16/05/2016

100 Từ vựng tiếng Anh chuyên ngành Kế toán

  1. Accounting entry/ə’kauntiɳ ‘entri/: bút toán
  2. Accrued expenses /iks’pens/—- Chi phí phải trả
  3.  Accumulated /ə’kju:mjuleit/: lũy kế
  4. Advanced payments to suppliers /sə’plaiəs/: Trả trước người bán
  5.  Advances to employees/,emplɔi’i:s/: Tạm ứng
  6. Assets /’æsets/: Tài sản
  7.  Balance sheet/’bæləns ʃi:t/: Bảng cân đối kế toán
  8.  Book-keeper/’buk,ki:pə/: người lập báo cáo (nhân viên kế toán)
  9. Capital construction /’kæpitl kən’strʌkʃn/: xây dựng cơ bản
  10. Cash/kæʃ/: Tiền mặt
  11. Cash at bank: Tiền gửi ngân hàng
  12. Cash in hand: Tiền mặt tại quỹ
  13. Cash in transit: Tiền đang chuyển
  14. Check and take over: nghiệm thu
  15. Construction in progress/progress/:  Chi phí xây dựng cơ bản dở dang
  16. Cost of goods sold: Giá vốn bán hàng
  17. Current assets/’kʌrənt ‘æsets/:  Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn
  18. Current portion of long-term liabilities: Nợ dài hạn đến hạn trả
  19. Deferred expenses/iks’pens/: Chi phí chờ kết chuyển
  20. Deferred revenue/’revinju:/ —- Người mua trả tiền trước
  21. Depreciation of fixed assets/di,pri:ʃi’eiʃn/, /fikst/, /’æsets/: Hao mòn luỹ kế tài sản cố định hữu hình
  22. Depreciation of intangible fixed assets/di,pri:ʃi’eiʃn/, /in’tændʤəbl/:  Hoa mòn luỹ kế tài sản cố định vô hình
  23. Depreciation of leased fixed assets/di,pri:ʃi’eiʃn/:  Hao mòn luỹ kế tài sản cố định thuê tài chính
  24. Equity and funds/’ekwiti/, /fʌnds/:  Vốn và quỹ
  25. Exchange rate differences/iks’tʃeindʤ/, /reit/, /’difrəns/:  Chênh lệch tỷ giá
  26. Expense mandate/iks’pens ‘mændeit/: ủy nhiệm chi
  27. Expenses for financial activities/iks’pens/, /fai’nænʃəl/, /æk’tivitis/: Chi phí hoạt động tài chính
  28. Extraordinary expenses/iks’trɔ:dnri/, /iks’pens/: Chi phí bất thường
  29. Extraordinary income/iks’trɔ:dnri/, /’inkəm/: Thu nhập bất thường
  30. Extraordinary profit/iks’trɔ:dnri/, /’inkəm/: Lợi nhuận bất thường
  31. Figures in/’figəs/: millions VND:  Đơn vị tính: triệu đồng
  32. Financial ratios/fai’nænʃəl ‘reiʃiou/:  Chỉ số tài chính
  33. Financials/fai’nænʃəls/: Tài chính
  34. Finished goods: Thành phẩm tồn kho
  35. Fixed asset costs: Nguyên giá tài sản cố định hữu hình
  36. Fixed assets: Tài sản cố định
  37. General and administrative expenses/’dʤenərəl/, /əd’ministrətiv/:  Chi phí quản lý doanh nghiệp
  38. Goods in transit for sale:  Hàng gửi đi bán
  39. Gross profit/grous/, /profit/:  Lợi nhuận tổng
  40. Gross revenue/grous/, /’revinju:/: Doanh thu tổng
  41. Income from financial activities: Thu nhập hoạt động tài chính
  42. Instruments and tools/’instrumənt/: Công cụ, dụng cụ trong kho
  43. Intangible fixed asset costs/in’tændʤəbl/:  Nguyên giá tài sản cố định vô hình
  44. Intangible fixed assets/in’tændʤəbl/: Tài sản cố định vô hình
  45. Intra-company payables/’peiəbls/:  Phải trả các đơn vị nội bộ
  46. Inventory/in’ventri/:  Hàng tồn kho
  47. Investment and development fund:  Quỹ đầu tư phát triển
  48. Itemize/’aitemaiz/:  Mở tiểu khoản
  49. Leased fixed asset costs:  Nguyên giá tài sản cố định thuê tài chính
  50. Leased fixed assets:  Tài sản cố định thuê tài chính
  51. Liabilities/,laiə’biliti/:  Nợ phải trả
  52. Long-term borrowings: Vay dài hạn
  53. Long-term financial assets:  Các khoản đầu tư tài chính dài hạn
  54. Long-term liabilities/,laiə’bilitis/: Nợ dài hạn
  55. Long-term mortgages/’mɔ:gidʒ/, collateral /kɔ’lætərəl/, deposits /di’pɔzit/: Các khoản thế chấp, ký cược, ký quỹ dài hạn
  56. Long-term security investments:  Đầu tư chứng khoán dài hạn
  57. Merchandise inventory/’mə:tʃəndaiz/, /in’ventri/:  Hàng hoá tồn kho
  58. Net profit: Lợi nhuận thuần
  59. Net revenue/’revinju:/:  Doanh thu thuần
  60. Non-business expenditure source/iks’penditʃə/ :  Nguồn kinh phí sự nghiệp
  61. Non-business expenditures/iks’penditʃə/:  Chi sự nghiệp
  62. Non-current assets /’æsets/: Tài sản cố định và đầu tư dài hạn
  63. Operating profit: Lợi nhuận từ hoạt động SXKD
  64. Other current assets: Tài sản lưu động khác
  65. Other funds: Nguồn kinh phí, quỹ khác
  66. Other long-term liabilities: Nợ dài hạn khác
  67. Other payables: Nợ khác
  68. Other receivables/ri’si:vəbls/: Các khoản phải thu khác
  69. Other short-term investments/in’vestmənts/: Đầu tư ngắn hạn khác
  70. Owners’ equity: Nguồn vốn chủ sở hữu
  71. Payables to employees: Phải trả công nhân viên
  72. Prepaid expenses/iks’pens/: Chi phí trả trước
  73. Profit before taxes: Lợi nhuận trước thuế
  74. Profit from financial activities/fai’nænʃəl/, /æk’tivitis/: Lợi nhuận từ hoạt động tài chính
  75. Provision for devaluation of stocks/,di:vælju’eiʃn/: Dự phòng giảm giá hàng tồn kho
  76. Purchased goods in transit: Hàng mua đang đi trên đường
  77. Raw materials/rɔ: mə’tiəriəl/Nguyên liệu, vật liệu tồn kho
  78. Receivables/ri’si:vəbls/:  Các khoản phải thu
  79. Receivables from customers:  Phải thu của khách hàng
  80. Reconciliation/,rekəsili’eiʃn/: Đối chiếu
  81. Reserve fund/ri’zə:v/, /fʌnd/: Quỹ dự trữ
  82. Retained earnings: Lợi nhuận chưa phân phối
  83. Revenue deductions/’revinju:/, /di’dʌkʃns/: Các khoản giảm trừ
  84. Sales expenses:  Chi phí bán hàng
  85. Sales rebates/ri’beits/:  Giảm giá bán hàng
  86. Sales returns/ri’tə:n/ : Hàng bán bị trả lại
  87. Short-term borrowings:  Vay ngắn hạn
  88. Short-term investments: Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn
  89. Short-term liabilities: Nợ ngắn hạn
  90. Short-term mortgages, collateral, deposits: Các khoản thế chấp, ký cược, ký quỹ ngắn hạn
  91. Short-term security investments: Đầu tư chứng khoán ngắn hạn
  92. Stockholders’ equity: Nguồn vốn kinh doanh
  93. Surplus of assets awaiting resolution/’sə:pləs/: Tài sản thừa chờ xử lý
  94. Tangible fixed assets/’tændʤəbl/: Tài sản cố định hữu hình
  95. Taxes and other payables to the State budget/’peiəbl/, /’bʌdʤit/: Thuế và các khoản phải nộp nhà nước
  96. Total assets:  Tổng cộng tài sản
  97. Total liabilities and owners’ equity: Tổng cộng nguồn vốn
  98. Trade creditors/’kreditəs/:  Phải trả cho người bán
  99. Treasury stock/’treʤəri stɔk/:  Cổ phiếu quỹ
  100. Credit Account: Tài khoản ghi Nợ

Ý Nghĩa Lễ Tắm Phật

 

Nguồn gốc của lễ tắm Phật bắt nguồn từ sự tích đức Phật đản sinh, Tương truyền khi Phật giáng sinh, có chín vị rồng tới phun nước tắm rửa cho Ngài. Cùng với nước là hương hoa do các vị trời rơi xuống làm thanh tịnh thân Phật. Về sau Ấn Ðộ, các tự viện thường hay để tượng một vị Phật sơ sinh, mỗi ngày tín đồ có thể tới viếng chùa và lấy nước rưới lên mình Phật như là một hành động tẩy trừ sự ô nhiễm nơi thân Phật, cũng như thân mình. Về sau không rõ đích xác nguyên do gì truyền thống này lần lần cải biến.
Ở Trung Hoa, vào đời Ðường, đời Tống, tắm Phật là một pháp hội rất lông trọng, mỗi năm được tổ chức một lần vào ngày Phật đản sinh. Nhất là ở Nhật Bản, vào khoảng năm 840, niên hiệu Thừa Hòa thứ bảy trở về sau, mỗi năm nhằm vào ngày tám tháng tư lễ tắm Phật được cử hành vô cùng trang nghiêm trong hoàng cung.
Vì vậy, ở Trung Hoa, Nhật Bản, Ðại Hàn, Việt Nam, lễ Phật đản là một ngày vô cùng quan trọng được gọi là Phật Sinh Hội, Dục Phật Hội, Quán Phật Hội, đều là chỉ vào nghi thức tắm Phật cử hành trong ngày ấy. Lý do nghi thức tắm Phật được tín đồ Phật giáo tôn trọng và cung kính thực hành hàng năm vì nó là một phương pháp rất hay để người tu phản tỉnh.
Phương pháp tắm Phật thì rất giản dị: bạn lên trước tượng vị Phật sơ sinh đặt giữa một bồn nước, thông thường là nước pha trộn bởi các vị hương thơm như nước thơm chiên đàn hương bạch đàn hương, uất đàn hương, long não, xạ hương, tử chiên đàn, đinh hương, v.v...
Bạn quỳ xuống đảnh lễ ba lạy để bày tỏ lòng thành kính và khiêm cung đối với vị Phật sơ sinh. Bạn cũng có thể cúng dường hương hoa, phẩm vật, để bày tỏ lòng kính mộ của mình. Xong bạn dùng một cái muỗng múc nước hương thơm, từ từ rưới lên thân mình Phật ba lần. Mỗi khi tắm Phật như vậy, bạn cần quán tưởng rằng thân Phật cũng ví như là thân tâm của mình vậy. Ba muỗng nước rưới lên thân Phật, sẽ gội rửa ba nghiệp ác do thân, miệng và ý của mình tạo ra. Nếu nước hương thơm là thứ dùng để tắm thân Phật, thì Phật pháp là thứ mà bạn phải dùng để tẩy rửa cấu bẩn của hành động, suy nghĩ và lời nói.
Nhưng điều tuyệt diệu là vị Phật sơ sinh trước kia được tắm, vốn là một em bé thanh tịnh vô nhiễm; sau khi tắm xong, bụi trần gội sạch, em bé đó trở về lại với sự vô nhiễm thanh tịnh sẵn có.
Cũng vậy, hành động, lời nói và suy nghĩ của kẻ phàm chúng ta trãi qua bao kiếp, tích tập vô số thói hư tật xấu, tà kiến ác hạnh, ngu si chấp trước, khiến ta ở trong vòng mê mờ vẩn đục; song bản tánh xưa nay của chúng ta chưa hề bị ô nhiễm, hệt như vị Phật sơ sinh thanh tịnh vô cấu. Nếu dùng Phật Pháp như nước tẩy, tắm gội tam nghiệp, tức là nếu ta sửa đổi thói hư tật xấu, xả trừ chấp trước, minh tâm kiến tánh, thì ta sẽ khôi phục lại được thể tánh thanh tịnh sẵn có xưa nay.
Bởi vậy điều then chốt trong lễ tắm Phật là ta phải hết sức thành tâm, tụ thần chú ý, tâm niệm sáng suốt, thì nghi thức tắm Phật sẽ là một phương tiện xảo thù thắng để ta tiêu trừ nghiệp chướng chấp trước.
Cách tắm Phật thì tuỳ theo quan niệm của từng nơi, có nơi dội từ đỉnh đầu xuống, có nơi dội từ vai. Điều này không quy định, nhưng thông thường thì dội từ vai vì sự tôn kính Đức Phật nên không dám dội từ đỉnh đầu.
Ðể giúp cho sự tập trung chuyên nhất của thân khẩu ý, đồng thời biến sự tắm Phật thành sự tẩy trừ nghiệp chướng, chư Tổ khi xưa đã khuyên dạy ta đọc câu chú sau đây: Án, đi sa đi sa, xăng che, sô pô hô. Với câu chú này, nếu ta thành tâm tụng niệm sẽ làm tâm ta không khởi vọng tưởng, dẹp trừ phiền não, và do đó tự nhiên an tịnh siêu nhiên.

Bồ Ðề Hải


12/05/2016

Tìm hiểu về A Tu La

Để giúp các bạn đồng đạo hiểu thêm về kinh Phật, mình xin cung cấp thông tin về A Tu La - một thành viên thường xuất hiện nghe Phật giảng Kinh.

Vị trí của A Tu La trong các Cõi:



Theo Từ điển Phật học Huệ Quang (tr.56), A-tu-la (Phạn ngữ Asura), Hán ngữ còn phiên âm A-tác-la, A-tô-la, A-tố-lạc; Hán ngữ dịch nghĩa là Phi thiên, Phi đồng loại, Bất đoan chính, là một loại thần (1 trong 8 bộ chúng) hiếu chiến, bị xem là ác thần và thường tranh đấu với trời Đế Thích.
Về hình dạng, theo kinh Tăng nhất A-hàm 3, thân hình của A-tu-la cao 84.000 do tuần. Ngoài ra, có thuyết cho rằng A-tu-la có 9 đầu, 1.000 mắt, 990 tay, 6 chân, miệng phun lửa, thân to gấp 4 lần núi Tu-di. Thuyết khác nói A-tu-la có 3 mặt màu xanh đen, giận dữ, lõa hình và có 6 cánh tay. A-tu-la nam có sức mạnh và rất hiếu chiến. Ngược lại, A-tu-la nữ thì rất xinh đẹp, nên A-tu-la nam với Thiên nam thường xuyên đánh nhau để tranh giành các A-tu-la nữ.
Về chủng loại, theo kinh Lăng Nghiêm, A-tu-la có 4 chủng loại: Noãn sinh, thai sinh, thấp sinh và hóa sinh.
1. A-tu-la sinh ra từ trứng (noãn sinh), thuộc về quỷ thần, nhờ phúc giữ gìn Chính pháp nên có thần thông, ăn ở trong hư không.
2. A-tu-la sinh ra từ bào thai (thai sinh), thuộc về loài người, vốn ở cõi trời nhưng do kém đức nên bị đọa.
3. A-tu-la sinh ra từ nơi ẩm ướt (thấp sinh), thuộc về súc sinh. Loại A-tu-la này sống trong biển cả.
4. A-tu-la do biến hóa sinh ra (hóa sinh), thuộc về loài trời. Đây là loài A-tu-la giữ gìn thế giới, có thế lực mạnh mẽ, không sợ sệt, có khả năng tranh đấu với trời Phạm vương, Đế Thích và Tứ thiên vương.
Về nghiệp nhân, tuy có phúc báo nhưng do vẫn nặng nghiệp sân, mạn và nghi nên sinh vào loài A-tu-la. Những ai thường giận dữ, nóng nảy, ưa gây gổ, hung hãn và hiếu chiến; cống cao ngã mạn, tự cao tự đại, khinh khi coi rẻ người khác; luôn nghi ngờ xét nét mọi người, mọi việc, không có lòng tin; là nghiệp nhân tái sinh vào A-tu-la.
Như vậy, A-tu-la là loài thần có phúc báo hơn loài người nhưng kém phúc báo hơn chư Thiên. Tên gọi Phi thiên có nghĩa là không phải trời, chỉ có một số phúc báo gần bằng chư Thiên nhưng không hoàn thiện như họ. Bất đoan chính là ngoại hình hung tợn, tâm địa bất chính, có nhiều tật xấu.
Loài A-tu-la không thọ khổ như những chúng sinh trong địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh nhưng chịu nhiều phiền não phẫn nộ tranh đấu. Ngoại trừ loài A-tu-la (noãn sinh) biết hộ trì Chính pháp, ủng hộ người tu còn các A-tu-la khác chỉ lo mải miết đánh nhau, gây chiến tạo binh đao khói lửa triền miên nên rất thống khổ.
Trong kinh điển tiếng Việt vẫn giữ nguyên từ A-tu-la bởi từ này vốn đa nghĩa nên không dịch, chỉ phiên âm mà thôi. Có thể tạm dùng từ Thần hay Phi thiên để gọi loài này.


08/05/2016

Hình ảnh hiếm về Đông Dương trước năm 1880

Hình ảnh được trích từ bộ sưu tập ảnh "Chuyến đi từ Ai Cập tới Đông Dương" (Voyage de l'Égypte à l'Indochine) của hai nhà nhiếp ảnh Hippolyte Arnoux và Emile Gsell, xuất bản năm 1880. Bản điện tử được giới thiệu trên trang Gallica.bnf.fr.
Phố Hàng Chiếu ở Hà Nội.
Toàn cảnh thành Hà Nội .
Cửa Bắc thành Hà Nội.
Khu nhượng địa của Pháp tại Hải Phòng trong quá trình xây dựng.
Sông ở Nam Định.
Chùa Báo Ân , Hà Nội.
Làng Gò Vắp, đặt tên dựa theo vùng đất mọc nhiều cây vắp, gần Sài Gòn.
Thác Trị An trên sông Đồng Nai.
Rừng rậm bên sông Sài Gòn.
Xe bò trong rừng cây dầu, Nam Kỳ .
Thân cây bằng lăng cổ thụ bị đốn hạ ở rừng Phước Linh.
Làng ven sông ở Nam Kỳ khi thủy triều xuống.
Toàn cảnh sông Sài Gòn và rạch Bến Nghé nhìn từ nóc Nhà Rồng.
Một ngôi làng ở Nam Kỳ.
Bờ sông Sài Gòn.
Một góc Phnom Penh, Campuchia.
Xóm làng ven sông ở Nam Kỳ.
Đồn bốt của Pháp ở Vĩnh Long.
Bến thuyền ở Sa Đéc, Đồng Tháp.
Sông nước Vĩnh Long.
Lò vôi của người Hoa ở Chợ Lớn.
Chợ ven sông ở Mỹ Tho.
Chùa của người Hoa ở Chợ Lớn.
Dinh Toàn quyền, Sài Gòn.
Khu phố Tây ở Sài Gòn.
Doanh trại trong thành Sài Gòn.
Khu vực cảng Sài Gòn.
Một góc khác của cảng Sài Gòn.
Xóm chài ở Nam Kỳ.
Những con thuyền đã xếp buồm nằm trên bến, Nam Kỳ.
Bến cảng ở Bắc Kỳ .
Khung cảnh Tây Nam Bộ.

03/05/2016

Phân biệt Tam Thất Bắc và Nam

Mình vừa đi vùng Hoàng Liêm Sơn tỉnh Lào Kay về, có tìm hiểu thực địa và học hỏi đồng bào H'Mong và Dao đỏ về cây Tam thất, thấy nhiều điều thú vị, viết ra đây mong cung cấp cho các bạn những thông tin tối thiểu về Tam thất để mong mọi người không bị lạm dụng.

Hiện nay trên thị trường, có nhiều địa chỉ bán củ tam thất nam nhưng với giá rất cao, có những nơi bán đến cả triệu đồng, khiến người dùng tưởng đây là vị thuốc bổ (tam thất).

Tam thất bắc  tam thất nam là hai loại dược liệu có tên gọi gần giống nhau nhưng khác nhau hoàn toàn về đặc điểm thực vật và tác dụng chữa bệnh.
Hiện nay trên thị trường, có nhiều địa chỉ bán củ tam thất nam nhưng với giá rất cao, có những nơi bán đến cả triệu đồng, khiến người dùng tưởng đây là vị thuốc bổ (tam thất). Nguy hiểm hơn, khi mua bột tam thất nghiền sẵn, rất nhiều nơi quảng cáo bán bột tam thất bắc, nhưng bên trong chỉ toàn bột của củ tam thất nam loại rẻ tiền. Khiến ta mua nhầm phải một loại cây thuốc với giá quá đắt lại không có giá trị.
Ở đây mình xin trình bày những kiến thức về 2 loại cây thuốc này.
Tam thất bắc còn gọi là sâm tam thất, điền thất nhân sâm, kim bất hoán (vàng cũng không đổi được), tên tiếng Anh là Panax pseudoginseng, thuộc họ Nhân sâm (họ cuồng cuồng) (Araliaceae). Loài này được (Burkill) F.H.Chen miêu tả khoa học đầu tiên năm 1975. Tam thất là tên gọi từ tiếng Trung san qi (三七) hoặc điền thất là tên gọi có nguồn gốc từ 田七.
Tam thất,cây tam thất,tam thất bắc,tam thất nam,sâm tam thất,điền thất nhân sâm,kim bất hoán,Panax pseudoginseng,tam thất gừng,khương tam thất,ngải năm ông,thổ tam thất,bạch truật nam,Stahlianthus thorelii,zingiber ginseng,họ nhân sâm,Araliaceae,họ cuồng cuồng,họ gừng,Zingiberaceae

Cây tam thất bắc

Cây thân nhỏ, sống lâu năm. Cây cao khoảng 30 - 60 cm, thân mọc đứng, vỏ cây không có lông, có rãnh dọc, lá mọc vòng 3 - 4 lá một. Lá kép kiểu bàn tay xòe. Tam thất trồng từ 3 đến 7 năm mới thu hoạch rễ củ để làm thuốc.
Tam thất,cây tam thất,tam thất bắc,tam thất nam,sâm tam thất,điền thất nhân sâm,kim bất hoán,Panax pseudoginseng,tam thất gừng,khương tam thất,ngải năm ông,thổ tam thất,bạch truật nam,Stahlianthus thorelii,zingiber ginseng,họ nhân sâm,Araliaceae,họ cuồng cuồng,họ gừng,Zingiberaceae
Củ tam thất bắc

Phần lớn củ Tam thất bắc đều có hình con quay hay hình thoi, độ dài trung bình là khoảng 3cm, đường kính trung bình 1.5cm, không phân nhánh, đầu củ sần sùi, thành nhiều mấu, có nhiều vết vằn dọc theo hết củ, vỏ ngoài cứng mầu xám hoặc xám đen (dạng sống) sau chuyển màu đen (dạng sơ chế), ruột đặc màu xám, chắc nặng, vị ngọt nhạt, hơi đắng, mùi thơm nhẹ. Cắt ngang củ thì sẽ thấy được phần thịt màu xám xanh. Nếm một tý sẽ có cảm giác vị đắng hơi ngọt kèm theo một ít mùi thơm.
Tam thất,cây tam thất,tam thất bắc,tam thất nam,sâm tam thất,điền thất nhân sâm,kim bất hoán,Panax pseudoginseng,tam thất gừng,khương tam thất,ngải năm ông,thổ tam thất,bạch truật nam,Stahlianthus thorelii,zingiber ginseng,họ nhân sâm,Araliaceae,họ cuồng cuồng,họ gừng,Zingiberaceae

Củ tam thất bắc


Sơ chế tam thất
Để đảm bảo hiệu quả cao trong chữa bệnh, trước hết phải rửa thật nhanh củ tam thất bằng nước đun sôi để nguội vài lần, không cho nước kịp ngấm vào ruột. Phơi nắng hoặc sấy ở nhiệt độ 50 - 60 độ C. Tuyệt đối không rang tam thất trực tiếp trên chảo hoặc tẩm dược liệu với mỡ gà rồi phơi, sấy khô. Khi dùng mới thái lát hoặc tán bột, dùng đến đâu làm đến đó.
Tam thất,cây tam thất,tam thất bắc,tam thất nam,sâm tam thất,điền thất nhân sâm,kim bất hoán,Panax pseudoginseng,tam thất gừng,khương tam thất,ngải năm ông,thổ tam thất,bạch truật nam,Stahlianthus thorelii,zingiber ginseng,họ nhân sâm,Araliaceae,họ cuồng cuồng,họ gừng,Zingiberaceae

Củ tam thất bắc

Tác dụng của tam thất
- Tam thất có tác dụng bổ dưỡng: tăng lực, tăng sức đề kháng, điều hòa miễn dịch.
- Kích thích tâm thần, chống trầm uất.
- Bảo vệ tim chống lại những tác nhân gây loạn nhịp. Chất noto ginsenosid trong tam thất có tác dụng giãn mạch, ngăn ngừa xơ vữa động mạch, tăng khả năng chịu đựng của cơ thể khi bị thiếu ôxy.
- Cầm máu, tiêu máu, tiêu sưng: Chữa các trường hợp chảy máu do chấn thương (kể cả nội tạng), tiêu máu ứ do phẫu thuật, va dập gây bầm tím phần mềm. Bột tam thất rắc giúp cầm máu nhanh các vết thương.
- Giảm sinh khối u, do đó làm giảm tốc độ phát triển u, hạn chế sự di căn của tế bào ung thư, kéo dài cuộc sống cho bệnh nhân ung thư.
Tam thất có vị đắng ngọt, tính ấm, vào các kinh can, thận. Có tác dụng hoạt huyết, bổ huyết, cầm máu, tiêu ứ huyết, tiêu sưng, giảm đau.

Cách dùng tam thất
- Dùng sống dưới dạng bột, dạng lát cắt ngậm, nhai, hoặc mài với nước uống
- Dùng chín trong những trường hợp thiếu máu, suy nhược, phụ nữ sau khi đẻ.

Liều lượng
Dùng cầm máu, giảm đau nhanh, mỗi ngày uống 10 -  20 g, chia làm 4 - 5 lần. Để bổ dưỡng, mỗi ngày người lớn 5 - 6 g, chia hai lần. Trẻ em tuỳ tuổi dùng bằng 1/3 - 1/2 liều người lớn.

Một số bài thuốc có tam thất bắc:
- Chữa băng huyết. Băng huyết là một hiện tượng vô cùng nguy hiểm ở phụ nữ sau sinh. Biến chứng tiền sản này rất có thể gây ảnh hưởng nhiều tới sức khỏe sản phụ trong tương lai thậm chí có thể dẫn đến tử vong. Ngoài cách sắc thuốc uống, bạn cũng có thể nghiền thành bột và pha nước sôi để uống.
- Chữa các vết bầm tím do ứ máu. Tích tụ máu là một hiện tượng vô cùng nguy hiểm. Khối máu tích tụ có thể nhỏ. Tuy nhiên, nếu ở kích thước đủ lớn chúng có thể chèn ép các dây thần kinh hay hạn chế sự hoạt động của các cơ quan xung. Việc lấy máu tụ bằng phẫu thuật, hút hay các biện pháp Tây y rất phức tạp và có độ nguy hiểm cao. Bạn có thể chữa việc máu bầm hay cả những vết máu ứ bằng cách uống bột tam hất 3 lần/1 ngày mỗi lần từ 2-3g. Mỗi lần cách đều nhau từ 6-8 giờ.
Tam thất Bắc có tác dụng tốt nhất khi uống với nước ấm 4 phần.
- Chữa đau thắt lưng. Bạn nên uống 4g  1 ngày và chia làm 2 lần với nước ấm. Ngoài việc chữa đau thắt lưng, tam thất còn có tác dụng rất tốt trong việc bồi bổ sức khỏe cho người mới ốm dậy, người bị suy nhược thần kinh hay phụ nữ sau sinh.
- Chữa thổ huyết, băng huyết, rong kinh, chảy máu cam, máu hôi khi đẻ, kiết lỵ ra máu. Những căn bệnh trên đều là những căn bệnh nguy hiểm liên quan đến máu. Để chữa những căn bệnh này bạn có thể uống sống tam thất Bắc dưới dạng bột (mỗi ngày 20g).
- Để cầm máu bạn cũng có thể rắc trực tiếp tam thất vào vết thương.
- Đau thắt ngực do bệnh mạch vành. Đau thắt ngực là chứng bệnh phổ biến ở người cao tuổi. Để giảm tình trạng này bạn có thể uống hoặc nấu cháo 20g tam thất trong vài tháng. Tình trạng đau thắt ngực chắc chắn sẽ được cải thiện.
- Giảm tốc độ phát triển của khối u và sự di căn của các tế bào ung thư. Một số trường hợp mắc các loại ung thư như ung thư phổi, ung thư vú, ung thư tuyến tiền liệt, ung thư phổi, ung thư vú, ung thư máu đều có kết quả tích cực khi điều trị kết hợp với Tam thất Bắc.
- Chữa thống kinh (đau bụng trước kỳ kinh): Ngày uống 5 g bột tam thất, uống 1 lần, chiêu với cháo loãng hoặc nước ấm.
- Phòng và chữa đau thắt ngực: Ngày uống 3-6 g bột tam thất (1 lần), chiêu với nước ấm.
- Chữa thấp tim: Ngày uống 3 g bột tam thất, chia 3 lần (cách nhau 6-8 giờ), chiêu với nước ấm. Dùng trong 30 ngày.
- Chữa các vết bầm tím do ứ máu (kể cả ứ máu trong mắt): Ngày uống 3 lần bột tam thất, mỗi lần từ 2-3 g, cách nhau 6-8 giờ, chiêu với nước ấm.
- Chữa đau thắt lưng: Bột tam thất và bột hồng nhân sâm lượng bằng nhau trộn đều, ngày uống 4 g, chia 2 lần (cách nhau 12 giờ), chiêu với nước ấm. Thuốc cũng có tác dụng bồi bổ sức khỏe cho người suy nhược thần kinh, phụ nữ sau sinh, người mới ốm dậy.
- Chữa bạch cầu cấp và mạn tính: Đương quy 15-30 g, xuyên khung 15-30 g, xích thược 15-20 g, hồng hoa 8-10 g, tam thất 6 g, sắc uống.
Ngoài những phương thuốc trên còn có rất nhiều cách chữa trị khác lấy tam thất Bắc là chủ đạo. Tuy nhiên, hãy chú ý rằng tam thất đặc biệt tốt cho máu và các bệnh về máu. Nếu có vấn đề về đường máu, bạn hãy tìm đến tam thất như một dược liệu bổ dưỡng.

2. Tam thất nam
Tam thất nam còn gọi là tam thất gừng, khương tam thất, ngải năm ông, tên khoa học: Stahlianthus thorelii, tên tiếng Anh: zingiber ginseng, là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng (Zingiberaceae). Loài này được Gagnep. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1907.
Tam thất,cây tam thất,tam thất bắc,tam thất nam,sâm tam thất,điền thất nhân sâm,kim bất hoán,Panax pseudoginseng,tam thất gừng,khương tam thất,ngải năm ông,thổ tam thất,bạch truật nam,Stahlianthus thorelii,zingiber ginseng,họ nhân sâm,Araliaceae,họ cuồng cuồng,họ gừng,Zingiberaceae

Cây tam thất gừng

Cây thảo không có thân, có thân rễ dày bao bởi những vết của lá đã rụng thường phân nhánh mang nhiều củ nhỏ bằng quả trứng chim xếp thành chuỗi, có rễ con dạng sợi. Lá mọc rời, 3-5 cái, có cuống dài, xuất hiện sau khi cây ra hoa. Phiến lá thuôn dài, chóp nhọn, màu lục, lục pha nâu hay nâu tím, mép nguyên, lượn sóng. Cụm hoa ở gốc, nằm ở bên lá; cuống hoa dài 6-8cm, ở phía cuối có một lá bắc hình ống, bao lấy hoa. Hoa 4-5 cái, có lá bắc và lá bắc con dạng màng. Tràng hoa màu trắng, họng vàng. Bầu nhẵn, chia 3 ô.
Tam thất,cây tam thất,tam thất bắc,tam thất nam,sâm tam thất,điền thất nhân sâm,kim bất hoán,Panax pseudoginseng,tam thất gừng,khương tam thất,ngải năm ông,thổ tam thất,bạch truật nam,Stahlianthus thorelii,zingiber ginseng,họ nhân sâm,Araliaceae,họ cuồng cuồng,họ gừng,Zingiberaceae

Cây tam thất gừng

Tam thất,cây tam thất,tam thất bắc,tam thất nam,sâm tam thất,điền thất nhân sâm,kim bất hoán,Panax pseudoginseng,tam thất gừng,khương tam thất,ngải năm ông,thổ tam thất,bạch truật nam,Stahlianthus thorelii,zingiber ginseng,họ nhân sâm,Araliaceae,họ cuồng cuồng,họ gừng,Zingiberaceae

Củ tam thất gừng

Củ Tam thất gừng có hình trứng hoặc hình trong thuôn một bên.
Phần vỏ có màu trắng vàng. Dùng dao cắt vào bên trong ta thấy có màu trắng ngà. Nếm một ít thì cảm thấy cay nóng và có mùi như gừng.

Nơi sống và thu hái
Loài của Nam Trung Quốc, Việt Nam, Lào. Ở nước ta, cây mọc hoang ở chỗ ẩm mát, ven bờ suối, hốc khe. Thường được trồng lấy củ làm thuốc. Mặt ngoài của củ có vằn ngang màu đen, trong có chất bột trắng ngà như màu của củ Tam thất.
Tính vị, tác dụng
Vị cay, hơi đắng, tính ấm; có tác dụng tán ứ, tiêu thũng, thông kinh, hoạt huyết, chỉ thống.
Công dụng, chỉ định và phối hợp
Thường được dùng chữa:
1. Ðòn ngã sưng đau, phong thấp đau nhức xương;
2. Thổ huyết, chảy máu cam, kinh nguyệt quá nhiều;
3. Trùng độc cắn và rắn cắn. Cũng dùng chữa hành kinh chậm kỳ, máu xấu lởn vởn không tươi, ăn kém tiêu, nôn đầy. Liều dùng 4-8g, sắc nước hoặc ngâm rượu uống. Dùng ngoài lấy củ tán bột rắc, đắp.
Đơn thuốc:
Chữa kinh nguyệt không đều, loạn kỳ, vòng kinh dài ngắn không chừng, người gầy da xanh sạm, hoặc sau khi sinh rong huyết kéo dài, kém ăn, chóng mặt, đau đầu mỏi mệt. Tam thất gừng, Hồi đầu, hai vị bằng nhau, tán nhỏ, dùng mỗi lần 2-3g, ngày uống 2-3 lần, với nước chín, vào khoảng giữa buổi, và trước khi đi ngủ. Uống 5-7 ngày liền (Lê Trần Ðức).
Ghi chú: ở Trung Quốc, người ta sử dụng một loài khác gọi là Tam thất khương - Stahlianthus involucratus (King ex Baker) Craib., mà rễ có vị cay, tính hàn; có tác dụng hoạt huyết tán ứ, tiêu sưng giảm đau, dùng trị thổ huyết, ói ra máu, kinh nguyệt quá nhiều và đòn ngã tổn thương.