17/01/2020
Điện thần và nghi thức hầu đồng Việt Nam
15/01/2020
Phượt là gì ? ? ?
05/01/2020
Ngẫm
04/01/2020
Luyện tập mỗi ngày, lưng và tư thế của bạn ắt sẽ cải thiện
Tư thế xấu ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe của bạn, là một trong những nguyên nhân gây ra chứng đau đầu, đau cổ, đến các vấn đề về hô hấp hay những thay đổi tâm trạng thất thường. Để phòng tránh tất cả những vấn đề này và “chỉnh đốn” lại tư thế, bạn có thể thử thực hiện tư thế đại bàng – Garudasana vài phút mỗi ngày.
Bước 1
Bước 2
Bước 3
Lưu ý
Lợi ích mà tư thế con đại bàng mang lại
Uống 2 loại nước giúp mạch máu trơn tru, không mảng bám
30/12/2019
Dao Ka-Bar
Ham mê về cơ khí và dao kiếm nên mình rất quan tâm đến các loại
vũ khí lạnh cổ kim của TG. Không có
tiền để sở hữu nên phải lên internet sưu tầm. Những kiến thức về chế tạo vũ khí
lạnh Đông Tây vô cùng phong phú và quý giá, có điều bị mai một dần bời sử phát
triển của khoa học và công nghệ - thật tiếc.
Được dịch từ tiếng Anh-Ka-Bar là tên gọi phổ
biến đương đại của con dao chiến đấu được Thủy quân Hoa Kỳ sử dụng lần đầu tiên
vào tháng 11 năm 1942 với tư cách là con dao chiến đấu 1219C2, và sau đó được
Hải quân Hoa Kỳ sử dụng làm con dao tiện ích của Hải quân Hoa Kỳ, Mark 2.
Đây là những con dao chuẩn thuở ban đầu của Kar – Bar
Cái tên Ka-Bar xuất phát từ năm 1923 khi
hãng cơ khí Union Cutlery Co. (được thành lập từ tận năm….1800) tuyên
bố một câu chuyện thú vị: một người thợ săn đã dùng dao của họ để giết 1 con
gấu bị thương sau phát đạn đầu tiên, nhưng chưa gục ngã và tiếp tục tấn công
khi súng của người thợ săn bị kẹt đạn. Từ “Ka-Bar” là nói chệch đi từ “kill
bear” (giết gấu). Không ai có thể xác định được câu chuyện này có thật hay
không, nhưng thương hiệu Ka-Bar bắt đầu nổi như cồn từ thời điểm đó.
21/12/2019
Tản mạn về Anh hùng
Tôi thế hệ 6x chắc giống
nhiều người trước và đến thế hệ 7x hoặc cả lớp trẻ sau này đều đọc và thích rồi
ngưỡng mộ các nhân vật trong các tác phẩm văn học Trung Quốc như Đông Chu Liệt
Quốc, Tam quốc, Hán Sở tranh hùng, Thuyết Đường, Thủy hử vv... với các nhân vật
như Hàn Tín, Hạng Vũ, Khổng Minh, Chu Du, Quan Công, và vô số các
anh hùng khác.
Mình thấy Trung Hoa
là cái nôi sản sinh không ngừng các danh tướng kiệt xuất của nhân loại.
Nhưng, lùi xa một
chút, có một cảm giác không hẳn là ổn. Lịch sử Trung Hoa chứa đựng một quá
trình chiến đấu không ngừng với các bộ lạc phương Bắc. Và xem ra, họ không mấy
thành công. Để tiện so sánh, tính từ thế kỷ 10 khi Việt Nam giành độc lập cho đến
thời cận đại, Trung quốc trải qua bốn triều đại phong kiến Tống, Nguyên, Minh,
Thanh. Hai trong số đó (Nguyên và Thanh) được lâp ra qua sự xâm lược của người
Mông cổ và người Mãn, các bộ tộc phương Bắc có dân số kém Trung quốc mấy chục lần.
Dưới triều đại nhà Tống, Trung quốc cũng có đến quá nửa thời gian khốn đốn đối
phó với các cuộc xâm lược của Liêu và Nữ Chân, và chịu mất một nửa lãnh thổ cho
đến khi bị diệt vong. Trong cùng thời gian đó, người Việt chỉ có chừng 20 năm mất
tự chủ sau khi nhà Hồ bị đánh bại.
Vậy trong thời gian rất
dài đó, các tướng như vậy ở Trung Hoa kiệt xuất ở đâu ?
Nếu để ý, các nhân vật
lỗi lạc được nêu ở trên, và phần lớn các tướng Trung Hoa oai phong mà các bạn
biết, đều là anh hùng của các cuộc nội chiến.
Không lẽ Trung quốc
không sản sinh ra một đội ngũ đông đảo các tướng lĩnh ngang tầm trong các cuộc
chiến đấu chống ngoại xâm, diễn ra trong một quá trình rất dài ? Hay đơn giản
là các viên tướng của những kẻ xâm lược đã xuất sắc hơn họ ?
Lan man thêm một
chút, Trung Hoa là nước có chữ viết rất sớm. Các sự kiện, hay truyền thuyết, được
ghi lại rất chi tiết. Các ghi chép công phu cùng số lượng không nhỏ các truyền
thuyết về một nhân vật nôi tiếng là nguyên liệu dồi dào cho các nhà văn. Tầm vóc
của các bác tướng Trung Hoa chắc phải cảm ơn rất nhiều ngòi bút siêu việt của
các nhà văn đồng hương.
Trong một ví dụ tiêu
biếu, ta thử phân tích sự nghiệp của Khổng Minh, có thể nói là một soái được nhắc
tới nhiều nhất như một quân sư đại tài trong lịch sử Trung quốc.
Không nghi ngờ gì, Khổng
Minh là môt người thông minh và có kiến thức cao trong rất nhiều lĩnh vực, liêm
khiết và tận tâm với nhiệm vụ. Nhưng thiên tài quân sự của ông phần nhiều được
tưởng tượng ra bởi La quán Trung, tác giả tiểu thuyết Tam quốc có ảnh hưởng rất
sâu rộng trong văn học sử và cả đời sống hàng ngày.
Các mưu mẹo tuyệt vời
của Khổng Minh được viết đến cực nhiều trong Tam quốc, và vô số sách “ăn theo”
sau đó (Tam quôc ngoại truyện, vvv). Nhưng nếu đọc kỹ, rất khó có thể phân biệt
giữa truyền thuyết và sự thật, và khá nhiều chi tiết mang tính thần thánh hoá,
cho trẻ con đọc cho vui (chẳng hạn Thạch trận đồ). Để khách quan, ta sẽ dựa vào
các nét lớn được lich sử ghi nhận mà thôi.
Công bằng mà nói,
viên tướng xuất sắc nhất trong quân Thục, chính là Lưu Bị. Hai chiến dịch thành
công lớn, lấy Đông Xuyên và Tây Xuyên, đều do ông trực tiếp chỉ huy, với tham
mưu là Pháp Chính, Bàng Thống, chứ không phải Khổng Minh.
Khi Lưu Bị lên ngôi,
Pháp Chính là ngừoi nắm quyền cao nhất. Nguỵ Diên được làm thái thú Hán Trung,
vị trí quan trọng sau Thành đô, cũng nhờ công lao của ông ta trong hai chiến dịch
trên.
Sau khi Lưu Bị mất,
các chiến dịch do Khổng Minh chỉ huy chống lại nước Nguỵ, mặc dầu được tả hết sức
hấp dẫn với nhiều mưu mẹo tuyệt vời làm mọi người thích mê, đã không thu được lợi
ích gì nhiều.
Quân Thục dưới quyền
Khổng Minh chưa bao giờ tiến sâu được vào nước Nguỵ, và sau 6 lần xuất quân, đường
biên giới hai nước gần như không thay đổi. Trong toàn bộ cuộc chiến, trận đánh
lớn nhất ở Nhai Đình, quân Thục thua và thiệt hại rất nặng.
Trong khi đó, Hàn Toại
và Mã Siêu, trước đó không lâu, đã chiếm được Tràng An, thành phố trung tâm về
phía Tây của nhà Nguỵ, môt cách tương đối dễ dàng.
Chíến dịch thành công
nhất của Khổng Minh là cuộc chinh phục các bộ tộc phương nam (bình Mạnh Hoạch).
Các chi tiết được La quán Trung mô tả rất ly kỳ, nhưng đã được đẩy cao lên quá
tầm quan trọng của chúng.
Đây là lần đầu
tiên Khổng Minh trực tiếp cầm một đạo quân lớn, và để chắc ăn, ông mang theo ba
viên tướng giỏi nhất lúc đó của nhà Thục là Triệu Vân, Nguy Diên và Mã Đại, mà
có lẽ bất kỳ ai trong số họ cũng đủ sức điều khiển toàn bộ chiến dịch thành
công.
Vài năm trước đó, Tào
Chương (con trai Tào Tháo) bình đinh bộ lạc Ô Hoàn ở miền Bắc, một nhiệm vụ
không kém khó khăn, mà không dùng bất kỳ đại tướng nào của bố.
Khổng Minh chọn
Khương Duy, học trò cưng của mình, làm người kế nghiệp về mặt quân sự. Kế tục sự
nghiệp của thầy, Khương Duy tiếp tục tấn công nước Nguỵ. Các cuộc ra quân liên
miên này không mang lại ích lợi gi đáng kể , và đã làm nước Thục kiệt quệ về mặt
kinh tế, dẫn tới sự sụp đổ chỉ 30 năm sau khi Khổng Minh mất.
Một nhân vật Việt Nam
có hoàn cảnh tương tự như Khổng Minh là Đào Duy Từ. Trong thời ông (thế kỷ 17),
bối cảnh Việt Nam khá giống thời Tam Quốc.
(Theo Bách khoa
toàn thư mở Wikipedia - Đào Duy
Từ (chữ Hán: 陶維慈, 1572-7/12/1634) là nhà quân sự, nhà thơ[1] và
nhà văn hóa, danh thần thời
chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Chỉ vỏn
vẹn 8 năm phò Chúa Sãi từ 1627 đến 1634 nhưng Đào Duy Từ đã khắc hoạ hình ảnh đặc
dị một người thầy của Chúa Sãi, một học giả, một chính trị gia, một chiến lược
gia, một kiến trúc gia, một kỹ thuật gia, một nghệ sư tài hoa, là người góp phần
định hình được nhà nước, địa lý và bản sắc Đàng Trong. Vì vậy ông được coi là đệ
nhất khai quốc công thần của họ Nguyễn và được thờ ở nhà Thái miếu.[2])
Chúa Trịnh lập vua Lê
lên ngôi, nhưng giữ hết quyền hành. Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Quảng, xây
dựng căn cứ phía Nam. Ngoài Bắc con cháu nhà Mạc vẫn giữ Cao Bằng.
Đến lúc Đào Duy Từ
lên nắm quyền (1627), nhà Mạc đã về hàng chúa Trịnh, Trịnh Tráng quyết tâm bình
định phương Nam. Thế lực họ Trịnh hơn họ Nguyễn nhiều lần. Về qui mô, số dân
Đàng trong và Thục có lẽ cũng xấp xỉ nhau (nươc Thục thời Tam quốc có chừng 1
triệu dân).
Giống Khổng Minh, Đào
Duy Từ được chúa Nguyễn tin dùng, cất nhắc từ thư sinh lên làm tể tướng. Ông chấp
chính, đắp luỹ để phòng thủ. Đàng Trong lực lượng mỏng hơn nhưng nhờ chiến luỹ
chắc chắn chặn được biết tiến của chúa Trịnh, quân dân không bị tổn hại nhiều.
Ông không Bắc tiến, mà chủ trương Nam tiến khai khẩn bờ cõi, cùng lúc giúp chúa
Nguyễn xây dựng được đinh chế chính quyền rất được lòng dân, đặt nền móng cho một
thể chế lâu dài.
Đào Duy Từ cầm quyền
vỏn vẹn 8 năm, mà đặt được nền móng 100 năm cho cơ nghiêp của các chúa Nguyễn,
được nối tiếp thêm bởi các vua nhà Nguyễn sau đó, tồng cộng hơn 300 năm.
Những người được ông
tiến cử như Nguyễn Hữu Dật, Nguyễn Hữu Tiến chẳng những giữ được thế cân bằng về
quân sự với Đàng Ngoài, mà còn góp phần quyết định cho cuộc khai khẩn phương
Nam của người Viêt. Con trai của Nguyễn Hữu Dật là Nguyễn Hữu Cảnh là người xác
định chủ quyền của người Việt tại Sài gòn-Gia Định.
Đến đời Nguyễn Ánh,
Đàng Trong và Đàng Ngoài đã có dân số xấp xỉ nhau. Sự trù phú của đất phương
Nam và ảnh hưởng của các chúa Nguyễn ở đây là yếu tố quyết định giúp ông thống
nhất được Viêt Nam sau một cuộc nội chiến dai dẳng. Về sự nghiệp mà nói, có thể
nói Đào Duy Từ đã thành công hơn người đồng nghiệp phương Bắc Khổng Minh rất
nhiều.
Như vậy, đọc internet
và sách báo Lịch sử Ta tôi mới Ngộ ra là thần tượng vốn dĩ tồn tại chỉ do Ta
không chịu khó đọc sách và suy nghĩ mà thôi.
Nước Việt nhỏ nhưng
Anh Hùng đâu ít … Xa như dưới thới Bắc thuộc không có tài liệu và sách nhưng sau
thới đó thì sao ?... và cả nay nữa ?
20/12/2019
Anh ngủ thêm đi anh Em phải dậy lấy chồng
Em phải dậy lấy chồng
Mùa thu vừa rụng lá
Lòng em đã sang đông.
Đừng tin và đừng nghi
Hãy bình thường mà sống
Em lấy… kẻo lỡ thì.
Rất thương và rất nhớ
Rất cần nhưng không thể
Cưới em? Chuyện trong thơ
Giải thích và phân bua
Chỉ cần anh im lặng
Em đã hiểu: Mình thừa.
Chẳng còn gì luyến tiếc
Ừ! Thôi lên xe hoa
Bên chồng mà câm điếc.
Em dậy đeo nhẫn cưới
Kẻ mắt môi cô dâu
Tím ngực buồn rười rượi
Thương mà sao vậy anh
Em – đàn bà yếu đuối
…Muốn đời mình duyên lành
Mạnh mẽ để làm chồng
Cởi áo mà không dám
Mặc cho em váy hồng?
Nhắm mắt và câm điếc
Em cười nụ cuối cùng
Giễu đời này quá nghiệt.