12/08/2016

Lược sử 12 đời vưa nhà Nguyễn

 

Nhà Nguyễn là triều đại  phong kiến cuối cùng ở Việt Nam (1802 – 1945). Tồn tại 143 năm, đây là triều đại đánh dầu nhiều thăng trầm của lịch sử, đặc biệt là cuộc xâm lược của người Pháp giữa thế kỷ 19. Chân dung các vị vua triều Nguyễn được khắc họa qua những họa phẩm tuyệt đẹp, được đăng tải trên internet.

1. Gia Long


Vua Gia Long (8/2/1762 – 3/2/1820) là vị Hoàng đế đã thành lập nhà Nguyễn, vương triều phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Ông tên thật là Nguyễn Phúc Ánh (thường được gọi tắt là Nguyễn Ánh), trị vì từ năm 1802 đến khi qua đời năm 1820. Sau nhiều thất bại lớn và phải cầu viện sự giúp đỡ của Xiêm La và Pháp, ông giữ vững được Nam Hà và đến năm 1802 thì đánh bại quân Tây Sơn, lên ngôi hoàng đế, thống nhất Việt Nam sau nhiều thế kỷ nội chiến.

2. Minh Mạng

 

Vua Minh Mạng, cũng gọi là Minh Mệnh (25/5/ 1791 – 20/1/1841), tức Nguyễn Thánh Tổ là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Nguyễn. Được xem là một ông vua năng động và quyết đoán,  Minh Mạng đã đề xuất hàng loạt cải cách từ nội trị đến ngoại giao. Ông cho lập thêm Nội các và Cơ mật viện ở kinh đô Huế, bãi bỏ chức tổng trấn Bắc thành và Gia Định thành, đổi trấn thành tỉnh, củng cố chế độ lưu quan ở miền núi.

3. Thiệu Trị

 

Vua Thiệu Trị (1807 – 1847) là vị Hoàng đế thứ ba của nhà Nguyễn, trị vì từ năm 1841 đến 1847. Ông có tên húy là Nguyễn Phúc Miên Tông, ngoài ra còn có tên là Nguyễn Phúc Tuyền và Dung. Ông là con trưởng của vua Minh Mạng và Tá Thiên Nhân Hoàng hậu Hồ Thị Hoa.

4. Tự Đức

 

Hoàng đế Tự Đức (tên sinh thành Nguyễn Dực Tông) là vị Hoàng đế thứ tư của nhà Nguyễn. Ông tên thật là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm hay còn có tên Nguyễn Phúc Thì. Ông là vị vua có thời gian trị vì lâu dài nhất của nhà Nguyễn, trị vì từ năm 1847 đến 1883.

5. Hiệp Hoà

 

Hiệp Hòa (1847 – 1883) là vị vua thứ sáu của vương triều nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Tên thật của ông là Nguyễn Phúc Hồng Dật, còn có tên là Nguyễn Phúc Thăng, là con thứ 29 và là con út của vua Thiệu Trị và bà Đoan Tần Trương Thị Thuận. Ông lên ngôi tháng 7/1883, nhưng bị phế truất và qua đời vào tháng 10 cùng năm.

6. Kiến Phúc


Kiến Phúc (1869 – 1884), tên húy là Nguyễn Phúc Ưng Đăng, thường được gọi là Dưỡng Thiện, là vị vua thứ bảy của vương triều nhà Nguyễn. Ông là con thứ ba của Kiên Thái vương Nguyễn Phúc Hồng Cai và bà Bùi Thị Thanh, được vua Tự Đức chọn làm con nuôi. Kiến Phúc lên ngôi năm 1883, tại vị được 8 tháng thì qua đời khi mới 15 tuổi.

7. Hàm Nghi


Hoàng đế Hàm Nghi là vị Hoàng đế thứ 8 của nhà Nguyễn. Ông cùng với các vua chống Pháp Thành Thái, Duy Tân là ba vị vua yêu nước trong thời kỳ Pháp thuộc.

Là em trai của vua Kiến Phúc, năm 1884 Hàm Nghi được các phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết đưa lên ngôi ở tuổi 13. Sau khi cuộc phản công tại kinh thành Huế thất bại năm 1885, Tôn Thất Thuyết đưa ông ra ngoài và phát hịch Cần Vương chống thực dân Pháp.

8. Đồng Khánh


Đồng Khánh sinh ngày 12 tháng giêng năm Giáp Tý, tức ngày 19 tháng 2 năm 1864 tại Huế. Ông là con trưởng của Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai và bà Bùi Thị Thanh. Năm 1865, Ưng Kỷ được vua Tự Đức nhận làm con nuôi và giao cho bà Thiện Phi Nguyễn Thị Cẩm chăm sóc, dạy bảo. Ở ngôi được ba năm thì bệnh và mất vào ngày 27 tháng 12 năm Mậu Tý, tức ngày 28 tháng 1 năm 1889. Khi đó ông 24 tuổi.

9. Thành Thái


Vua Thành Thái tên húy là Nguyễn Phúc Bửu Lân, còn có tên là Nguyễn Phúc Chiêu. Ông là con thứ 7 của vua Dục Đức và bà Từ Minh Hoàng hậu (Phan Thị Điểu), sinh ngày 22 tháng 2 năm Kỷ Mão, tức 14 tháng 3 năm 1879 tại Huế.

10. Duy Tân

 

11. Khải Định

 

Vua Khải Định (1885 – 1925), hay Nguyễn Hoằng Tông là vị Hoàng đế thứ 12 nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam, ở ngôi từ 1916 đến 1925. Ông có tên húy là Nguyễn Phúc Bửu Đảo, còn có tên là Nguyễn Phúc Tuấn, con trưởng của vua Đồng Khánh và bà Hựu Thiên Thuần Hoàng hậu Dương Thị Thục.

 12. Bảo Đại

 

Bảo Đại (1913 – 1997) là vị Hoàng đế thứ 13 và cuối cùng của triều Nguyễn, cũng là vị vua cuối cùng của chế độ quân chủ Việt Nam. Tên húy của ông là Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy, còn có tên là Nguyễn Phúc Thiển , tục danh “mệ Vững” là con của vua Khải Định và Từ Cung Hoàng thái hậu. Đúng ra “Bảo Đại” chỉ là niên hiệu nhà vua nhưng tục lệ vua nhà Nguyễn chỉ giữ một niên hiệu nên nay thường dùng như là tên nhà vua.

 

Liệu pháp Đông Y chữa trị Cao huyết áp



Việc kiểm soát và khống chế áp suất máu cao bằng cách dập tắt triệu chứng thực ra là một thảm họa. Chỉ số áp suất máu cao được đưa về chỉ số an toàn bằng thuốc hóa dược và thuốc tim mạch là một việc lừa dối bệnh lý. Vì chỉ số áp suất máu an toàn đó là chỉ số giả. Do nguyên nhân của hội chứng áp suất máu cao vẫn chưa được xử lý triệt để, cho nên áp suất máu thực của bệnh nhân, vẫn ở dạng tiềm ẩn, nguy hiểm và đó cũng là mối đe dọa tính mạng luôn treo lơ lững trên đầu của bệnh nhân có bệnh áp suất máu cao.
Bởi vậy y lý của Đông Y xếp thủ pháp Y Khoa dập tắt triệu chứng mà không xử lý nguyên nhân vào loại Y Thuật Bá đạo. Đông Y không lấy việc dập tắt triệu chứng làm cứu cánh, mà lấy việc xử lý nguyên nhân bệnh lý làm Y Thuật chính thống, và xếp thủ pháp này vào hàng Thánh Đạo hay Vương Đạo. Trong việc xử lý bệnh Huyễn Vựng, Trúng Phong (áp suất máu cao, đột quị, tai biến mạch máu não). Đông Y cũng xử lý theo chiều hướng xử lý nguyên nhân, và đưa lại cho bệnh nhân chỉ số áp suất an toàn là chỉ số áp suất máu thực chứ không phải là chỉ số giả luôn tàng ẩn nguy hiểm của thủ thuật dập tắt triệu chứng.
Trong khái niệm bệnh lý của Đông Y không có khái niệm về Áp Suất Máu Cao. Mà chỉ có khái niệm về bệnh Huyễn Vựng và Trúng Phong. Lưu ý, khái niệm Trúng Phong ở đây không phải là bệnh trúng gió mà dân gian thường nói tới. Trúng Phong là bệnh lý do Phong Tà tắc bế mà sinh ra Nội Nhiệt, dẫn đến phong hỏa lộng hành thốc huyễn lên cao mà sinh ra đột quị.
Đông Y chia khái niệm Tà Khí ra hai loại, Ngoại tà và Nội tà. Ngoại tà là khí hóa của khí hậu bên ngoài, bao gồm Phong, Hàn, Táo, Nhiệt, Thử, Thấp tức là Gió, Lạnh, Hanh Khô, Nóng, Nắng và Ẩm Thấp. Ǹội tà tức là khí hóa bên trong cơ thể, gọi là Ngũ Khí, bao gồm, Phong thuộc gan, Hàn thuộc thận, Táo thuộc phế, Nhiệt thuộc tâm và Thấp thuộc Tỳ. Trong đó Gan thuộc Phong nhưng rất kỵ nhiệt. Hàn thuộc Thận lại cực sợ ẩm thấp, Nhiệt thuộc tâm lại kiêng cữ phong, Tỳ là thấp, Táo thuộc phế nhưng cả hai lại đại kỵ với hàn lạnh. Nếu các tạng phủ lâm nhiễm những cữ kỵ lâu ngày thì sinh nên chứng bệnh nguy nan. Gan bị gặp tà nhiệt thì Phong bế tắc. Tim gặp phong tà thì hỏa vượng mà sinh huyễn vựng. Thận bị Thấp thì suy. Tỳ gặp hàn thì hư.
Phế bị lạnh thì cảm mạo...v..v..
Gan nhiệt, Thận suy, Tỳ hư, Tâm loạn là bốn nguyên nhân chủ yếu làm nên chứng Huyễn Vựng, Trúng Phong mà Tây Y gọi là chứng đột quị, nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não.
Đông Y xử lý bệnh lý này bằng thảo dược mang đầy đủ các tính chất Tính, Vị, Khí để điều hòa Tinh, Khí, Thần, cùng với các liệu pháp dưỡng sinh, và ẩm thực để đưa mối quan hệ nội tại Huyết tàng Tinh, Tinh sinh khí, Khí dưỡng Thần, Thần điều Huyết vào trạng thái nhu thuần, ổn định để đào thải tận gốc rễ của bệnh lý. Liệu pháp của Đông Y tuy chậm mà chắc chắn và an toàn tuyệt đối là vậy.
Về thực tế lâm sàng. Hội chứng áp suất máu cao nếu được xử lý theo liệu pháp Tinh, Khí, Thần một cách hợp lý thì hoàn toàn có thể tránh được chứng đột quị, tử vong, hoặc di chứng của tai biến não.
Tùy theo chứng bệnh do huyết trệ mà Tinh nặng trược, không được tinh khiết trong sạch mà nên bệnh thì xử lý khâu Gan nhiệt, Thận hư mà liễm khí. Bệnh do Khí ứ trệ, cương thống thì điều hòa ở Tỳ Vị. Bệnh do tâm thần hoảng loạn, bức bối, sợ sệt, lo lắng...thì dưỡng lại Tâm Phế. Tùy chứng mà ra toa điều phương, ắt sẽ xóa được gốc bệnh, mà đưa lại sức khỏa an toàn cho người bệnh.
Nói tóm lại, Đông Y xử lý bệnh huyễn vựng, trúng phong tức là hội chứng và di chứng của áp suất máu cao bằng cách tùy chứng mà Bình Can, Bổ Thận, Điều Hòa Tỳ Vị và Dưỡng Tâm Phế.
Bằng các thủ thuật này người bệnh có hội chứng áp suất máu cao, điều trị rốt ráo theo thuật dưỡng sinh của Đông Y thì hầu như hoàn toàn không bị cái án đột quị treo lơ lững trên đầu nữa.
Trong những trường hợp bệnh nhân có cơn huyễn vựng cấp, có nghĩa là có cơn áp suất máu, tăng cao một cách đột ngột có các triệu chứng gây nguy cơ đột quị, như khi đo áp suất máu, chỉ số áp suất máu trên 180/100, nhịp tim quá thấp hoặc quá cao. Bệnh nhân người ngai ngái như sốt, mặt phừng, mắt đỏ, bải hoải tay chân, tay trái tê xuội...thì phương pháp điểm huyệt, day bấm huyệt vẫn có tác dụng đưa bệnh nhân về trạng thái an toàn nhan và kịp thời hơn các phương pháp cấp cứu của Tây Y, nếu như người bệnh hoặc nhân viên trị liệu nắm rõ các phương pháp.
Và các phương pháp này không có gì phức tạp cả. Nó đơn giản đến mức cho dù một người không có am hiểu gì Y Lý vẫn có thể ứng dụng được một cách dễ dàng.
Trong các trường hợp có trịêu chứng nguy hiểm có thể  đe dọa đến đột quị thì dùng các liệu pháp đã chú thích rõ ràng ở dưới các đồ hình dưới đây :


Trong các trường hợp áp suất máu cao thường xuyên có những cơn huyễn vựng chỉ số áp suất máu khi đo vượt ngưỡng an toàn, thì trước khi tìm ra gốc bệnh để xử lý từ từ thì cũng phải dùng thủ thuật điểm huyệt dập tắt triệu chứng dưới đây, để đưa chỉ số áp suất máu về chỉ số an toàn là ít nhất cũng phải được 135/ 85, nhịp tim từ 70 đến 80 lần phút. Thì chúng ta xử lý theo hướng dẫn dưới đây :
 



06/08/2016

Ba vị Thánh Nhân: Thích Ca Mâu Ni - Lão Tử - Khổng Tử.

Viết và sưu tầm từ nhiều nguồn.


Nhiều người trong các bạn đã được nghe, nhắc hoặc tìm hiểu về 3 vị này, nhưng nếu ta hợp chung lại các thông tin có được sẽ thấy nhiều điều thú vị

Ba vị Thánh Giả : Thích Ca Mâu Ni – Lão Tử - Khổng Tử giáng sinh vào cùng một thời đại, ấy là sự trùng hợp của lịch sử hay là Ý Trời đã an bài như vậy?

Thật trùng hợp ở chỗ, ngày tháng ba vị ấy ra đời chênh nhau không quá 20 năm. Theo góc nhìn lịch sử, thì 3 vị ấy là người của cùng một thời đại. 

Năm 571 Trước công nguyên, ngày 15 tháng 2 Lão Tử giáng sinh tại nước Sở, huyện Khổ (nay là huyện Lộc Ấp, Hà Nam). 

5 năm sau, ngày 8 tháng 4 năm 566 Trước công nguyên Phật Thích Ca Mâu Ni giáng sinh ở Kim Ni Bạc Nhĩ. 

15 năm sau, vào ngày 27 tháng 8 năm 551 Trước công nguyên, Khổng Tử ra đời tại Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông.

LÃO TỬ


Cái tên "Lão Tử" là danh xưng kính trọng. Lão () có nghĩa "đáng tôn kính" hay "già". Tử () nghĩa là thầy. Vì thế, "Lão Tử" có thể được dịch tạm thành "bậc thầy cao tuổi".

Tên riêng Lão Tử có thể là Lý Nhĩ (李耳), tên tự của ông có thể là Bá Dương (伯陽), tên thụy của ông là Đam, () có nghĩa là "Bí ẩn".

Lão Tử cũng được gọi là:

· Lão Đam (老聃)

· Lão Quân (老聃)

· Lý Lão Quân (李老君)

· Thái Thượng Lão Quân (太上老君)

· Thái Thượng Đạo Tổ

· Lão Tử Đạo Quân (老子道君)

· Huyền Đô đại lão gia

Sự tồn tại của ông trong lịch sử hiện vẫn đang còn được tranh cãi. Ông là người sáng lập ra Lão giáo với tư tưởng phổ quát là Vô vi.

Ngày 1/9/478 trước công nguyên, Lão Tử 93 tuổi đi về nước Tần. Lúc đi qua cửa Hàm Cốc, quan Lệnh tên là Doãn Hỷ ở đó xem bói đã biết trước là sẽ có một Thần nhân đi qua đây, bèn sai người quét dọn sạch sẽ 40 dặm đường để nghênh đón. Quả nhiên Lão Tử tới. Doãn Hỷ nói:“Tiên sinh Ngài muốn ẩn cư, sau này không còn được nghe Ngài dạy bảo nữa, kính xin tiên sinh viết sách để truyền lại cho hậu thế!”.

Lão Tử tại Trung Nguyên chưa từng truyền thụ lại điều gì. Ông biết Doãn Hỷ trong mệnh đã định là sẽ đắc Đạo, bèn tạm dừng lại nơi này một thời gian ngắn, viết lại cuốn sách nổi tiếng ngàn đời: “Đạo Đức kinh”. Sau đó, Lão Tử ra khỏi cửa Hàm Cốc đi về phía Tây, vượt qua vùng Lưu Sa… Lưu Sa là chỉ vùng sa mạc lớn ở Tân Cương. Không ai biết cuối cùng ông đã đi về nơi đâu.

Tác phẩm của Lão Tử, cuốn Đạo Đức Kinh, là một trong những cuốn chuyên luận đáng chú ý nhất trong lịch sử triết học Trung Quốc. Nó là kiệt tác được cho là của ông, đụng chạm tới nhiều vấn đề của triết học trong quan hệ giữa con người và thiên nhiên, "người thuận theo đất, đất thuận theo trời, trời thuận theo Đạo, Đạo thuận theo tự nhiên", rằng con người cần sống hòa hợp với thiên nhiên và tạo hóa, tuân theo quy luật của thiên nhiên, tu luyện để sống lâu và gần với Đạo.

Cũng có người tin rằng "Đạo Đức Kinh" được viết như một cuốn sách hướng dẫn dành cho các vị vua về việc họ phải cai trị đất nước như thế nào theo một cách thức tự nhiên hơn: "Cai trị bằng cách không cai trị". Điều này có thể thấy trong nhiều đoạn trong "Đạo Đức Kinh", khi nói rằng: "Không tán dương người quyền quý thì người dân không tranh tụng" và "Không đề cao giá trị đồ quý thì người dân không tranh cướp" và "Dân chúng đói khổ là kết quả của thuế nặng. Vì thế, không có nạn đói".

Lão Tử đã phát triển khái niệm "Đạo", với nghĩa là "Con đường", thời Lão Tử mọi ngành nghề đều có một chữ "Đạo" đằng sau, Lão Tử nói Đạo của mình là "Đạo khả Đạo phi thường Đạo. Danh khả danh phi thường danh" (Đạo mà nói ra được thì không còn là đạo bình thường nữa, Tên mà đặt ra được thì không còn là tên bình thường nữa. Chữ Đạo ngoài nghĩa là "Đường" còn có nghĩa là "Nói", Danh ngoài nghĩa là "Tên" còn có nghĩa là "Đặt tên") và mở rộng nghĩa của nó thành quy luật hay nguyên lý của vũ trụ tuần hoàn và tác động lên vạn vật: "đạo là cách thức của thiên nhiên". Ông nhấn mạnh khái niệm vô vi, "Hư vô thanh tĩnh, tự nhiên vô vi", hay "hành động thông qua không hành động", "hành động thuận theo tự nhiên không có mục đích phi tự nhiên".

Điều này không có nghĩa là người ta chỉ nên ngồi một chỗ và không làm gì cả, mà là hành động thuận theo tự nhiên, hành động theo nguyên lý vũ trụ, không bị ràng buộc vào mục đích cá nhân mạnh mẽ, vào dục vọng để đạt được một cái gì đó cụ thể. Những hành động được thực hành theo Đạo rất dễ dàng và có hiệu quả hơn mọi cố gắng để chống lại nó.

 Người ta hành động thuận theo tự nhiên khi thông qua tu luyện để hiểu về nguyên lý của vũ trụ, tự nhiên, và cải biến bản thân mình thành sinh mệnh cao cấp hơn. Lão Tử tin rằng cần phải tránh bạo lực khi có thể, và rằng một chiến thắng quân sự nên là dịp để đau buồn thay vì ăn mừng chiến thắng.

Lão Tử chỉ ra rằng các luật lệ để chuẩn hóa và cai trị chỉ dẫn tới một xã hội khó kiểm soát hơn. Lão Tử nói "Nếu dân không sợ chết, dọa họ chết có ích gì", người ta có thể hiểu rằng nếu đặt ra quá nhiều luật lệ hà khắc để bắt nhân dân tuân phục nhưng trong tâm của họ không phục thì sẽ gây nên những tình huống khó khăn hơn về sau.

Danh ngôn:

· Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam vạn vật

· Người biết đủ, không bao giờ nhục (tri túc bất nhục)

· Lưới trời lồng lộng, cao mà khó lọt

· Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghị tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, bát quái sinh vạn vật...

· Tự biết mình là người sáng suốt. Thắng được người là có sức mạnh. Thắng được mình là kiên cường.

·  Đạo khả Đạo phi thường Đạo. Danh khả danh phi thường danh

· Người thuận theo đất, đất thuận theo trời, trời thuận theo Đạo, Đạo thuận theo tự nhiên".

KHỔNG TỬ ( 27/8/551 TCN - 11 tháng 4, 479 TCN)


Ông được suy tôn như một trong những nhà khai sáng Nho giáo, đồng thời là giảng sư và triết gia lỗi lạc bậc nhất cõi Á Đông. Trí tuệ Khổng Khâu được đúc kết trong mỹ tự Vạn thế sư biểu hoặc Đại thành chí thánh tiên sư.

Triết học của ông nhấn mạnh sự tu dưỡng đức hạnh cá nhân và cai trị bằng đạo đức: "tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ", đưa ra các quy tắc trong các mối quan hệ xã hội, đề cao "Đạo Trung Dung" và các đức tính "Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín". Khổng Tử đề cao mối quan hệ gia đình, thờ cúng tổ tiên, trẻ kính trọng già, vợ tôn trọng chồng, và gia đình là căn bản cho một xã hội lý tưởng. Ông đã tuyên bố rõ nguyên tắc nổi tiếng, "Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân" (cái gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác).

Ông cũng luôn lấy những điều tốt đẹp trong quá khứ ra làm chuẩn mực, và khuyên người Trung Quốc, đặc biệt là tầng lớp cai trị, tự đổi mới mình dựa trên những hình mẫu những vị vua hiền trong quá khứ.

Nói về triết học của đức Khổng Tử, có hai chủ thuyết là nhân sinh quan và vũ trụ quan. Nhân sinh quan có hai mặt là cơ xuất thế và cơ nhập thế. Cơ nhập thế là nói về mười lăm đức, con người phải có đạo đức, nếu không có đức con người có khác gì cầm thú. Còn về cơ xuất thế là tánh mạng song.

Cụ thể trong Trung Thiên dịch, là cơ năng chuyển hóa từ hậu thiên trở về với Thiên tiên. Trong quẻ Bát Thuần Càn có câu, Càn đạo biến hóa các Chánh tánh mạng, bảo hiệp Thái hòa mải lợi trinh... Con người có tánh, tức là có tâm hồn là thần trí của ta nó là thể vô hình. còn mạng ta, tức là hình thể xác thân là khí huyết. Bên Đạo Giáo gọi là Thần Khí, bên Phật giáo gọi là Tâm tức.

Về vũ trụ quan của ông thể hiện bằng tám quẻ: Càn là Trời, Khôn là Đất, Ly là mặt Nhật, Khảm là mặt Nguyệt... Như vậy triết lý tự nhiên của ông rất siêu hình.

Lão Tử và Khổng Tử

Khi sang nước Chu để tìm Đạo, Khổng Tử được gặp Lão Tử. Đây là một số đối thoại và đánh giá của 2 bậc Thánh:

Lão Tử hỏi Khổng Tử đọc sách gì, ông trả lời là đọc “Chu Dịch”, và Thánh nhân đều đọc sách này. Lão tử nói:“Thánh nhân đọc sách này thì được, còn ông vì sao cần phải đọc nó? Tinh hoa của quyển sách này là gì?”.

Khổng Tử trả lời: “Tinh hoa của nó là tuyên dương Nhân Nghĩa“.

Lão Tử nói: “Cái gọi là nhân nghĩa, đó là một thứ mê hoặc lòng người, giống như như muỗi rận ban đêm cắn người, chỉ có thể làm người ta thêm hỗn loạn và phiền não mà thôi. Ông xem, con chim Thiên nga kia không cần tắm rửa mà lông vũ tự nhiên vẫn trắng như tuyết, Quạ đen hàng ngày không nhuộm lông mà tự nhiên vẫn đen. Trời vốn là cao, đất vốn là dày, mặt trời mặt trăng từ trước tới nay đã phát ra ánh sáng rực rỡ, tinh thần từ trước tới nay chính là đã được an bài có trật tự, cây cỏ từ lúc sinh ra thì đã khác nhau. Nếu như ông tu Đạo, vậy cũng thuận theo quy luật tồn tại của tự nhiên, tự nhiên là có thể đắc Đạo. Tuyên dương những thứ nhân nghĩa để làm gì đây? Chẳng phải điều đó cũng đáng tức cười như việc vừa đánh trống vừa đi tìm một con dê thất lạc hay sao?”

Lão Tử lại hỏi Khổng Tử: “Ông cho rằng tự mình đắc Đạo rồi chưa?”.

Khổng Tử nói: “Tôi đã tìm cầu 27 năm rồi, vẫn chưa đắc được”.

Lão Tử nói: “Nếu như Đạo là một thứ hữu hình có thể tìm kiếm và dâng hiến cho con người, thì người ta sẽ tranh giành nó đem dâng tặng cho quân vương. Nếu như Đạo có thể đem tặng cho người khác, thì người ta sẽ đem tặng nó cho người thân. Nếu như Đạo có thể giảng rõ ra được, người ta sẽ đem nó giảng giải cho anh em của mình. Nếu như Đạo có thể truyền thụ cho người khác, thì người ta đều sẽ tranh nhau truyền nó cho con cái mình. Song những chuyện như thế là không thể được. Nguyên nhất rất đơn giản, Đạo ấy chính là thứ mà một người bình thường không thể nhận thức một cách chính xác được, Đạo tuyệt đối sẽ không thể nhập vào tâm của người thường được”.

Khổng Tử nói: “Tôi nghiên cứu ‘Thi Kinh’, ‘Thượng Thư’, ‘Lễ’, ‘Nhạc’, ‘Dịch’, ‘Xuân Thu’, giảng nói đạo lý trị quốc của các vị tiên vương, hiểu rõ con đường thành công của Chu Công, Triệu Công. Tôi đã lấy đó để bái kiến 70 quân vương, nhưng họ đều không chọn dùng chủ trương của tôi. Xem ra người ta thật là khó thuyết phục được!”.

Lão Tử nói: “Ông nói ‘Lục Nghệ’ ấy tất cả đều là những thứ xưa cũ của thời đại các tiên vương, ông nói những thứ đó để làm gì đây? Thành tựu tu học mà ông đạt được hôm nay cũng đều là những thứ xưa cũ rồi”.

Lão Tử nói với Khổng Tử: “Ông theo lời những người đó, xương cốt của họ đều đã mục nát cả rồi, chỉ là những lời bàn luận của họ là còn tồn tại mà thôi. Hơn nữa quân tử gặp được thời cơ chính trị 1 thì liền theo chính, thời cơ không thích hợp thì cũng như cây cỏ bồng kia gặp sao yên vậy. Tôi nghe nói: Người giỏi kinh doanh đem cất giấu của cải hàng hóa, không cho người thác trông thấy, mặc dù giàu có nhưng dường như cái gì cũng không có. Người quân tử Đức cao thường bề ngoài cũng giống như người ngu độn, không để lộ chân tướng ra ngoài. Ông cần phải vứt bỏ tâm kiêu ngạo và dục vọng, vứt bỏ tâm thái và thần sắc mà ông đang có kia đi, vứt bỏ chí hướng quá truy cầu kia đi, bởi vì những thứ này đối với ông chẳng có chỗ nào tốt cả. Đó chính là những gì mà tôi muốn cho ông biết”.

Khổng Tử không biết nên trả lời ra sao, nhưng vẫn không buông bỏ chí hướng của mình: Đại trượng phu “biết rõ những việc không thể làm mà vẫn làm”.

Khổng Tử nói với Tử Cống (học trò): “Chim, ta biết nó có thể bay; cá, ta biết nó có thể bơi; thú, ta biết nó có thể chạy. Có thể chạy thì ta có thể dùng lưới giăng bắt nó, có thể bơi thì ta có thể dùng dây tơ mà câu, có thể bay thì ta có thể dùng cung tên bắn được nó. Còn như con rồng, ta không biết nó làm sao có thể lợi dụng sức gió mà bay tới tận trời cao. Ta hôm nay gặp mặt Lão Tử, ông ấy cũng như con rồng kia thâm sâu không thể đo lường nổi!”.

Đó chính là sự khác nhau cơ bản giữa một Giác Giả độ nhân và một nhà tư tưởng của nhân gian. Cái gọi là “Đạo bất đồng bất tương vi mưu” (Tạm dịch: không cùng một trình độ tu Đạo thì tâm cảnh cũng khác nhau xa), chính là tình huống như thế này. Đạo lý của Lão Tử vi diệu khó có thể hiểu nổi, bởi vì ấy là lời giáo huấn của Thần. Lời của Khổng Tử chẳng qua chỉ là học vấn của con người, là quy phạm đạo đức và hành vi của loài người mà thôi.

THÍCH CA MÂU NI (sinh khoảng năm 624 trước Công nguyên và nhập Niết-bàn khi đã sống được khoảng 80 tuổi)

Thích Ca Mâu Ni giáng sinh tại Kapilavastu (Ca tỳ La vệ), một đất nước tại vùng đất Ấn Độ xưa kia. Mẹ của ông là Hoàng hậu Mayadevi (hoàng hậu Ma Da) sinh hạ ông tại Lumbini (nằm ở Nam Nepal ngày nay) trên đường trở về nhà mẹ đẻ của bà. Người ta đồn rằng khi Thích Ca Mâu Ni giáng sinh, liền bước đi 7 bước, mỗi bước đi sinh ra một đóa hoa sen. Một tay chỉ lên trời, một tay trỏ xuống đất ông nói “Phía dưới Thiên Đàng và bên trên mặt đất, chỉ có ta là nhất”. Đây thực ra là chuyện đơm đặt của hậu thế.

Trong vũ trụ này, có vô số Thần Phật của vô số Thiên Đàng, có ai dám kiêu căng khoác lác như thế không? Thích Ca Mâu Ni không bao giờ làm như vậy. Câu chuyện này thực sự chỉ là kết quả của những tình cảm tôn giáo cuồng tín của người đời sau mà thôi. Một vị Phật chỉ muốn người đời tu luyện theo lời dạy bảo của họ, chứ không muốn người ta dựng chuyện lên để mà tâng bốc.

Thích Ca Mâu Ni từ thuở nhỏ đã có tấm lòng từ bi thương xót chúng sinh và luôn đi tìm ý nghĩa chân chính của đời người. Năm ông 19 tuổi, Thích Ca Mâu Ni rời bỏ ngai vàng, rời khỏi hoàng cung đi tu luyện. Ấn Độ thời bấy giờ có đủ loại tông phái và đường lối tu luyện khác nhau. Đầu tiên Thích Ca Mâu Ni tu theo pháp “vô tưởng định” (Samadi) 3 năm và cuối cùng đã đạt tới cảnh giới này.

Nhưng ông cho rằng đó không phải là Đạo, không phải là chân lý tột cùng, cho nên ông từ bỏ nó. Sau đó ông lại tu theo “Phi tưởng – phi phi tưởng định” 3 năm, thành công rồi nhưng ông thấy rằng đó cũng không phải là Đạo, nên cũng từ bỏ. 2 lần, Thích Ca Mâu Ni từ bỏ những điều mà ông biết chắc ấy không phải là Đạo.

Ông không thể tìm thấy một vị chân sư nào cả, cho nên ông tự mình tới một ngọn núi băng giá phủ đầy tuyết trắng để tu hành khổ hạnh. Mỗi ngày ông chỉ ăn một ít hoa quả khô và chịu đói đến mức toàn thân khô héo. Ông khổ tu như vậy để tìm chân lý. Nhưng 6 năm trôi qua, ông nhận ra rằng khổ hạnh cũng không phải là Đạo, bèn xuống núi.

Thích Ca Mâu Ni đi tới bờ sông Hằng. Vì quá gầy yếu xanh xao, ông ngã xuống hôn mê bất tỉnh. Một người phụ nữ làm nghề chăn dê tình cờ đi qua, và cho ông một ít váng sữa. Thích Ca Mâu Ni ăn và phục hồi sức lực. Nhưng ông không có cách nào tìm thấy một vị chân sư có thể hướng dẫn cho mình, nên ông vượt qua sông Hằng, tới dưới một tán cây Bồ Đề, ngồi xuống và thiền định. Ông thề rằng nếu không trở thành một bậc “Vô thượng chính đẳng chính giác” thì ông thà chết tại nơi này.

Thích Ca Mâu Ni thiền định dưới tán cây Bồ Đề ấy trong 49 ngày. Buổi sáng ngày thứ 49, ông ngẩng đầu lên nhìn trời, và nhìn thấy được những ngôi sao sáng trên bầu trời. Cũng trong một cái nhìn ấy, thần thông và các quyền năng siêu phàm của ông lập tức nổ tung, và tư tưởng của ông khai mở. Ông lập tức nhớ lại mọi điều mà ông đã từng tu luyện trước kia, hiểu được kiếp sống hiện tại và nhiều kiếp trước của mình, và tất cả những điều khác nữa mà ông cần phải biết sau khi khai ngộ.

Bởi vì năng lượng phóng ra trong quá trình khai công khai ngộ, một chấn động lớn xuất hiện trong phạm vi địa lý rộng lớn xung quanh ông. Người ta cho rằng ấy là một trận động đất nhẹ, núi đổ hay sóng thần, nhưng thực ra đó là do sự khai ngộ của Thích Ca Mâu Ni. Đương nhiên năng lượng của Phật là từ bi và không làm hại ai cả. Sau 12 năm tu luyện vô cùng gian khổ, Thích Ca Mâu Ni rốt cuộc đã ngộ Đạo. Sau đó, Phật Thích Ca Mâu Ni liền bắt đầu cuộc đời truyền Pháp 49 năm của mình.

Đặc điểm của pháp môn tu luyện mà Thích Ca Mâu Ni truyền dạy là Giới, Định, Huệ. Giới chính là cấm tất cả dục vọng và tâm cố chấp, định là nói về người nhập định tu hành, huệ là nói về người khai ngộ khai huệ. Đại tạng kinh có mấy vạn quyển, đều không lìa xa 3 chữ này. Đương nhiên, hình thức biểu hiện của nó rất phong phú phức tạp, nhưng thực chất chính là 3 chữ này.

Lời nói và việc làm của mọi người đều trái với những điều mà các vị Phật thời tiền sử dạy bảo. Như vậy, Bà La Môn giáo tiến vào thời Mạt pháp. Trong thời gian ấy, Phật Pháp của Thích Ca Mâu Ni bắt đầu truyền rộng ra tại Ấn Độ.

Bởi Pháp mà Thích Ca Mâu Ni truyền chính là chính Pháp, trong quá trình truyền Pháp, Thích Ca Mâu Ni không ngừng bác bỏ các giáo lý của các tôn giáo khác, cho nên không ngừng có những người rời bỏ ngoại đạo đến quy y Phật giáo. Như một trong những đồ đệ của ông, người mà sau này trở thành Xá Lợi Phất ban đầu là người của Bà La Môn giáo.

Ông cùng Thích Ca Mâu Ni tranh luận, biết Phật Thích Ca Mâu Ni đang truyền chính pháp, bèn rời bỏ Bà La Môn giáo và trở thành người đệ tử có trí tuệ cao nhất của Phật Thích Ca Mâu Ni. Như vậy, Phật Pháp mà Thích Ca Mâu Ni truyền càng lúc càng cường thịnh, còn các tôn giáo kia càng lúc càng suy tàn. Phật Pháp dần dần bị các tôn giáo kia kỳ thị và phản đối.

Sau khi Phật Thích Ca Mâu Ni không còn trên thế gian, các tôn giáo khác bắt đầu hưng thịnh trở lại. Phật giáo ở Ấn Độ trải qua nhiều lần cải tổ, cuối cùng đã kết hợp với những thứ của Bà La Môn giáo, biến thành một loại tôn giáo mới là Ấn Độ giáo.

Ấn Độ giáo không còn tin Thích Ca Mâu Ni, cũng không thờ phụng một vị Phật nào cả. Do vậy, Phật giáo sinh ra tại Ấn Độ, cuối cùng lại dần dần bị tiêu biến ở Ấn Độ. Song tại Đông Nam Á, tại Trung Quốc, Phật Pháp đã truyền rộng khắp nơi, ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa của những quốc gia này.