suy ngẫm về chính mình. Văn hoá phương Tây cho rằng loài người
có tội tổ tông. Lòng người đen tối.
Trong số các đồng chí có người đã trải qua "Cách
mạng Văn hoá", xin hỏi cái đen tối nhất ở đâu? Cái đen tối nhất thì ở
trong lòng người. Tâm hồn mỗi người đều có mặt vô cùng bẩn thỉu. Văn hoá phương
Tây mổ xẻ, hé lộ nó ra, trưng nó ra. Phê phán nó, kiềm chế nó. Văn hoá phương
Đông thì ôm ấp nó, nuôi dưỡng nó. Nhà thờ ở phương Tây có phòng xưng tội
(nguyên văn: sám hối - ND). Người ta vào nhà thờ trình bày với thánh thần các
thứ trong tâm hồn mình.
Nói cho thần thánh nghe mọi cái xấu xa bẩn thỉu của
mình thì người ta thấy nhẹ nhõm. Tâm hồn người ta được rửa sạch. Hồi sang Mỹ
tôi có vào nhà thờ ngồi hẳn một ngày trời. Tôi phát hiện thấy một cảnh rất thú
vị: Mọi người ai nấy khi vào nhà thờ thì mặt mày ủ ê, khi đi ra thì sắc mặt thư
thái nhẹ nhõm. Về sau tôi mới dần dà hiểu được bí quyết của chuyện ấy. Lâu
ngày, người ta trở thành thành con người lành mạnh, con người có tâm trạng và
tâm hồn đặc biệt kiện toàn. Con người ai cũng có ham muốn. Nhưng người ta phải
kiềm chế ham muốn của mình, ai nấy ắt phải tự mình (chứ không phải người khác)
kiềm chế bản thân.
Người Trung Quốc không biết kiềm chế mình, không biết
tra khảo bản thân, thế là người ta đi kiềm chế kẻ khác, tra khảo kẻ khác. Quất
roi và tra khảo bản thân là chuyện đau khổ. Chỉ khi nào trong lòng mình mãi mãi
có tín ngưỡng, có tín ngưỡng vĩnh hằng với thần thánh, thì mới có thể làm được
như thế.
Rất nhiều đồng chí đã đi thăm nhà thờ ở phương Tây. Ở
đấy thánh thần xuất hiện với hình ảnh đầm đìa máu, chịu khổ chịu nạn. Jesus bị
đóng đinh trên giá chữ thập. Đức Mẹ không đổ máu nhưng rơi lệ. Đấy thực sự là hoá
thân của con người, là hoá thân của sự khổ nạn và tư tưởng của con người. Thần
thánh trong tôn giáo phương Tây nhìn vào tựa như thần thánh, thực ra là con
người. Cái chết của Jesus đã hoàn tất việc ngài lột xác (nguyên văn: thoát biến
- ND) từ thánh thần thành con người. Chỉ con người mới chết.
Nhưng thánh thần trong các đền miếu của Trung Quốc thì
mới là thánh thần. Bạn hãy xem hình ảnh các vị thần thánh ấy: Bụng chảy xệ, nét
mặt chẳng lo nghĩ gì sất, nhăn nhở cười cợt, thụ hưởng của thờ cúng. Vị nào vị
ấy ăn đến béo rụt đầu rụt cổ.
Người phương Tây đến nhà thờ là để sám hối. Chúng ta
lên đền lên chùa là để hối lộ. Chẳng phải thế hay sao? Vì muốn làm được một
chuyện gì đây, chúng ta khấn vái thần thánh, bỏ tiền mua mấy nén hương thắp lên
hoặc bầy lên mâm những thứ dân gian thường ăn như trái cây gì gì đó, rồi im
lặng cầu nguyện. Như thế chẳng phải hối lộ thì là gì?
Người phương Tây đến nhà thờ để giải thoát nỗi khổ về
tinh thần. Chúng ta lên đền chùa để giải quyết nỗi khổ trong đời sống thực tế.
Thần thánh trong tôn giáo phương Tây luôn luôn chịu khổ còn nhân dân thì không
chịu khổ. Thần thánh trong tôn giáo phương Đông thì hưởng thụ, còn dân chúng
thì chịu khổ. Đây là khác biệt lớn nhất giữa tôn giáo phương Đông với phương
Tây.
Ở nước ngoài, nhà thờ bao giờ cũng xây dựng tại trung
tâm đô thị, gần gũi với dân. Đền chùa Trung Quốc thì bao giờ cũng xây dựng
trong rừng sâu núi cao, xa rời dân. Tôi từng nói người Trung Quốc về cơ bản là
một dân tộc không có tín ngưỡng. Nói không có tín ngưỡng không phải là không có
hình thức tín ngưỡng. Ngược lại, những thứ người Trung Quốc tín ngưỡng thì phức
tạp nhất, người ta tin cả các đại sư khí công. Cái gì cũng tin lại chính là
chẳng tin cái gì hết.
|
|
Trong lòng người Trung Quốc không có vị trí của một vị
thần thánh vĩnh hằng. Nói sâu một chút, tức là chẳng có sự mưu cầu theo đuổi
tinh thần văn hoá có tính tận cùng! Loại người đó không mở rộng phạm vi quan
tâm của mình ra tới bên ngoài gia đình, thậm chí cá nhân. Nếu mở rộng sự quan
tâm ấy ra thì nhất định sẽ là làm hại kẻ khác. Một dân tộc như vậy sao lại
không "năm bè bảy mảng" kia chứ?
Tại phương Tây, khi trên đường có một chiếc xe hỏng thì
hầu như tất cả các xe khác đều dừng lại, người ta đến hỏi anh có cần giúp đỡ gì
không. Tại Trung Quốc thì hầu hết xe đều bỏ đi, khó khăn lắm mới có người dừng
xe hỏi anh, có lẽ tôi còn ngờ vực, anh làm gì thế? Anh có mục đích gì.
Phương Tây đã thắng trong cuộc cạnh tranh với phương
Đông cả nghìn năm nay. Tôn giáo phương Tây đã thắng trong cuộc cạnh tranh với
tôn giáo phương Đông.
Thắng lợi của tôn giáo là thắng lợi thế nào? Tôi cho
rằng đó là một loại thắng lợi về tinh thần. Không có tín ngưỡng thì không có
sức mạnh tinh thần. Cái chúng ta thiếu lại chính là cái người ta có.
Hãy nói về chuyện xây đền chùa. Phương Tây khi xây đền
chùa thường là bạt hẳn một quả đồi. Đó là một kiểu khí thế, một kiểu dũng khí
đấu tranh với thiên nhiên. Người Trung Quốc xây đền chùa thường hay xây trong
núi sâu. Xem ra là hoà nhập cùng núi rừng thành một khối, trên thực tế là một
kiểu đầu cơ.
Có một bức tranh cổ tên là Ngôi chùa cổ trong
núi sâu, rất nổi tiếng, nhưng nhìn vào tranh chẳng thấy một bức tường hay
một viên ngói nào cả. Bức tranh vẽ gì vậy? Một lối mòn chạy giữa hai quả núi,
một nhà sư quẩy đôi thùng đi gánh nước. Rốt cuộc bức hoạ có ý gì? Là nói ngôi
chùa cổ trong núi sâu, chùa và núi hoà làm một với nhau. Chúng ta khẳng định
rằng ý của bức hoạ rất khôn khéo.
Người Trung Quốc có tâm lý đầu cơ rất nặng, ai cũng chỉ
muốn không làm mà hưởng. Ngày nay, trong thời đại cải cách mở cửa, có biết bao
nhiêu người lao vào biển thương mại, ai nấy đều nghĩ "Ngày mai đến lượt
mình [làm giàu] rồi". Họ muốn làm cái bộ phận "ddể một số người giàu
lên trước" ấy. Sau nhiều năm được giáo dục "Vì nhân dân phục vụ"
mà họ lại đều muốn trở thành đối tượng được phục vụ.
Người Trung Quốc trước đời Tần thì không như thế. Sau
đời Hán, đặc biệt sau khi Lưu Triệt [1] độc tôn Nho thuật (tức Nho học, Nho
giáo - ND) thì người Trung Quốc đã thay đổi.
Tôi rất thích đọc bộ Sử Ký. Đọc hết sách này mà chẳng
thấy có đoạn nào viết về những kẻ phản bội. Ngày nay chúng ta có biết bao nhiêu
kẻ phản bội! Thời xưa có rất ít kẻ cáo giác. Thời nay thì khắp nơi đều có!
Chính uỷ Đại học Công trình không quân Vương Hồng Sinh
đến thăm tôi. Hồi ở Ban Chính trị không quân, anh ấy và tôi là chiến hữu với
nhau. Hai chúng tôi nhắc đến một chuyện thế này: Đơn vị Vương Hồng Sinh có một
anh cán sự, là người được lãnh đạo rất coi trọng. Một đồng sự của anh ta ngủ
với gái. Vị cán sự ấy bèn vác ghế đến ngồi lỳ tận nửa đêm ngoài cửa nhà người
đồng sự, cho tới lúc bắt được hai người kia hủ hoá với nhau. Anh cán sự được
biểu dương. Tôi than thở căm tức mãi không thôi. Tôi bảo: Sức mạnh nào đã chi
phối anh ta ngồi trong bóng đêm lâu đến thế? Tuyệt đối là một loại ý thức phạm
tội.
Thời xưa, Bảo Định, Dịch Thuỷ là nơi sinh ra những Kinh
Kha, Cao Tiệm Ly, Điền Quang, Phàn Ư Kỳ [2]. "Gió vù vù, hề sông Dịch lạnh
ghê, Tráng sĩ một đi hề không trở về." [3]. Trong kháng chiến chống Nhật,
phủ Bảo Định có nhiều Hán gian nhất. Hồi làm ở Hội nhà văn tôi có đến Bảo Định
sưu tầm dân ca. Một ông nông dân hát cho tôi nghe một bài ca ngày xưa:
"Năm ấy giặc Nhật đến làng, chúng tôi vác súng đi lính..." Về sau tôi
mới biết ông ta đi lính gì. Lính ngụy.
|
Ở nước ngoài không phải là không có kẻ phản bội, nhưng
ít hơn nhiều so với Trung Quốc. Sức mạnh nào đã tác động đến người ta? Sức mạnh
tinh thần. Năm 1986 tôi sang Mỹ. Đêm khuya ra đường, đèn tín hiệu giao thông
bật đỏ, chẳng thấy chiếc xe nào chạy cả, tất cả xe đều tự động dừng lại ở ngã
tư. Tôi không hiểu, bảo người Mỹ sao mà ngốc thế nhỉ. Về sau tôi mới biết đấy
là sự tự kiềm chế của họ. Kiềm chế bản thân là cứu vớt tâm hồn. Việc nhỏ đã
thế, việc lớn lại càng thế.
Người Nhật nói, trận địa Trung Quốc rất dễ bị chọc
thủng. Lê Minh [4] nói rất hay: "Tôn giáo Trung Quốc biến dân chúng thành
bầy cừu."
Đều là cố thủ trận địa, người phương Tây tuy cũng sợ
nhưng họ có thể kiềm chế bản thân. Chúng ta thì sao? Trước hết là mong người
khác làm bia đỡ đạn. Thấy người khác bỏ chạy thì nghĩ, vì sao mày chuồn? Tao
cũng chuồn. Mày đi lính ngụy no nê cơm rượu, tao cũng đi. Mày tham ô, tao cũng
tham ô. Tao không chịu kém mày. Tại các nước phương Tây không phải không có
chuyện ăn hối lộ nhưng nhìn chung ít hơn chúng ta. Khi nhận hối lộ, lương tâm
và tinh thần người ta sẽ ràng buộc họ.
Phó Chủ tịch Trì Hạo Điền [5] có kể một chuyện để lại
ấn tượng rất sâu sắc đối với tôi. Ông kể, trong thời kỳ chống Nhật vùng căn cứ
địa Giao Đông có bảy tám tên lính Nhật vác cờ mặt trời (tức quốc kỳ Nhật - ND)
đi càn, ba bốn chục nghìn quân dân căn cứ địa bỏ chạy hết. Sói đuổi cừu mà.
Trên xe buýt một cô gái bị cướp, xe đầy ắp người mà
chẳng ai ho he. Cô gái xúc động thốt lên: "Cha tôi kể năm xưa một tên giặc
Nhật cai quản cả một huyện của chúng ta. Ngày ấy tôi không tin, bây giờ thì tin
rồi."
Hồi "Cách mạng Văn hoá", ga xe lửa lúc nào
cũng đông nghịt. Khi tàu đến, người ta chen nhau ùa vào ga lên tàu. Một cô nhân
viên soát vé nói: Các ông bà đông thế này, một đứa con gái như tôi không thể
nào giữ được ai, mà tôi cũng chẳng muốn làm thế. Bắt giữ ai nào? Giữ người đầu
tiên chen vào. Thế là ai nấy ngoan ngoãn xếp hàng.
Chính sách ngu dân
Tôn giáo Trung Quốc có mấy loại, tuy khác nhau về tư
tưởng nhưng trên mặt chủ nghĩa chống hiểu biết hoặc chủ trương ngu dân thì đều
như nhau. Chính vì thế mà tôn giáo mới được tầng lớp thống trị coi trọng. Dưới
sự giáp công của văn hoá tôn giáo và chính sách ngu dân của lực lượng hống trị,
người Trung Quốc hình thành quần thể như ngày nay. Người Trung Quốc giỏi nhất
về chuyện ca tụng công đức, thứ nhì là tố giác, thứ ba là giở thủ đoạn, cuối
cùng là khôn ngoan bo bo giữ mình (nguyên văn: minh triết bảo thân - ND).
Người Mãn Thanh thống trị Trung Quốc thành công nhất.
Họ hiểu rõ đặc tính quan trường của người Trung Quốc: Dốc lòng trung thành với
cá nhân, không trung thành với nhà nước.
Trong việc thống trị ba dân tộc Hán, Mông, Tạng ở Trung
Quốc, người Mãn Châu nhằm vào các đặc điểm khác nhau của ba dân tộc này để sử
dụng những mánh khoé khác nhau. Người Tây Tạng tin Phật Giáo, triều đình nhà
Thanh cho dựng ngay tại Thừa Đức [6] một ngôi chùa phỏng theo kiểu chùa Tây
Tạng, đón Lạt Ma về kinh đô làm ông lớn. Người Mông Cổ nhanh nhẹn dũng mãnh thì
dùng thủ đoạn hôn nhân, gả con gái hoàng tộc cho vương công Mông Cổ, đẻ ra con
trai thì nó là cháu ngoại. Đối với người Hán thì dùng khoa cử. Người Hán có tật
thích làm quan. Chỉ cần cho làm quan, tựa như quẳng khúc xương cho con chó, là
cúi đầu cụp tai ngoan ngoãn nghe theo.
Hồi tôi sang Mỹ, thày hướng dẫn tôi là người chuyên
nghiên cứu về Mao Trạch Đông. Ông ấy cho rằng trong đời mình, Mao Trạch Đông
tổng cộng làm được 31 việc. Nghiên cứu kỹ 31 sự việc này, tôi phát hiện thấy
trong đó có 20 sự việc liên quan tới huỷ hoại tinh thần và đạo đức con người.
Đến năm 1966, cuối cùng Mao Trạch Đông phát động cuộc
Cách mạng Văn hoá chưa từng có trong lịch sử, làm cho kinh tế Trung Quốc đi tới
bờ vực sụp đổ, càng làm cho phẩm chất đạo đức của nhân dân toàn quốc hạ thấp
xuống tới mức đáng sợ, nhà nước mấy lần sa vào tình cảnh muôn đời không phục
hồi được.
|
|
Tinh thần là cái gốc lập mệnh của mỗi con người, là cái
gốc lớn mạnh của một dân tộc, cái gốc sinh tồn của một quốc gia. Cái gì cũng có
thể không có nhưng tinh thần thì không thể không có. Cách đây ít lâu khi xuống
sư đoàn 33 Không quân, tôi có đến thăm trại tập trung Tra Tử Động. Nhiều liệt
sĩ như Chị Giang [12] đã hy sinh tại đây. Hồi ấy nước Cộng hoà nhân dân Trung
Hoa đã thành lập. Chị Giang đang ở trong tù mà vẫn thêu một lá cờ đỏ năm sao.
Chị chưa biết mẫu của cờ đỏ năm sao như thế nào, cho nên đã thêu ngôi sao lớn
nhất vào chính giữa lá cờ, 4 ngôi sao nhỏ ở 4 góc.
Khi bọn Quốc Dân Đảng chuẩn bị làm cuộc đại tàn sát tù
nhân thì Quân Giải phóng đã tiến tới gần Bạch Thị Dịch. Đội du kích Hoa Doanh
Sơn bắt được liên lạc với Quân đoàn 47. Đội du kích nói: Các đồng chí mau tiến
quân đi, trại tập trung Tra Tử Động sắp hành quyết các chính trị phạm. Nhưng
Quân Giải phóng cho rằng đội viên du kích Hoa Doanh Sơn là tên lừa đảo, có thể
là bẫy kẻ địch cài, cho nên họ không hành động. Kết quả là cuộc tàn sát bắt
đầu. Các liệt sĩ hiên ngang đi tới chỗ chết.
Có người nói, thật đáng tiếc, các liệt sĩ ấy đã không
nhìn thấy nước Trung Quốc mới. Mục tiêu phấn đấu mà họ theo đuổi sắp được thực
hiện thế mà họ lại không được nhìn thấy. Tôi bảo anh nhầm rồi. Nói thực lòng,
họ vô cùng hạnh phúc. Tín ngưỡng trong lòng họ sắp được thực hiện, chết vào lúc
đó không phải là nỗi đau mà là một niềm hạnh phúc.
Những người còn sống sót mới thực sự đau khổ. Họ nhìn
thấy nước cộng hoà nhân dân được thành lập, sau đó là các phong trào chống phái
hữu, tam phản ngũ phản, "Cách mạng Văn hoá", những người bị cái đảng
mà mình hiến dâng tính mạng hành hạ mình chết đi sống lại ấy mới là những người
đau khổ nhất. Chết, chết không được. Sống, sống không thành. Cuối cùng để mất
niềm tin và tín ngưỡng, chẳng khác gì cái thây ma biết đi.
Đảng viên cộng sản mất tín ngưỡng thì là cái gì? Hãy
nhìn bọn quan tham nhũng hiện nay thì khắc rõ. Bọn chúng tên nào cũng sợ chết,
quan càng to càng sợ chết. Thứ trưởng Bộ Công an Lý Kỷ Châu khi bị bắt còn hung
hăng lắm. Hắn nói: "Nếu tôi có vấn đề thì phải đem chém đầu một nửa Bộ
Chính trị!" Đến lúc chuẩn bị đưa đi xử bắn, hắn quỳ xuống van xin:
"Xin cho tôi một con đường sống."
Nguyễn Hải Hoành lược dịch
--------------------------------------
[1] tức Hán Vũ Đế, 156-87 trước CN
[2] 4 nhân vật anh hùng nổi tiếng trong vụ ám sát không
thành Tần Thuỷ Hoàng
[3] câu thơ Kinh Kha cảm tác khi qua sông Dịch trên
đường đi mưu sát Tần Thuỷ Hoàng
[4] triết gia Trung Quốc đương đại nổi tiếng là
"khùng"
[5] Thượng tướng, sinh 1929, thời gian 1998-2003 làm
Phó Chủ tịch Quân uỷ Trung ương kiêm Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc
[6] 1 trong 10 địa điểm danh lam thắng cảnh nổi tiếng
nhất Trung Quốc, cách Bắc Kinh 180 km
[7] Sự kiện nội bộ đảng CSTQ thanh trừng giết nhầm
nhiều cán bộ của đảng năm 1930 tại căn cứ địa Phú Điền tỉnh Giang Tô
[8] Hội nghị mở rộng Bộ chính trị ĐCSTQ họp tháng
1/1935 tại Tuân Nghĩa tỉnh Quý Châu, xác lập quyền lãnh đạo của Mao Trạch Đông;
được coi là bước ngoặt của cách mạng Trung Quốc
[9] Nguyên phó Chủ tịch nước; năm 1954 bị kết tội chia
rẽ đảng, bị kỷ luật, tự tử chết 1954
[10] 2 phong trào trong thời gian cuối 1951 đến
10/1952. Tam phản: chống tham ô, lãng phí và quan liêu; Ngũ phản: trong ngành
công thương nghiệp tư doanh chống hối lộ, trốn thuế và lậu thuế, lấy cắp tài
sản nhà nước, làm ăn gian dối, lấy cắp tình báo kinh tế
[11] Hội nghị mở rộng Bộ chính trị và hội nghị lần 8
trung ương ĐCSTQ, cách chức Bộ trưởng Quốc phòng của Bành Đức Hoài
[12] Tên thân mật gọi Giang Trúc Quân, nữ liệt sĩ cách
mạng Trung Quốc, 1920-1949
Nguồn: Tuanvietnam
____________
Đọc Lưu Á Châu để hiểu thêm một vài vấn đề về Trung
Quốc:
Cuộc chiến Việt Nam 1979
Sau khi nói về “Giấc mơ quân đội và đất nước hùng
mạnh”; “đây không chỉ là giấc mơ mà đã trở thành niềm tin vững chắc của tôi”,
“tôi rất yêu quý quân đội chúng ta, 15 tuổi, tôi nhập ngũ, đến nay đã 34 năm
trong quân đội; tôi đã cống hiến cả tuổi thanh xuân và sẽ cống hiến cả đời mình
cho quân đội”, ông ta nói về việc “quân đội Trung Quốc đã hai lần phát huy vai
trò chính trị quan trọng”.
Một lần là sóng gió chính trị 4/6 (sự kiện quân đội
giải tán biểu tình tại Thiên An Môn 4/6/1989). “Có
thể nói, không giải quyết vấn đề “4/6”, không có cục diện phát triển phồn vinh
của Trung Quốc ngày hôm nay; không có quân đội, vấn đề ngày “4/6” sẽ không giải
quyết, cũng không thể có 13 năm huy hoàng”.Thiên An Môn là chuyện của Trung
Quốc, còn đây là chuyện liên quan đến Việt Nam chúng ta. “Một lần khác
là cuộc chiến tự vệ chống Việt Nam năm 1979 và cuộc chiến
“Lưỡng Sơn” sau này (cuộc chiến “Lão Sơn” và “Giả Âm Sơn” theo cách gọi của
Trung Quốc, tức cuộc lấn chiếm của Trung Quốc ở khu vực điểm cao 1509 huyện Vị
Xuyên và Núi Bạc, huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang, Việt Nam - N.D). Đặc biệt là
cuộc chiến tự vệ đánh trả Việt Nam năm 1979, nhiều đồng chí chưa nhận thức được
ý nghĩa của cuộc chiến này.
Khi đó, có người nói: chúng ta đánh nhau với người Việt
Nam, hiện nay, những người hy sinh là liệt sĩ, sau khi quan hệ hai nước trở lại
tốt đẹp, họ sẽ là gì? Tôi trả lời: “Vẫn là liệt sĩ!”. Vì sao? Chúng ta phải
nhìn nhận cuộc chiến này từ góc độ chính trị. Ý nghĩa của cuộc chiến này nằm
bên ngoài cuộc chiến. Cuộc chiến này của đồng chí Đặng Tiểu Bình là đánh để hai
người xem, một là Đảng Cộng sản Trung Quốc, hai là người Mỹ.
Sau khi Đặng Tiểu Bình trở lại cầm quyền vào năm 1978,
tháng 1/1979, ông thăm Mỹ, tháng 2/1979 đánh Việt Nam. Về chính trị, cuộc chiến
này không thể không đánh. Vì sao? Sau khi Đặng Tiểu Bình trở lại nắm quyền,
chương trình cải cách mở cửa của Trung Quốc đã được ông vạch sẵn, muốn thực
hiện chương trình này phải xác lập quyền lực tuyệt đối trong nội bộ Đảng. Phải
đánh một trận. Khi đó, “bè lũ bốn tên” vừa bị đập tan, những người có tư tưởng
cực tả trong nội bộ Đảng còn rất đông, họ vừa chống lại Đặng Tiểu Bình, vừa
phản đối lại đường lối và chính sách của ông. Muốn cải cách phải có quyền lực.
Biện pháp xác định quyền lực nhanh nhất là gây chiến tranh. Lưu Dụ (?) cũng làm
như vậy. Khi đó, rất nhiều người phản đối chiến tranh, cho rằng Quân Giải phóng
vừa trải qua “cách mạng văn hóa”, không thể đánh trận được. Tuy nhiên, Đặng
Tiểu Bình rất quyết đoán, dẹp mọi tranh cãi, chỉ huy Quân Giải phóng ào ạt vượt
qua biên giới vào ngày 17/2. Thứ hai là người Mỹ, ý nghĩa của việc này cũng rất
lớn.
Đến nay, Đặng Tiểu Bình đã xa chúng ta được 5 năm,
nhưng tôi cũng luôn cảm thấy ông ở cạnh bên chúng ta. Lý Hiến Trung (Chủ nhiệm
Chính trị Bộ Tư lệnh Không quân Bắc Kinh) nói: “Mao Trạch Đông của chúng ta,
càng ngẫm càng thấy vĩ đại”. Thời gian càng lùi xa, sự vĩ đại của Đặng Tiểu
Bình càng khiến chúng ta cảm nhận rõ ràng hơn. Ông chuyển hướng cả đất nước
Trung Quốc chúng ta. Các đồng chí thấy đấy, cuộc chiến này xảy ra năm 1979.
Năm 1975, sau khi hao binh tổn tướng, người Mỹ cuống
cuồng tháo chạy khỏi Việt Nam. Đặng Tiểu Bình nói, tôi dạy cho Việt Nam một bài
học. Khi đó, Việt Nam đang theo ai? Đang theo Liên Xô. Đặng Tiểu Bình tấn công.
Cuộc chiến phản kích tự vệ đối với Việt Nam vào lúc đó của Đặng Tiểu Bình thực
sự đã đưa Trung Quốc ra khỏi cái gọi là phe xã hội chủ nghĩa của Liên Xô. Khi
ấy, nhiều nước Đông Âu không hài lòng, nói rằng một nước xã hội chủ nghĩa lại
đánh một nước xã hội chủ nghĩa khác. Khi đó, Đặng Tiểu Bình đã thấy rõ không
cần thứ chủ nghĩa xã hội ấy của họ. Kết quả như thế nào? Chủ nghĩa xã hội giả
hiệu đã chết yểu.
Vào năm 1989, tất cả các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông
Âu sụp đổ hàng loạt. Ngay cả Liên Xô cũng tan rã. 10 năm trước đó, Đặng Tiểu
Bình đã nhận ra vấn đề này, dùng chiến tranh để vạch rõ ranh giới với các nước
xã hội chủ nghĩa. Đặng Tiểu Bình, thật là một kỳ tài! Vừa rồi, tôi nói gây ra
cuộc chiến tranh này vì người Mỹ, chính là trả hận cho người Mỹ. Có bằng chứng
không? Có đấy. Ngày hôm trước rời Nhà Trắng thì ngày hôm sau, Đặng Tiểu Bình
bắt đầu đánh Việt Nam. Vì sao có thể giúp Mỹ hả giận? Bởi vì, người Mỹ vừa tháo
chạy nhục nhã khỏi Việt Nam. Chúng ta sao lại giúp người Mỹ hả giận? Thực ra
không phải vì Mỹ, mà là vì chúng ta, vì cải cách mở cửa. Trung Quốc không thể
cải cách mở cửa mà không có viện trợ của các nước phương Tây, đứng đầu là Mỹ.
Nhờ cuộc chiến này, Mỹ đã ồ ạt viện trợ kinh tế, kỹ thuật, khoa học kỹ thuật và
cả viện trợ quân sự, tiền vốn cho Trung Quốc.
Tuần trăng mật giữa Mỹ và Trung Quốc kéo dài đến mười
năm, đến ngày 4/6/1989 mới tạm lắng. Cuộc chiến này đem lại cho Trung Quốc những
gì? Đó là một lượng lớn thời gian, tiền bạc và kỹ thuật. Nhờ những yếu tố này,
Trung Quốc tiếp tục đứng vững sau khi Liên Xô sụp đổ. Đây là thành công vĩ đại.
Thậm chí có thể nói, bước đi đầu tiên của cải cách mở cửa Trung Quốc chính là
từ cuộc chiến tranh này. Với ý nghĩa đó, cống hiến của quân đội Trung Quốc đối
với công cuộc cải cách mở cửa thật to lớn vô cùng” (1).
Người Việt Nam chúng ta cũng nên biết về chuyện nội bộ
của quân đội Trung Quốc, từ cách nhìn của người chỉ huy cao cấp, đã nhuốm màu “quan
phương”, nhưng cũng có tình tiết lý thú; làm ta hiểu rõ thêm thực chất của cuộc
chiến tranh mà ông Lưu gọi là “tự vệ”! (Trung Quốc đánh Việt Nam từ lệnh của
Đặng Tiểu Bình là do ông nói ra, chứ Việt Nam có đánh Trung Quốc trước đâu!).
TÂM LÝ QUÂN ĐỘI TRUNG QUỐC - NHÌN TỪ ÔNG LƯU
Khi đó, tôi đến thăm bộ đội tham gia chiến đấu, để lại
ấn tượng rất sâu đậm đối với tôi. Khi ấy, cải cách mở cửa đã bắt đầu, đặc biệt
là khi tác chiến ở “Lưỡng Sơn”, hậu phương vẫn ca hát nhảy múa trong thanh
bình. Các cán bộ chiến sĩ không những phải đối mặt với thử thách sinh tử, mà
đều có gánh nặng cuộc sống. Đặc biệt là cán bộ cơ sở, hầu hết gia đình đều rất
khó khăn. Lúc đó, tôi đến viếng một chính trị viên đại đội của Quân đoàn 14,
anh ta đã hy sinh. Vợ anh ta gặp tôi, nói rằng, trước khi ra trận, chồng chị
vẫn còn nợ tiền, khi phát lương tháng cuối cùng trước khi ra trận, trừ hết các
khoản nợ, chỉ còn 5 xu tiền lương trong túi. Cuối cùng, cô ấy đưa cho tôi xem
bản kê di vật, chỉ còn đúng 5 xu. Tôi thấy thật xót xa.
Có một chiến sĩ gia đình nghèo đói, di chúc của họ thật
đầy máu và nước mắt. Trong di chúc của một chiến sĩ, có đoạn, nếu tôi chết,
mong công xã hãy cho gia đình tôi một con bò. Có người khác viết, nếu tôi chết,
hãy cởi bộ quân phục của tôi đem về quê, anh em nhà tôi không có quần áo để
mặc. Xem những trang viết này thật là xót xa.
Tinh thần của các binh sĩ vĩ đại như núi Thái Sơn. Từ
hậu phương đến tiền tuyến, tôi thấy sự chênh lệch quá lớn, không thể nói lên
lời! Không chỉ là cuộc sống mà còn những cái khác. Chẳng hạn, tôi đã từng điều
tra bộ đội tham chiến ở bốn quân đoàn, những cán bộ có vợ chưa cưới thì 100%
đều từ hôn, không có trường hợp ngoại lệ. Tôi xem thư đoạn tuyệt hôn nhân của
một cô gái, viết cũng rất có lý:“Anh hy sinh không còn không sao, nếu anh bị
thương mất chân mất tay, chúng ta sẽ biết sống ra sao?”. Đây cũng là
thực tế. Một chính trị viên phó đại đội ở quân đoàn 27 dẫn đầu đội xung kích
tấn công một ngọn núi, bị hy sinh, cả đội xung kích có 30 người thì hy sinh 20.
Sau khi trở về, đại đội tập hợp những người sống sót
trong toàn đại đội điểm danh, thi thể của chính trị viên phó đại đội và hai
mươi mấy chiến sĩ đặt trên một sân phơi của dân. Vào lúc đó, thư của vợ chưa
cưới chính trị viên phó cũng vừa gửi đến. Thư gì vậy? Thư cắt đứt quan hệ hôn nhân.
Trước mặt những người sống sót và trước thi thể những người đã hy sinh trong đó
có chính trị viên phó, đại đội trưởng đã đọc bức thư ấy, các chiến sĩ toàn đơn
vị ai cũng đầm đìa nước mắt. Tôi luôn thấm thía khung cảnh khi ấy và tâm trạng
của họ. Ánh sáng nhân tính vào thời điểm ấy mới rực sáng nhất. Khi bước vào
chiến đấu rất hiếm thấy lời nói hùng hồn. Thật sự có thể làm rung động lòng
người thì tuyệt đối không thể tràng giang đại hải, càng không thể là đạo lý
suông. Trầm tĩnh có sức mạnh lớn hơn nhiều so với ồn ào náo động.
Tôi đi qua một đơn vị chuẩn bị bước vào chiến đấu, tâm
trạng háo hức trước khi tham chiến của bộ đội như miêu tả trong tiểu thuyết,
trên phim ảnh, truyền hình… tất cả đều chỉ là sự phóng đại. Trước khi tác
chiến, một vùng bộ đội đóng quân tĩnh lặng như tờ. Cán bộ chỉ huy đều ẩn nấp ở
nơi rất xa. Khi thời bình, số cán bộ chỉ huy này rất khí phách hào hùng. Có một
cán bộ cho đến nay vẫn còn duy trì quan hệ với tôi. Khi đó tôi là cán bộ cấp
Tiểu đoàn phó, anh là Sư đoàn trưởng. Anh gặp tôi, nói một cách khí
phách: “Tôi có 3 suy nghĩ, cậu hãy viết thành sách cho tôi! Thứ nhất,
tôi muốn làm George Smith Patton Jr của Trung Quốc; thứ hai, binh sĩ được coi
là gì? Binh sĩ chính là những con số Ả rập; thứ 3, tôi mong mỏi được đánh trận.
Đánh một trận thăng một cấp”.
Chính vì mấy câu nói đó, tôi đã không tha thứ cho anh
ấy. Anh ấy không có thiện cảm với chiến sĩ. Thời bình, nếu Đại đội trưởng,
người chỉ huy có quan hệ tốt với chiến sĩ, thì có thể đoàn kết thành một tập
thể vững mạnh, nhưng nếu có chút mâu thuẫn, chắc chắn sẽ dẫn đến tình trạng mỗi
người một phách. Tuy nhiên, khi chiến tranh nổ ra, cán bộ, chiến sĩ cũng sẽ sẵn
sàng xông pha không chùn bước.
Các bạn đều biết tôi từng viết một tác phẩm có tiêu
đề Vương Nhân Tiên. Tác phẩm này đã gây tiếng vang rất lớn.
Vương Nhân Tiên là Phó Tham mưu Đại đội thuộc Sư đoàn 14, Quân đoàn 14, người
Côn Minh, thuộc dòng dõi con em cán bộ. Trước chiến tranh, Vương Nhân Tiên từng
bị xử lý do vi phạm kỷ luật, sau này hy sinh. Có người cho rằng anh ấy không
phải là anh hùng, nhưng tôi cho rằng anh ấy là anh hùng, hơn thế nữa còn là anh
hùng đích thực.
Quân đoàn trưởng Quân đoàn 14 khi đó, xxx từng
nói: “Nghe nói Lưu Á Châu muốn viết về Vương Nhân Tiên? Quân đoàn 14 có
nhiều nhân vật anh hùng như vậy sao không viết, lại đi viết về một người như
vậy?”. Người khác đem chuyện này kể với tôi, tôi chỉ bĩu môi một cách
khinh thường. Hugo từng nói, trong chủ nghĩa anh hùng đích thực tuyệt đối có
một chủ nghĩa nhân đạo đích thực tuyệt đối. Rủi ro của Vương Nhân Tiên chính là
điển hình của chủ nghĩa nhân đạo, đồng thời cũng là điển hình của chủ nghĩa anh
hùng.
Vương Nhân Tiên vốn yêu một cô bạn gái tại Côn Minh,
nhưng khi quân đội di chuyển đến Lão Sơn, cô bạn gái này đã cắt đứt quan hệ với
Vương Nhân Tiên. Sau khi quân đội tiến vào khu vực Lão Sơn, đóng quân tại một
địa phương gọi là Lạc Thủy Động. Vương Nhân Tiên và một số cán bộ khác ở trong
một gia đình nông dân người Miêu. Nữ chủ nhà là một cô gái dân tộc Miêu rất
xinh đẹp, vừa kết hôn không lâu, có một đứa con mới sinh. Tính cách của cô gái
này tràn đầy nhiệt huyết, rắn rỏi khí khái. Đa phần các cô gái dân tộc thiểu số
đều có đặc điểm chung như vậy. Không giống với các cô gái dân tộc Hán, không
dám yêu cũng không dám oán hận. Dân tộc Hán là một dân tộc không có tình yêu
nhất. Dù dân tộc Hán có dân số đông nhất trên thế giới, nhưng họ không có tình
yêu. Ở nước ngoài vì tình yêu có thể gây chiến tranh, Trung Quốc có thể không?
Ngô Tam Quế được coi là nam nhi dám chiến đấu vì tình yêu, lại vẫn bị cho là
Hán gian.
Cô gái người Miêu ở Lạc Thủy Động sau khi nhìn thấy
Vương Nhân Tiên đẹp trai, phong độ, cao 1m82. Nghe nói trên khuôn mặt anh ấy
luôn mỉm cười, ban đầu Vương Nhân Tiên không hề để ý tới cô ta. Phụ nữ nông
thôn mà, gia cảnh rất nghèo. Mặc dù, lớn lên rất xinh đẹp, nhưng đã là người có
con. Trước khi bộ đội lên Lão Sơn, cô gái người Miêu đã rót nước vào bình cho
tất cả các chiến sĩ đóng quân tại nhà cô và cố ý cho thêm đường vào bình của
Vương Nhân Tiên, đường cho vào nhiều đến mức ngọt như mật ong.
Buổi tối, cô gái người Miêu bế con đến phòng của Vương
Nhân Tiên. Cô đã hành động một cách tự nhiên nhất trước mặt Vương Nhân Tiên:
cởi áo cho con bú. Hai người cứ ngồi với nhau như vậy trong căn phòng. Vương
Nhân Tiên ra sức rít thuốc. Anh ấy đang cố gắng kìm chế. Nhưng cuối cùng không
kìm chế nổi. Vì sao không thể? Điều này là có lý do, lý do đó chính là ngày mai
bộ đội phải lên Lão Sơn. Chuyến đi này có thể anh ấy muốn “ghi danh”. Anh ấy là
người đàn ông có tâm huyết, chính trực, chưa từng quan hệ với phụ nữ. Anh khẳng
định, nghĩ lại chuyện đó anh vẫn không đành lòng. Đây là lẽ hết sức thường tình
của con người.
Khi đó, hai người đã quan hệ trong chuồng heo. Ngày thứ
2, tình hình đột nhiên thay đổi, các cuộc tiến công đã bị hoãn lại. Kế hoạch
tác chiến bị trì hoãn, vì vậy tình yêu của họ đã đến một cách tự nhiên như vậy.
Bất cứ việc gì đều giống nhau, đã có một lần thì sẽ có một trăm lần. Trong
những ngày đó, bất cứ nơi đâu của Lạc Thủy Động đều lưu lại những hình ảnh yêu
thương của họ. Tuy nhiên, số lần quan hệ trong chuồng heo cũng tương đối nhiều.
Vương Nhân Tiên sau mỗi lần làm chuyện đó đều hút thuốc, hết điếu này đến điếu
khác, thật là nguy hiểm. Cô gái Miêu rất hạnh phúc, đã hát ngay tại chuồng heo.
Một cô gái thật có cá tính!
Sau này, người chồng của cô đã phát hiện ra, hỏi cô đã
quan hệ với ai, cô không nói, cuối cùng chồng cô đã báo cáo vụ việc lên đơn vị.
Tập đoàn quân 14 cảm thấy đây là một sự việc hết sức nghiêm trọng, phá hoại kỷ
luật quần chúng. Quân đoàn trưởng Quân đoàn 14 xxx ra lệnh xử nghiêm. Quân đội
đã triệu tập tất cả các cán bộ và binh lính đóng gần nhà cô gái Miêu, xếp thành
hàng, gọi cho cô gái đến nhận mặt. Cô gái người Miêu thật cương nghị, hôm đó
tôi cảm thấy còn phải cung kính nể phục. Cô bước tới phía trước Vương Nhân
Tiên, chỉ tay nói: “Chính là anh ấy” rồi lại nói một câu gì
đó, tôi nghe không hết, nhưng ý nói là tôi thích anh ấy, tôi yêu anh ấy. Trưởng
ban Bảo vệ nói: “Tôi đã sớm đoán được là Vương Nhân Tiên. Tôi đã nhìn
thấy đầu thuốc lá cao cấp có ở khắp nơi trong chuồng heo. Mùi thơm của những
đầu thuốc này chỉ có anh ta hút”.
Vương Nhân Tiên bị kỷ luật và giáng cấp từ Phó Đại đội
xuống cấp Trung đội. Ngày tấn công Lão Sơn, Trung đoàn điều Vương Nhân Tiên lên
tuyến đầu. Ngày 12/7, một sư đoàn của Việt Nam và quân ta đã xảy ra một cuộc
chiến giằng co quyết liệt tại khu vực Lão Sơn. Pháo bắn suốt ngày đêm. Vì Lạc
Thủy Động cách tuyến đầu rất gần, có thể nhìn thấy một vùng trời rực lửa đạn
bom. Cô gái người Miêu cứ ngồi ở đầu thôn, ngóng về phía Lão Sơn. Người chồng
đã đánh cô, xuống tay rất nặng. Đầu và mồm đều bị chảy máu, làm cô bất động.
Vương Nhân Tiên đang chiến đấu tại điểm cao nhất của mặt trận. Anh là tham mưu
pháo binh, đã kịp thời báo cáo hàng nghìn tình huống cho pháo binh tuyến sau.
Hỏa lực pháo binh của quân ta dài như tầm mắt, dội lên đầu kẻ địch.
Tháng 8, tôi leo lên Lão Sơn, nhìn xuống phía dưới, vẫn
còn nhìn thấy cảnh thây xác. Đó đều là xác quân địch bị bắn chết trong cuộc
chiến “12/7”. Sau này, quân địch phát hiện trên địa phương này có căn cứ, đã
tập trung hỏa lực đánh vào đây. Vương Nhân Tiên đã hy sinh. Đồng đội của anh ấy
nói rằng, khi chết, anh đang dựa vào một gốc cây và cứ đứng chết như vậy. Sau
khi bộ đội rút đi, vẫn đi qua Lạc Thủy Động. Cô gái người Miêu đứng ở đầu thôn,
tìm từng người, từng người một. Các sĩ quan binh lính đi ngang qua cô, họ đều
cúi đầu, giống như đã phạm một lỗi lầm. Họ đã thay đổi quan điểm về Vương Nhân
Tiên và khi đó đã có một tâm trạng hoàn toàn thay đổi.
Cuối cùng, cô gái cũng biết Vương Nhân Tiên đã hy sinh.
Bạn xem cô gái đó sẽ làm gì? Cô đã bán tài sản trong nhà lấy tiền mặt, mua hai
tút thuốc lá đầu lọc tương đối cao cấp, đến trước mộ của Vương Nhân Tiên, bóc
toàn bộ hai tút thuốc, rồi châm lửa từng điếu từng điếu một, cắm lên mộ. Trên
mộ đã cắm đầy thuốc. Khi đó, tôi nghe thấy hết sức cảm động.
Năm 1984, khi tôi đến Lão Sơn thì mộ của Vương Nhân
Tiên đã được xây rồi. Ban đầu, trong quân đội không ghi công cho Vương Nhân
Tiên, sau này, do yêu cầu mạnh mẽ của các nhà văn như chúng tôi, Vương Nhân
Tiên đã được ghi công, đại để được ghi công hạng nhất. Khi đó, tôi đi tìm bia
mộ tại nghĩa trang liệt sĩ và tôi đã tìm thấy. Tôi đã học theo cách của cô gái
người Miêu, bóc một bao thuốc lá, đốt từng điếu và cắm lên mộ anh. Khi đó, tôi
là Phó Tiểu đoàn Ban Liên lạc Không quân.
Năm 1999, tức 15 năm sau đó, tôi đảm nhiệm cương vị Chủ
nhiệm Chính trị Không quân Bắc Kinh, tôi lại cùng một vài đồng chí Trưởng ban
như Vương Xuân Ba, Lưu Phan đã đến nghĩa trang liệt sĩ Ma Lật Pha. Lão Sơn vẫn
xanh tươi như xưa. Lần đó, tôi chỉ mang rượu, thuốc lá từ Bắc Kinh, trước mộ
Vương Nhân Tiên tôi đã rót rượu và châm thuốc mời anh. Tôi và các đồng chí đi
cùng đều không cầm được nước mắt. Họ nói, Chủ nhiệm vẫn còn tình cảm sâu đậm
với vùng đất này quá! Sau khi tôi đến công tác tại Không quân Thành Đô, tạm
thời tôi vẫn chưa đi. Đương nhiên tôi muốn đi. Bia mộ ngàn năm vẫn biết nói.
Khu vực Ma Lật Pha có vài nghìn ngôi mộ, đến gần mỗi ngôi mộ là đến gần một
linh hồn. Đến gần nghĩa trang liệt sĩ Ma Lật Pha, những toan tính đời thường
trong đầu không còn tồn tại nữa (2).
(Mời xem tiếp kỳ sau)V.H.N trích
bình
22/08/2010
Dương Danh Dy trích dịch
Vừa qua Vietnamnet và một số báo mạng
tiếng Việt nước ngoài đã đăng bài viết của Lưu Á Châu (mạng BVN đã
đưa lại bài này từVNN), một Trung tướng, nguyên Chính ủy không quân
Trung Quốc. Điều đáng tiếc là người giới thiệu bài viết trên chỉ sử dụng khoảng
7 trang trên tổng số 22 trang (chữ Trung Quốc) của bài nói đó, bỏ hẳn phần
“Niềm tin” và đặc biệt đã bỏ qua đoạn nói rõ quan điểm của tác giả về vai trò
của quân đội Trung Quốc, đồng thời cũng là quan điểm của tác giả đối với cuộc
đàn áp phong trào học sinh sinh viên Trung Quốc năm 1989 và cuộc chiến tranh
biên giới năm 1979…
Vì vậy xin mạn phép trích dịch bổ sung mấy đoạn đưới
đây để bạn đọc trong và ngoài nước có cái nhìn toàn diện hơn, chính xác hơn về
quan điểm nghe có vẻ cấp tiến của Lưu Á Châu để bạn đọc nhìn nhận toàn diện hơn
về con người hai mặt của Lưu. Có thể sau khi đọc xong, một số bạn đọc sẽ vỡ
mộng về “người Trung Quốc tiến bộ này” như đã có bạn đọc nói với tôi… Nhưng sự
thật vẫn là sự thật, dù có đi theo “con đường Mỹ” chăng nữa, Trung Quốc “bá
quyền nước lớn” vẫn là “Trung Quốc bá quyền nước lớn”. Xin đừng ảo tưởng.
Dương Danh Dy
…
Vấn đề
niềm tin
Martin
Luther King nói: “Tôi có một giấc mơ”, cũng giống như ông, tôi có một giấc mơ.
Giấc mơ quân đội hùng mạnh, giấc mơ đất nước hùng mạnh. Hai giấc mơ đó thực ra
là một giấc mơ, đã trở thành niềm tin kiên cường của tôi. Chúng ta đều là quân
nhân. So với tôi, các anh đều là những quân nhân trẻ tuổi. Khi lên lớp tại Đại
học Kỹ thuật quốc phòng tôi đã từng dẫn một câu của Mao Chủ tịch: “Thế giới là
của các bạn, cũng là của chúng ta, nhưng nói cho cùng là thuộc về các bạn”. Tôi
nói, quân đội là của các anh, bởi vì các anh cũng là mặt trời của quân đội. Tôi
vô cùng yêu mến đạo quân này. Tôi tham gia quân đội năm 15 tuổi, đến nay đã 34
năm, Tôi đã hiến dâng tuối thanh xuân cho quân đội, tôi nhất định sẽ hiến dâng
cả đời cho quân đội, tuy vậy tôi không dám nói liệu có hiến dâng con cháu cho
quân đội hay không. Tôi sinh ra trong doanh trại quân đội, lớn lên trong doanh
trại quân đội. Cha tôi là một người lính già, năm 1939 ông và 6 thanh niên nông
dân cùng quê tham gia Bát Lộ quân. Trong chiến dịch tàn khốc Mạnh Lương Cố, 6
người ấy đều hy sinh trong chiến đấu, chỉ còn lại một cha tôi…
…
Từ cải
cách mở cửa đến nay về chính trị quân đội Trung Quốc đã hai lần phát huy vai
trò quan trọng.
Một là
cơn bão táp chính trị “6-4” [đàn áp Thiên An Môn]. Đồng chí Tiểu Bình đã nói,
cơn sóng gió này sớm muộn sẽ dến. Không thể không đến, nhưng có khả năng sẽ đến
sớm. Sau “6-4” công cuộc cải cách mở cửa ở nước ta bước sang một trang mới. Gần
đây mọi người học tập Báo cáo chính tri của “Đại Hội 16” trong đó có một mệnh
đề quan trọng, đó là thành tựu huy hoàng 13 năm qua của trung ương đảng do đồng
chí Giang Trạch Dân làm hạt nhân… Có thể nói không có sự giải quyết vấn đề
“6-4” sẽ không có cục diện phồn vinh hưng thịnh của đất nước chúng ta hôm nay;
không có quân đội, vấn đề “6-4” không thể giải quyết được, nghĩa là sẽ không có
13 năm huy hoàng. Sáng sớm ngày 6 tháng 4 hôm ấy, Bắc Kinh sau khi trải qua một
đêm trời long đất lở đã đột nhiên yên tĩnh, rất nhiều bộ đội thu dọn tụ tập tại
quảng trường Thiên An Môn, không biết tình hình bước tiếp theo sẽ phát triển ra
sao… Buổi sáng ngày hôm đó, mọi điện thoại ở Bắc Kinh đều không gọi được. Vì
sao gọi không được? Bởi vì toàn thể thị dân đều núp trong nhà gọi điện thoại,
trong chốc lát đường dây quá tải. Tin đồn không cánh mà bay, bay khắp cả nước.
Phương Tây huyên náo. Con mắt toàn thế giới tập trung nhìn vào quảng trường
Thiên An Môn. Chủ tịch nước Dương Thượng Côn lúc đó nói: “Trên quảng trường
Thiên An Môn sáng sớm hôm đó nếu có một Trung đội có vấn đề là nguy vô cùng”.
Thế nhưng quân đội của chúng ta là quân đội do đảng lãnh đạo. Không có Trung
đội nào [có vấn đề] cả. Quân đội đã trải qua thử thách. Quân đội đã trả giá
nặng nề cho “6-4”… có người Bắc Kinh đã hạ độc thủ để ngăn cản quân đội vào
thành, có một Trung đội trưởng bị đánh bị thương rồi bị đem ra thiêu sống, có
hai Tiểu đội trưởng sau khi bị thiêu chết rồi còn bị treo lên… Quân đội Trung
Quốc đã phát huy tác dụng quan trọng trong sự kiện “6-4”, ổn định giang sơn, đó
là một lần cống hiến của quân đội trong thời kỳ mới.
Một lần
nữa là cuộc đánh trả tự vệ đối với Việt Nam năm 1979 và sau đó là cuộc chiến
đấu tại “Lưỡng Sơn” (tức vùng Pháp Ca Sơn). Đặc biệt là cuộc đánh trả tự vệ
Việt Nam năm 1979, rất nhiều đồng chí chúng ta không nhận thức được ý nghĩa của
cuộc chiến tranh này. Đương thời đã có người nói: chúng ta và người Việt Nam
đánh nhau, bây giờ hy sinh là liệt sĩ, tương lai một khi quan hệ hai nước tốt,
bọn họ sẽ là cái gì? Tôi nói: “vẫn là liệt sĩ” Vì sao vậy? Chúng ta cần xem xét
cuộc chiến này từ góc độ chính trị. Ý nghĩa của chiến tranh luôn luôn ở ngoài
chiến tranh. Cuộc chiến tranh này của đồng chí Đặng Tiểu Bình là đánh để cho
hai người xem, một là Đảng Cộng sản Trung Quốc, hai là bọn Mỹ. Năm 1978 đồng
chí Tiểu Bình được phục hồi, tháng 1 năm 79 thăm Mỹ, tháng 2 đánh nhau. Xem xét
từ chính trị thấy, trận đánh này không đánh không được. Vì sao vậy? Sau khi
đồng chí Tiểu Bình phục hồi ý tưởng chiến lược cải cách mở cửa Trung Quốc đã
hình thành trong tim gan đồng chí, muốn thực hiện ý tưởng chiến lược đó cần
phải xây dựng được quyền uy tuyệt đối trong đảng. Phải đánh một trận. Lúc đó
“lũ bốn người” vừa bị đập tan, những người có tư tưởng cực tả trong đảng chống
Đặng càng chống đường lối và chính sách của ông hơn. Muốn cải cách cần phải có quyền
uy. Biện pháp nhanh nhất để xây dựng quyền uy là đánh nhau….
Người Mỹ
sau khi hao binh tổn tướng tả tơi nhếch nhác rút khỏi Việt Nam, đồng chí Tiểu
Bình đã nói, chúng ta cho Việt Nam bài học. Lúc đó Việt Nam chạy theo ai? Chạy
theo Liên Xô, lúc đó đồng chí Tiểu Bình phát động cuộc đánh trả tự vệ Việt Nam
là đã vạch ranh giới giữa Trung Quốc với cái gọi là mặt trận xã hội chủ nghĩa
Liên Xô… Mười năm trước đồng chí Tiểu Bình đã nhìn rõ điểm này, dùng cuộc chiến
tranh đó để vạch rõ ranh giới với anh… Vừa rồi tôi nói trận đánh này cũng là
đánh vì người Mỹ, có nghĩa là nói để cho người Mỹ hả giận. Có chứng cứ không?
Có. Ngày hôm kia đồng chí Tiểu Bình vừa rời Nhà Trắng Mỹ về thì ngày hôm sau
đánh. Vì sao muốn để người Mỹ hả giận? Người Mỹ vừa vỡ đầu sứt tai chạy khỏi
Việt Nam. Vì sao chúng ta phải làm cho họ hả giận? Thực ra điều đó cũng không
phải vì Mỹ mà là vì chúng ta vì cải cách mở cửa. Trung Quốc muốn cải cách mở
cửa mà không có viện trợ của phương Tây đứng đầu là Mỹ là không có khả năng.
Đánh trận này, viện trợ kinh tế, viện trợ khoa học kỹ thuật, bao gồm cả viện
trợ quân sự và tiền vốn sẽ không ngừng chảy vào Trung Quốc. Thời kỳ trăng mật
Trung Mỹ dài tới 10 năm, mãi đến ngày 6 tháng 4 năm 1989 mới có dấu chấm. Trận
đánh đó mang lại cho Trung Quốc cái gì? Mang lại cho Trung Quốc rất nhiều thời
gian, rất nhiều nguồn vốn, rất nhiều kỹ thuật… Vì thế có thể nói, bước đi đầu
tiên của cải cách mở cửa Trung Quốc đã được cất lên từ cuộc chiến tranh
này… [*]
…
DDD
Nguồn Trung
Quốc báo đạo chu san 28/5/2005 đăng lại trên “Bách gia tranh minh”.
[*] Sau
khi đọc thêm phần trích dịch cần thiết của ông Dương Danh Dy nhằm bổ sung cho
phần dịch của ông Nguyễn Hải Hoành, BVN xin cung cấp thêm một
vài nét về tiểu sử và con người Lưu Á Châu để chúng ta có cái nhìn phía này và
phía khác của họ Lưu cho toàn diện: Lưu Á Châu là một sĩ quan cao cấp quân đội
Trung Quốc nổi tiếng vì có những phát ngôn thẳng thắn, dám công khai phê phán,
góp ý cho nhiều chủ trương chiến lược cấp cao nhất của TQ. Năm 1972 (20 tuổi)
đi học ĐH ngoại ngữ tiếng Anh trong khi đang ở bộ đội. Tốt nghiệp ĐH làm cán sự
Ban Liên lạc Không quân, thăng tiến rất nhanh. 38 tuổi làm Chính ủy một Viện kỹ
thuật binh chủng tăng thiết giáp, 44 tuổi được phong quân hàm Thiếu tướng, 45
tuổi làm Chủ nhiệm chính trị không quân Quân khu Bắc Kinh, 50 tuổi là Chính ủy
không quân Quân khu Thành Đô. 51 tuổi (2003) phong Trung tướng, làm Phó chính
ủy binh chủng Không quân Trung Quốc, từ 25/1/2010 được đề bạt làm Chính ủy
Trường đại học Quốc phòng Trung Quốc, ngang cấp Tư lệnh Đại quân khu.
Con đường
thăng tiến nhanh như diều của Lưu cũng đủ thấy lập trường cơ bản của Lưu là ủng
hộ phe đương quyền lúc bấy giờ do Đặng Tiểu Bình cầm chịch. Được coi là một
tướng lĩnh cấp cao có tinh thần đổi mới tư tưởng chiến lược quân sự, tiếp thu
các trào lưu tư tưởng tiên tiến phương Tây, phê phán sự lạc hậu bảo thủ của văn
hóa truyền thống Trung Quốc, phê phán các tôn giáo Nho, Lão, Phật, Lưu ủng hộ
đường lối cải cách mở cửa, đồng thời cũng ủng hộ triệt để lập trường xử lý vụ
Thiên An Môn và cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam năm 1979 mà TQ gọi là “chiến
tranh phản kích tự vệ” của Đặng Tiểu Bình. Lưu phê phán Cách mạng văn hóa và
các sai lầm của Mao Trạch Đông nhưng vẫn đề cao tư tưởng Mao Trạch Đông. Có
công trong việc bí mật hội đàm với Hàn Quốc để lập quan hệ ngoại giao Trung
Quốc-Hàn Quốc.
Gần đây
Lưu Á Châu phát biểu nhiều về việc Trung Quốc cần cải cách chế độ chính trị,
thực hiện dân chủ hóa chính trị chứ không nên chỉ đơn thuần phát triển kinh tế.
Lưu dám nói những câu như: Nếu một hệ thống không cho người dân được thở không
khí tự do và phát huy sức sáng tạo đến mức tối đa, không lựa chọn đưa vào các
vị trí lãnh đạo những người tốt nhất đại diện cho chế độ và nhân dân, thì hệ
thống ấy sẽ đi đến diệt vong... và dự đoán: Trong 10 năm tới Trung Quốc không
thể tránh khỏi xảy ra sự chuyển đổi từ chính trị của quyền lực sang dân chủ.
Lưu Á
Châu bắt đầu sáng tác văn học từ 1974. Một số tác phẩm đã được giải thưởng. Tác
phẩm chủ yếu: Trần Thắng; Chiến tranh do ác quỷ đạo diễn; Quảng
trường; Cái chết của Hồ Diệu Bang, và nhiều chuyên luận quân
sự, chính trị như Đại quốc sách; Đại chiến lược Trung Quốc
20 năm tới; Bàn về miền Tây;... rất có tiếng vang trong dư
luận. 32 tuổi vào Hội Nhà văn, được bầu làm Ủy viên ban chấp hành Hội.
Lưu Á
Châu có tác phong sống gương mẫu, giản dị, gần quần chúng. Khi xuống các đơn vị
bộ đội đều không ăn nhậu, tối ngủ cùng lính. Khi cấp trên đến làm việc, Lưu
không bao giờ chiêu đãi ăn uống.