Viết và sưu tầm từ nhiều nguồn.
Nhiều
người trong các bạn đã được nghe, nhắc hoặc tìm hiểu về 3 vị này, nhưng nếu ta
hợp chung lại các thông tin có được sẽ thấy nhiều điều thú vị
Ba
vị Thánh Giả : Thích Ca Mâu Ni – Lão Tử - Khổng Tử giáng sinh vào cùng một thời đại, ấy là
sự trùng hợp của lịch sử hay là Ý Trời đã an bài như vậy?
Thật trùng
hợp ở chỗ, ngày tháng ba vị ấy ra đời chênh nhau không quá 20 năm. Theo góc
nhìn lịch sử, thì 3 vị ấy là người của cùng một thời đại.
Năm 571
Trước công nguyên, ngày 15 tháng 2 Lão Tử giáng sinh tại nước Sở, huyện Khổ
(nay là huyện Lộc Ấp, Hà Nam).
5 năm sau,
ngày 8 tháng 4 năm 566 Trước công nguyên Phật Thích Ca Mâu Ni giáng sinh ở Kim
Ni Bạc Nhĩ.
15 năm
sau, vào ngày 27 tháng 8 năm 551 Trước công nguyên, Khổng Tử ra đời tại Khúc
Phụ, tỉnh Sơn Đông.
LÃO TỬ
Cái tên "Lão
Tử" là danh xưng kính trọng. Lão (老) có nghĩa "đáng tôn kính" hay
"già". Tử (子) nghĩa là thầy. Vì thế, "Lão Tử" có thể được dịch tạm
thành "bậc thầy cao tuổi".
Tên riêng Lão Tử có
thể là Lý Nhĩ (李耳), tên tự của ông có thể là Bá Dương (伯陽), tên thụy của ông là
Đam, (聃) có nghĩa là "Bí
ẩn".
Lão Tử cũng được gọi
là:
· Lão Đam (老聃)
· Lão Quân (老聃)
· Lý Lão Quân (李老君)
· Thái Thượng Lão Quân (太上老君)
· Thái Thượng Đạo Tổ
· Lão Tử Đạo Quân (老子道君)
· Huyền Đô đại lão gia
Sự tồn tại
của ông trong lịch sử hiện vẫn đang còn được tranh cãi. Ông là người sáng lập ra Lão giáo với tư tưởng phổ quát là Vô
vi.
Ngày 1/9/478 trước
công nguyên, Lão Tử 93 tuổi đi về nước Tần. Lúc đi qua cửa Hàm Cốc, quan Lệnh
tên là Doãn Hỷ ở đó xem bói đã biết trước là sẽ có một Thần nhân đi qua đây,
bèn sai người quét dọn sạch sẽ 40 dặm đường để nghênh đón. Quả nhiên Lão Tử
tới. Doãn Hỷ nói:“Tiên sinh Ngài muốn ẩn cư, sau này không còn
được nghe Ngài dạy bảo nữa, kính xin tiên sinh viết sách để truyền lại cho hậu
thế!”.
Lão Tử tại Trung
Nguyên chưa từng truyền thụ lại điều gì. Ông biết Doãn Hỷ trong mệnh đã định là
sẽ đắc Đạo, bèn tạm dừng lại nơi này một thời gian ngắn, viết lại cuốn sách nổi
tiếng ngàn đời: “Đạo Đức kinh”. Sau đó, Lão Tử ra
khỏi cửa Hàm Cốc đi về phía Tây, vượt qua vùng Lưu Sa… Lưu Sa là chỉ vùng sa
mạc lớn ở Tân Cương. Không ai biết cuối cùng ông đã đi về nơi đâu.
Tác phẩm của Lão Tử,
cuốn Đạo Đức Kinh, là một trong những cuốn chuyên luận đáng chú ý nhất
trong lịch sử triết học Trung Quốc. Nó là kiệt tác được cho là của
ông, đụng chạm tới nhiều vấn đề của triết học trong quan hệ giữa con người và
thiên nhiên, "người thuận theo đất,
đất thuận theo trời, trời thuận theo Đạo, Đạo thuận theo tự nhiên",
rằng con người cần sống hòa hợp với thiên nhiên và tạo hóa, tuân theo quy luật
của thiên nhiên, tu luyện để sống lâu và gần với Đạo.
Cũng có người tin
rằng "Đạo Đức Kinh" được viết như một cuốn sách hướng dẫn dành cho
các vị vua về việc họ phải cai trị đất nước như thế nào
theo một cách thức tự nhiên hơn: "Cai trị bằng cách không cai trị".
Điều này có thể thấy trong nhiều đoạn trong "Đạo Đức Kinh", khi nói rằng:
"Không tán dương người quyền quý thì người dân không tranh tụng" và
"Không đề cao giá trị đồ quý thì người dân không tranh cướp" và
"Dân chúng đói khổ là kết quả của thuế nặng. Vì thế, không có nạn
đói".
Lão Tử đã phát triển
khái niệm "Đạo", với nghĩa là "Con đường", thời Lão Tử mọi
ngành nghề đều có một chữ "Đạo" đằng sau, Lão Tử nói Đạo của mình là
"Đạo khả Đạo phi thường Đạo. Danh khả danh phi thường danh" (Đạo mà
nói ra được thì không còn là đạo bình thường nữa, Tên mà đặt ra được thì không
còn là tên bình thường nữa. Chữ Đạo ngoài nghĩa là "Đường" còn có
nghĩa là "Nói", Danh ngoài nghĩa là "Tên" còn có nghĩa là
"Đặt tên") và mở rộng nghĩa của nó thành quy luật hay nguyên lý của
vũ trụ tuần hoàn và tác động lên vạn vật: "đạo là cách thức của thiên
nhiên". Ông nhấn mạnh khái niệm vô vi, "Hư vô thanh tĩnh, tự
nhiên vô vi", hay "hành động thông qua không hành động",
"hành động thuận theo tự nhiên không có mục đích phi tự nhiên".
Điều này không có
nghĩa là người ta chỉ nên ngồi một chỗ và không làm gì cả, mà là hành động
thuận theo tự nhiên, hành động theo nguyên lý vũ trụ, không bị ràng buộc vào
mục đích cá nhân mạnh mẽ, vào dục vọng để đạt được một cái gì đó cụ thể. Những
hành động được thực hành theo Đạo rất dễ dàng và có hiệu quả hơn mọi cố gắng để
chống lại nó.
Người ta hành động thuận theo tự nhiên khi
thông qua tu luyện để hiểu về nguyên lý của vũ trụ, tự nhiên, và cải biến bản
thân mình thành sinh mệnh cao cấp hơn. Lão Tử tin rằng cần phải tránh bạo lực
khi có thể, và rằng một chiến thắng quân sự nên là dịp để đau buồn thay vì ăn
mừng chiến thắng.
Lão Tử chỉ ra rằng
các luật lệ để chuẩn hóa và cai trị chỉ dẫn tới một xã hội khó kiểm soát hơn.
Lão Tử nói "Nếu dân không sợ chết, dọa họ chết có ích gì", người ta
có thể hiểu rằng nếu đặt ra quá nhiều luật lệ hà khắc để bắt nhân dân tuân phục
nhưng trong tâm của họ không phục thì sẽ gây nên những tình huống khó khăn hơn
về sau.
Danh ngôn:
· Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam vạn vật
· Người biết đủ, không bao giờ nhục (tri túc bất nhục)
· Lưới trời lồng lộng, cao mà khó lọt
· Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghị tứ tượng, tứ tượng sinh
bát quái, bát quái sinh vạn vật...
· Tự biết mình là người sáng suốt. Thắng được người là có sức
mạnh. Thắng được mình là kiên cường.
· Đạo khả Đạo phi thường Đạo. Danh khả danh phi thường
danh
· Người thuận theo đất, đất thuận theo trời, trời thuận theo
Đạo, Đạo thuận theo tự nhiên".
KHỔNG TỬ ( 27/8/551 TCN - 11
tháng 4, 479 TCN)
Ông được
suy tôn như một trong những nhà khai sáng Nho giáo, đồng thời là giảng sư và triết
gia lỗi lạc bậc nhất cõi Á Đông. Trí tuệ Khổng Khâu được
đúc kết trong mỹ tự Vạn thế sư biểu hoặc Đại thành chí
thánh tiên sư.
Triết học của ông
nhấn mạnh sự tu dưỡng đức hạnh cá nhân và cai trị bằng đạo đức: "tu
thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ", đưa ra các quy tắc trong các mối
quan hệ xã hội, đề cao "Đạo Trung Dung" và các đức tính "Nhân,
Lễ, Nghĩa, Trí, Tín". Khổng Tử đề cao mối quan hệ gia đình, thờ cúng
tổ tiên, trẻ kính trọng già, vợ tôn trọng chồng, và gia đình là căn bản cho một
xã hội lý tưởng. Ông đã tuyên bố rõ nguyên tắc nổi tiếng, "Kỷ sở bất
dục vật thi ư nhân" (cái gì mình không muốn thì đừng làm cho người
khác).
Ông cũng luôn lấy
những điều tốt đẹp trong quá khứ ra làm chuẩn mực, và khuyên người Trung Quốc,
đặc biệt là tầng lớp cai trị, tự đổi mới mình dựa trên những hình mẫu những vị
vua hiền trong quá khứ.
Nói về triết học của
đức Khổng Tử, có hai chủ thuyết là nhân sinh quan và vũ
trụ quan. Nhân sinh quan có hai mặt là cơ xuất thế và cơ nhập thế. Cơ nhập
thế là nói về mười lăm đức, con người phải có đạo đức, nếu không có đức
con người có khác gì cầm thú. Còn về cơ xuất thế là tánh mạng song.
Cụ thể trong Trung
Thiên dịch, là cơ năng chuyển hóa từ hậu thiên trở về với Thiên tiên. Trong quẻ
Bát Thuần Càn có câu, Càn đạo biến hóa các Chánh tánh mạng, bảo hiệp Thái hòa
mải lợi trinh... Con người có tánh, tức là có tâm hồn là thần trí của ta nó là
thể vô hình. còn mạng ta, tức là hình thể xác thân là khí huyết. Bên Đạo
Giáo gọi là Thần Khí, bên Phật giáo gọi là Tâm tức.
Về vũ trụ quan của
ông thể hiện bằng tám quẻ: Càn là Trời, Khôn là Đất, Ly là mặt Nhật, Khảm là
mặt Nguyệt... Như vậy triết lý tự nhiên của ông rất siêu hình.
Lão Tử và Khổng Tử
Khi sang nước Chu để
tìm Đạo, Khổng Tử được gặp Lão Tử. Đây là một số đối thoại và đánh giá của 2
bậc Thánh:
Lão Tử hỏi Khổng Tử
đọc sách gì, ông trả lời là đọc “Chu Dịch”, và Thánh
nhân đều đọc sách này. Lão tử nói:“Thánh nhân đọc sách này thì
được, còn ông vì sao cần phải đọc nó? Tinh hoa của quyển sách này là gì?”.
Khổng Tử trả
lời: “Tinh hoa của nó là tuyên dương Nhân Nghĩa“.
Lão Tử nói: “Cái gọi là nhân nghĩa, đó là một thứ mê hoặc lòng người, giống
như như muỗi rận ban đêm cắn người, chỉ có thể làm người ta thêm hỗn loạn và
phiền não mà thôi. Ông xem, con chim Thiên nga kia không cần tắm rửa mà lông vũ
tự nhiên vẫn trắng như tuyết, Quạ đen hàng ngày không nhuộm lông mà tự nhiên
vẫn đen. Trời vốn là cao, đất vốn là dày, mặt trời mặt trăng từ trước tới nay
đã phát ra ánh sáng rực rỡ, tinh thần từ trước tới nay chính là đã được an bài
có trật tự, cây cỏ từ lúc sinh ra thì đã khác nhau. Nếu như ông tu Đạo, vậy
cũng thuận theo quy luật tồn tại của tự nhiên, tự nhiên là có thể đắc Đạo.
Tuyên dương những thứ nhân nghĩa để làm gì đây? Chẳng phải điều đó cũng đáng
tức cười như việc vừa đánh trống vừa đi tìm một con dê thất lạc hay sao?”
Lão Tử lại hỏi Khổng
Tử: “Ông cho rằng tự mình đắc Đạo rồi chưa?”.
Khổng Tử nói: “Tôi đã tìm cầu 27 năm rồi, vẫn chưa đắc được”.
Lão Tử nói: “Nếu như Đạo là một thứ hữu hình có thể tìm kiếm và dâng hiến cho
con người, thì người ta sẽ tranh giành nó đem dâng tặng cho quân vương. Nếu như
Đạo có thể đem tặng cho người khác, thì người ta sẽ đem tặng nó cho người thân.
Nếu như Đạo có thể giảng rõ ra được, người ta sẽ đem nó giảng giải cho anh em
của mình. Nếu như Đạo có thể truyền thụ cho người khác, thì người ta đều sẽ
tranh nhau truyền nó cho con cái mình. Song những chuyện như thế là không thể
được. Nguyên nhất rất đơn giản, Đạo ấy chính là thứ mà một người bình thường
không thể nhận thức một cách chính xác được, Đạo tuyệt đối sẽ không thể nhập
vào tâm của người thường được”.
Khổng Tử nói: “Tôi nghiên cứu ‘Thi Kinh’, ‘Thượng Thư’, ‘Lễ’, ‘Nhạc’, ‘Dịch’,
‘Xuân Thu’, giảng nói đạo lý trị quốc của các vị tiên vương, hiểu rõ con đường
thành công của Chu Công, Triệu Công. Tôi đã lấy đó để bái kiến 70 quân vương,
nhưng họ đều không chọn dùng chủ trương của tôi. Xem ra người ta thật là khó
thuyết phục được!”.
Lão Tử nói: “Ông nói ‘Lục Nghệ’ ấy tất cả đều là những thứ xưa cũ của thời đại
các tiên vương, ông nói những thứ đó để làm gì đây? Thành tựu tu học mà ông đạt
được hôm nay cũng đều là những thứ xưa cũ rồi”.
Lão Tử nói với Khổng
Tử: “Ông theo lời những người đó, xương cốt của họ đều đã mục nát cả
rồi, chỉ là những lời bàn luận của họ là còn tồn tại mà thôi. Hơn nữa quân tử
gặp được thời cơ chính trị 1 thì liền theo chính, thời cơ không thích hợp thì
cũng như cây cỏ bồng kia gặp sao yên vậy. Tôi nghe nói: Người giỏi kinh doanh
đem cất giấu của cải hàng hóa, không cho người thác trông thấy, mặc dù giàu có
nhưng dường như cái gì cũng không có. Người quân tử Đức cao thường bề ngoài
cũng giống như người ngu độn, không để lộ chân tướng ra ngoài. Ông cần phải vứt
bỏ tâm kiêu ngạo và dục vọng, vứt bỏ tâm thái và thần sắc mà ông đang có kia
đi, vứt bỏ chí hướng quá truy cầu kia đi, bởi vì những thứ này đối với ông
chẳng có chỗ nào tốt cả. Đó chính là những gì mà tôi muốn cho ông biết”.
Khổng Tử không biết
nên trả lời ra sao, nhưng vẫn không buông bỏ chí hướng của mình: Đại trượng phu
“biết rõ những việc không thể làm mà vẫn làm”.
Khổng Tử nói với Tử
Cống (học trò): “Chim, ta biết nó có thể bay; cá, ta biết nó
có thể bơi; thú, ta biết nó có thể chạy. Có thể chạy thì ta có thể dùng lưới
giăng bắt nó, có thể bơi thì ta có thể dùng dây tơ mà câu, có thể bay thì ta có
thể dùng cung tên bắn được nó. Còn như con rồng, ta không biết nó làm sao có
thể lợi dụng sức gió mà bay tới tận trời cao. Ta hôm nay gặp mặt Lão Tử, ông ấy
cũng như con rồng kia thâm sâu không thể đo lường nổi!”.
Đó chính là sự khác
nhau cơ bản giữa một Giác Giả độ nhân và một nhà tư tưởng của nhân gian. Cái
gọi là “Đạo bất đồng bất tương vi mưu” (Tạm dịch: không cùng một trình độ tu
Đạo thì tâm cảnh cũng khác nhau xa), chính là tình huống như thế này. Đạo lý
của Lão Tử vi diệu khó có thể hiểu nổi, bởi vì ấy là lời giáo huấn của Thần.
Lời của Khổng Tử chẳng qua chỉ là học vấn của con người, là quy phạm đạo đức và
hành vi của loài người mà thôi.
THÍCH CA MÂU NI (sinh khoảng năm 624 trước Công nguyên và
nhập Niết-bàn khi đã sống được khoảng 80 tuổi)
Thích Ca Mâu Ni
giáng sinh tại Kapilavastu (Ca tỳ La vệ), một đất nước tại vùng đất Ấn Độ xưa
kia. Mẹ của ông là Hoàng hậu Mayadevi (hoàng hậu Ma Da) sinh hạ ông tại Lumbini
(nằm ở Nam Nepal ngày nay) trên đường trở về nhà mẹ đẻ của bà. Người ta đồn
rằng khi Thích Ca Mâu Ni giáng sinh, liền bước đi 7 bước, mỗi bước đi sinh ra
một đóa hoa sen. Một tay chỉ lên trời, một tay trỏ xuống đất ông nói “Phía dưới Thiên Đàng và bên trên mặt đất, chỉ có ta là nhất”.
Đây thực ra là chuyện đơm đặt của hậu thế.
Trong vũ trụ này, có
vô số Thần Phật của vô số Thiên Đàng, có ai dám kiêu căng khoác lác như thế
không? Thích Ca Mâu Ni không bao giờ làm như vậy. Câu chuyện này thực sự chỉ là
kết quả của những tình cảm tôn giáo cuồng tín của người đời sau mà thôi. Một vị
Phật chỉ muốn người đời tu luyện theo lời dạy bảo của họ, chứ không muốn người
ta dựng chuyện lên để mà tâng bốc.
Thích Ca Mâu Ni từ
thuở nhỏ đã có tấm lòng từ bi thương xót chúng sinh và luôn đi tìm ý nghĩa chân
chính của đời người. Năm ông 19 tuổi, Thích Ca Mâu Ni rời bỏ ngai vàng, rời
khỏi hoàng cung đi tu luyện. Ấn Độ thời bấy giờ có đủ loại tông phái và đường
lối tu luyện khác nhau. Đầu tiên Thích Ca Mâu Ni tu theo pháp “vô tưởng định”
(Samadi) 3 năm và cuối cùng đã đạt tới cảnh giới này.
Nhưng ông cho rằng
đó không phải là Đạo, không phải là chân lý tột cùng, cho nên ông từ bỏ nó. Sau
đó ông lại tu theo “Phi tưởng – phi phi tưởng định” 3 năm, thành công rồi nhưng
ông thấy rằng đó cũng không phải là Đạo, nên cũng từ bỏ. 2 lần, Thích Ca Mâu Ni
từ bỏ những điều mà ông biết chắc ấy không phải là Đạo.
Ông không thể tìm
thấy một vị chân sư nào cả, cho nên ông tự mình tới một ngọn núi băng giá phủ
đầy tuyết trắng để tu hành khổ hạnh. Mỗi ngày ông chỉ ăn một ít hoa quả khô và
chịu đói đến mức toàn thân khô héo. Ông khổ tu như vậy để tìm chân lý. Nhưng 6
năm trôi qua, ông nhận ra rằng khổ hạnh cũng không phải là Đạo, bèn xuống núi.
Thích Ca Mâu Ni đi
tới bờ sông Hằng. Vì quá gầy yếu xanh xao, ông ngã xuống hôn mê bất tỉnh. Một
người phụ nữ làm nghề chăn dê tình cờ đi qua, và cho ông một ít váng sữa. Thích
Ca Mâu Ni ăn và phục hồi sức lực. Nhưng ông không có cách nào tìm thấy một vị
chân sư có thể hướng dẫn cho mình, nên ông vượt qua sông Hằng, tới dưới một tán
cây Bồ Đề, ngồi xuống và thiền định. Ông thề rằng nếu không trở thành một bậc
“Vô thượng chính đẳng chính giác” thì ông thà chết tại nơi này.
Thích Ca Mâu Ni
thiền định dưới tán cây Bồ Đề ấy trong 49 ngày. Buổi sáng ngày thứ 49, ông
ngẩng đầu lên nhìn trời, và nhìn thấy được những ngôi sao sáng trên bầu trời.
Cũng trong một cái nhìn ấy, thần thông và các quyền năng siêu phàm của ông lập
tức nổ tung, và tư tưởng của ông khai mở. Ông lập tức nhớ lại mọi điều mà ông
đã từng tu luyện trước kia, hiểu được kiếp sống hiện tại và nhiều kiếp trước
của mình, và tất cả những điều khác nữa mà ông cần phải biết sau khi khai ngộ.
Bởi vì năng lượng
phóng ra trong quá trình khai công khai ngộ, một chấn động lớn xuất hiện trong
phạm vi địa lý rộng lớn xung quanh ông. Người ta cho rằng ấy là một trận động
đất nhẹ, núi đổ hay sóng thần, nhưng thực ra đó là do sự khai ngộ của Thích Ca
Mâu Ni. Đương nhiên năng lượng của Phật là từ bi và không làm hại ai cả. Sau 12
năm tu luyện vô cùng gian khổ, Thích Ca Mâu Ni rốt cuộc đã ngộ Đạo. Sau đó,
Phật Thích Ca Mâu Ni liền bắt đầu cuộc đời truyền Pháp 49 năm của mình.
Đặc điểm của pháp
môn tu luyện mà Thích Ca Mâu Ni truyền dạy là Giới, Định, Huệ. Giới chính là
cấm tất cả dục vọng và tâm cố chấp, định là nói về người nhập định tu hành, huệ
là nói về người khai ngộ khai huệ. Đại tạng kinh có mấy vạn quyển, đều không
lìa xa 3 chữ này. Đương nhiên, hình thức biểu hiện của nó rất phong phú phức
tạp, nhưng thực chất chính là 3 chữ này.
Lời nói và việc làm
của mọi người đều trái với những điều mà các vị Phật thời tiền sử dạy bảo. Như
vậy, Bà La Môn giáo tiến vào thời Mạt pháp. Trong thời gian ấy, Phật Pháp của
Thích Ca Mâu Ni bắt đầu truyền rộng ra tại Ấn Độ.
Bởi Pháp mà Thích Ca
Mâu Ni truyền chính là chính Pháp, trong quá trình truyền Pháp, Thích Ca Mâu Ni
không ngừng bác bỏ các giáo lý của các tôn giáo khác, cho nên không ngừng có
những người rời bỏ ngoại đạo đến quy y Phật giáo. Như một trong những đồ đệ của
ông, người mà sau này trở thành Xá Lợi Phất ban đầu là người của Bà La Môn
giáo.
Ông cùng Thích Ca
Mâu Ni tranh luận, biết Phật Thích Ca Mâu Ni đang truyền chính pháp, bèn rời bỏ
Bà La Môn giáo và trở thành người đệ tử có trí tuệ cao nhất của Phật Thích Ca
Mâu Ni. Như vậy, Phật Pháp mà Thích Ca Mâu Ni truyền càng lúc càng cường thịnh,
còn các tôn giáo kia càng lúc càng suy tàn. Phật Pháp dần dần bị các tôn giáo
kia kỳ thị và phản đối.
Sau khi Phật Thích
Ca Mâu Ni không còn trên thế gian, các tôn giáo khác bắt đầu hưng thịnh trở
lại. Phật giáo ở Ấn Độ trải qua nhiều lần cải tổ, cuối cùng đã kết hợp với
những thứ của Bà La Môn giáo, biến thành một loại tôn giáo mới là Ấn Độ giáo.
Ấn Độ giáo không còn
tin Thích Ca Mâu Ni, cũng không thờ phụng một vị Phật nào cả. Do vậy, Phật giáo
sinh ra tại Ấn Độ, cuối cùng lại dần dần bị tiêu biến ở Ấn Độ. Song tại Đông
Nam Á, tại Trung Quốc, Phật Pháp đã truyền rộng khắp nơi, ảnh hưởng sâu sắc đến
văn hóa của những quốc gia này.