16/01/2021

Kiến trúc đình làng Bắc Bộ

Tạp chí Kiến trúc số 11-2017

Giản dị và trang nhã, mộc mạc song không kém phần tinh tế, đình làng được ấp ủ dưới những bóng cây, không phô trương, trấn áp mà bình dị, lạc quan… Kiến trúc, mỹ thuật đình làng mang các yếu tố thuần Việt riêng biệt, thể hiện sự trở về, tiếp nối truyền thống văn hóa Đông Sơn, là biểu tượng sống động, chân thực, thành quả nghệ thuật kết tinh hàng ngàn năm của người Việt.

Đình Chu Quyến

Tư duy văn hóa thần linh ở gần cõi người, truyền thống canh tác nông nghiệp lâu đời gắn chặt với đất, với trời nên người Việt ngay từ khi hình thành ý tưởng xây dựng đã luôn có một ý thức sâu sắc về sự hòa hợp với thiên nhiên. Trong môi trường khí hậu có sự thay đổi lớn và thất thường (bão lụt, hạn hán, nắng nóng, lạnh giá…) thì sự cân bằng, ổn định là yếu tố được đề cao. Các loại hình kiến trúc dân gian truyền thống của người Việt đều có xu hướng phát triển theo chiều ngang, bám chặt xuống đất để tạo thế cân bằng và ổn định. Kiến trúc đình làng cũng vậy, nó là thành quả tuyệt vời, thể hiện cách ứng xử khéo léo của cha ông ta đối với môi trường sống, vừa chế ngự, hạn chế sự khắc nghiệt của thiên nhiên, vừa linh hoạt khôn khéo tận dụng những điều kiện thuận lợi để tồn tại và phát triển.

Tầm thước và giản dị, kích thước đình làng thể hiện tỉ lệ tương quan hợp lý với cảnh quan thiên nhiên, giữa các bộ phận của từng cấu kiện, tạo hiệu quả thẩm mỹ cao. Kỹ thuật lợp ngói hai lớp làm cho mái đình dầy và nặng, có thể chống được các cơn gió giật, đồng thời có tác dụng điều hòa nhiệt độ bên trong. Mái đình sà xuống thấp để tránh mưa hắt, chung quanh không cần tường bao che, thông thoáng tứ bề. Về sau, mái đình cao lên và nhẹ đi thì phần phía trước thường có cánh cửa theo kiểu “thượng song hạ bản”, rất thoáng mát. Mô thức nhà sàn và các đầu đao uốn cong là yếu tố đặc sắc có tính bản địa của kiến trúc đình làng ở đồng bằng Bắc Bộ. Nó giúp ta phân biệt với các kiến trúc khác ở Việt Nam và khu vực.

Người Việt tư duy thực tế, đình làng được hình thành như một thiết chế tổng hợp, đa chức năng, vừa có sự linh thiêng của tín ngưỡng, vừa có uy lực thế tục của chính thể quân chủ, đồng thời lại hòa đồng gần gũi với đời sống dân dã. Ngôi đình đặt ở đâu, thì tạo ra trung tâm làng ở đó. Vị trí dựng đình được chọn lựa rất kỹ theo thuyết phong thủy vì người ta cho rằng nó liên quan đến sinh mệnh cả làng. Đình to lớn, bề thế, nhưng không gây cảm giác trấn áp, kiến trúc không nặng nề, rườm rà nhưng vẫn có vẻ oai nghiêm nhất định.

Đình Bảng

Mái là yếu tố đặc sắc nhất của đình. Khi xây dựng, những người thợ đã làm cho 4 góc mái đình kéo cong về 4 phía tạo thành các đầu đao duyên dáng làm cho kiến trúc trở nên nhẹ đi, như bay bổng trong không gian. Nghệ thuật lợp mái và lát sàn theo chiều ngang hòa nhập vào cảnh quan, các thành phần của kiến trúc được thực hiện một cách tinh xảo. Những cột, kèo và những chi tiết cấu thành khác luôn luôn được khéo léo phô ra trong sự đơn giản tự nhiên của nó. Những đường mái thẳng hơi võng xuống, những bình đồ không cân đối giao hòa bằng nhịp điệu tinh tế theo độ cao thấp tự nhiên của mặt đất. Dưới bộ mái trùm rộng ra, ngôi đình thể hiện sức khái quát lớn, khiến ta liên tưởng về một sự che chở, ôm ấp, vỗ về…


Đình Đồng Ngạc

Hình thái không gian đình không cố định, thích ứng với địa thế, địa cảnh cụ thể. Mái đình che gần hết không gian bên trong, ở đây không có tín hiệu thị giác nào điều khiển tâm thức theo một nghi lễ định sẵn trừ khi làng có việc. Cơ chế tồn tại của làng phản ánh rõ ở không gian của đình. Nó nặng tính thích ứng hơn chinh phục, linh hoạt do luôn có “độ lơi” trong cấu trúc, dễ dung hợp bởi đa năng, tự điều chỉnh hơn phải can thiệp là những giá trị của văn hóa ở mà người làng tạo ra cho không gian đình.

Trong tinh thần ấy, đình làng không phải là vật để ngắm nhìn mà là thực thể để thực hành. Bản thân nó là một không gian văn hóa đa tầng, nhiều ngữ nghĩa. Không gian đình là không gian “đời” của làng. “Ở đó có nước mắt và lọn tóc của ả làng bị bắt vạ, có niềm thâm nghiêm và hư hãnh khi rước sắc phong, có vết lằn của chiếu chèo, chiếu cỗ trên mặt đất nện hay sân gạch. Tiếng to, tiếng nhỏ khi ăn chia, giọng lễ, giọng vặt khi đón bạn hát ngày xuân, đến đình người ta sống thật, cởi mở và chân tình với nhau hơn…” – KTS Nguyễn Luận.



Đình Hương Lộc

“Nhà kiến trúc trước hết là một người thợ mộc” (M.Gonse). Những người thợ của làng quê Việt Nam đã nâng tình yêu đối với thiên nhiên cây cỏ lên tới đỉnh cao bằng việc đẽo gọt, vuốt ve từng thớ gỗ trên cấu kiện của đình. Cái đẹp của gỗ còn quý hơn cái vĩnh cửu của công trình làm nên. Từ tầm thước quy định của cây gỗ, người thợ áp vào đó một kích cỡ vừa phải, tương ứng với đầu óc chừng mực của họ. Từ bàn tay mềm mại, tạo tác nhanh chóng của họ, từng chất liệu, kết cấu được hiện ra, thời gian phủ lên lớp rêu phong khiến đình hiện lên một cách tự nhiên, chân thật và tôn quý.

Mái đình cong hình thuyền, sống nhà cong, cấu trúc sàn còn lưu lại theo truyền thống văn hóa Đông Sơn, kỹ thuật ghép mộng, phân lực lên các chân cột làm cho kiến trúc linh hoạt, động và biến hóa. Trong khuôn khổ có hạn của các khuôn gỗ, các chi tiết vẫn hiện lên duyên dáng, đầy ấn tượng với cái nhìn từ hai góc. Kiến trúc đình mở, thông thoáng, thoải mái, dân tự góp, tự làm khuyến khích tùy hứng sáng tạo, các thủ pháp điêu khắc đa dạng, không phân biệt đẳng cấp, mang hơi thở của tinh thần dân chủ, khoan dung từ rất sớm (thờ nhiều thần, hỗn dung tôn giáo, không có cực quyền, cuồng tín…).

Mỹ thuật đình làng chứa đựng nhiều giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc, độc đáo mà trong lịch sử mỹ thuật Việt Nam, chưa từng có một di sản văn hóa nào. Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc đình làng có giá trị nghệ thuật độc đáo, không có sự lặp lại ở các nền mỹ thuật khác. Nó là tác phẩm của những nghệ nhân dân gian. Nghệ thuật xuất phát từ đời sống, từ cái nhìn có tính bản năng thuần phác của người nông dân. Khi sáng tạo, người nghệ sĩ – nông dân không bị câu thúc bởi bất cứ quy chuẩn tạo hình nào. Họ tự do bộc lộ cái cảm tự thân về hiện thực, bằng bất kỳ thủ pháp nào mà người nông dân cho là phù hợp với bản năng nguyên phác của họ. Trong họ đồng thời có hai con người: Người nghệ nhân với kỹ thuật chạm khắc điêu luyện và người nghệ sĩ với sự tự do trong tưởng tượng, phản ánh, thể hiện và miêu tả hiện thực. Nhiều thủ pháp tạo hình được sử dụng để sáng tạo ra các bức chạm khắc, thể hiện cái nhìn hồn nhiên, mộc mạc, hóm hỉnh, đầy sức sống như cái nhìn của trẻ thơ.

Điều làm cho các nhà nghiên cứu nghệ thuật nước ngoài ngạc nhiên, thú vị là các tác phẩm điêu khắc đình làng có những nét rất hiện đại, có sự gặp gỡ với những tác phẩm điêu khắc hiện đại phương Tây. Bức đánh cờ ở đình Ngọc Canh có con mắt viễn – cận ngược chiều, từ trong tỏa ra, từ trên nhìn xuống, mỗi nhân vật được vặn theo một không gian riêng, như trong hội họa hiện đại. Ta nhận thấy ở đây cái cảm xúc chân thật, ý muốn giãi bày một hiện thực toàn diện. Con mèo ngoạm cá ở đình Bình Lục lại được vạc đẽo bằng những nhát đục thô gãy, bẳn gắt, như hội họa biểu hiện. Một nét độc đáo của mỹ thuật đình làng là sự xử lý rất thông minh mối quan hệ giữa kiến trúc và điêu khắc trang trí. Các bức phù điêu trang trí với số lượng lớn được gắn vào khung gỗ chịu lực, lấp các khoảng trống của kiến trúc. Điêu khắc không lấn át kiến trúc, mà tôn trọng và tô điểm cho kiến trúc. Ngôi đình trở nên đẹp đẽ và thiêng liêng hơn.



Đình Tây Đằng (Ba Vì, Hà Nội)

Như một quy luật, kiến trúc dân gian truyền thống Việt Nam nói chung và kiến trúc đình làng nói riêng đều tuân theo nguyên tắc tính đăng đối. Tính đăng đối là một thuộc tính của tự nhiên và nghệ thuật. Thật ra, trong nghệ thuật truyền thống Việt Nam, với tính dân gian đậm đặc, tính đăng đối không đạt tới sự đối xứng tuyệt đối của toán học. Bản chất của nó là sự lặp lại có quy luật, tạo nhịp điệu, làm cho kiến trúc trở nên sinh động, giàu tính trang trí, tác động đến thị giác tạo ấn tượng thẩm mỹ. Nó cũng tác động đến cảm giác, tạo sự ổn định, bền vững, thể hiện nhu cầu thường hằng của cư dân nông nghiệp.

Cũng đăng đối nhưng nếu như kiến trúc truyền thống Trung Hoa nổi bật với màu đỏ rực rỡ của sơn ở cấu kiện gỗ, màu men vàng, xanh của ngói ống, nét duyên dáng, uyển nhã, có xu hướng nổi bật, hướng ngoại, cầu kỳ, thì đình làng Việt mang màu sắc tự nhiên, chân thực của vật liệu, nét rêu phong cổ kính của mái ngói, cái mộc mạc, nguyên sơ của gỗ. Công trình có xu hướng trầm, hướng nội như bị hút xuống đất và lẫn vào không gian cảnh quan… Đình chủ yếu là gỗ, gạch, đá tham gia không đáng kể. Do có sàn, nên thềm và nền đình ít được chú trọng chăm chút, kiến trúc mở, để thoáng xung quanh, công trình gần gũi với con người, chạm khắc của đình nhiều và phong phú làm cho các kết cấu gỗ trở nên mềm mại, uyển chuyển, không gian trở nên sinh động hơn.

Đồng bằng Bắc Bộ phì nhiêu màu mỡ là cái nôi của nền văn hóa Việt Nam. Kiến trúc và mỹ thuật đình làng Bắc Bộ (từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19 đầu 20) đánh dấu đỉnh cao trong nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc Việt Nam, chứa đựng những giá trị nhiều mặt về văn hóa, lịch sử, nghệ thuật vô cùng quý báu, chứa đựng nhiều yếu tố thuần Việt, nguyên bản, không thấy lặp lại ở các nền văn hóa khác. Bản sắc văn hóa dân tộc Việt được bộc lộ qua tư duy thẩm mỹ, thể hiện qua thức kiến trúc, mối quan hệ giữa kiến trúc và môi trường, qua các thủ pháp nghệ thuật, các môtíp, họa tiết, hình khối, đường nét, màu sắc…đặc biệt là “hồn cốt” của dân tộc toát lên từ những mái đình đơn sơ và bình dị.

 


13/01/2021

Ngàn năm áo mũ

 

Ngàn năm áo mũ
Ngan-nam-ao-mu.jpg
Ấn bản năm 2013
Thông tin sách
Tác giảTrần Quang Đức
Quốc giaViệt Nam
Ngôn ngữTiếng Việt
Chủ đềCổ phong
Nhà xuất bảnNhã Nam
Nhà xuất bản Thế giới
Ngày phát hành29 tháng 5 năm 2013
Kiểu sáchbìa mềm
Nhà xuất bảnNhà xuất bản Thế giới
   Tác giả cho rằng có hai tư tưởng lớn ảnh hưởng đến trang phục cung đình Việt Nam là tư tưởng Đế vương và quan niệm Hoa di (cho mình là người văn minh ở trung tâm), nền văn hóa cung đình ảnh hưởng lớn đến cấu trúc trang phục và trang phục của Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng của những quốc gia chung quanh, đặc biệt là từ Trung Quốc nhưng với tâm thức của người đứng ngang hàng.

   Theo tác giả viết trong lời kết của sách: “Ngàn năm áo mũ thể hiện một góc nhìn lịch sử, tư tưởng, mỹ thuật Việt Nam thông qua dòng chảy biến thiên của văn hóa trang phục; đồng thời làm rõ những điểm tương đồng và khác biệt giữa trang phục Việt Nam so với trang phục của các nước đồng văn, đặc biệt là Trung Quốc”. Nhà nghiên cứu Trịnh Bách nhận xét trong lời tựa sách: “Có lẽ đây là một trong những tập tài liệu văn hóa, lịch sử trang phục được nghiên cứu sâu và được biên soạn kỹ nhất ở Việt Nam, nếu không nói là quốc tế, cho đến nay”.

   Xin trân trọng giới thiệu đến các bạn quan tâm nội dung cuốn sách:

   http://vannghiep.vn/wp-content/uploads/2016/09/Ng%C3%A0n-n%C4%83m-%C3%A1o-m%C5%A9.pdf


31/12/2020

Nguyên tắc khi mua nhà, đất

      Để an toàn khi mua nhà, đất - mình xin tư vấn đ người mua cần nắm được các nguyên tắc sau:

"3 không, 5 nhớ" khi mua nhà, đất:

1.    Nhớ, chỉ mua nhà, đất khi có Sổ đỏ

2.    Nhớ kiểm tra Sổ đỏ giả, quy hoạch, thế chấp, đất bán cho nhiều người

3.    Nhớ cách đặt cọc đúng Luật

4.    Nhớ cẩn trọng khi giá đất rẻ bất ngờ

5.    Nhớ cách thỏa thuận các điều khoản trong hợp đồng

6.    Không trả hết tiền khi chưa sang tên Sổ đỏ xong

7.    Không mua bán nhà, đất bằng giấy viết tay

8.    Không chuyển nhượng nhà ,đất bằng vi bằng

Nhớ chỉ mua nhà, đất khi có Sổ đỏ

Khoản 1 Điều 188 Luật Đất đai 2013 quy định người sử dụng đất được thực hiện quyền chuyển nhượng khi có đủ điều kiện sau:

"a) Có Giấy chứng nhận, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 186 và trường hợp nhận thừa kế quy định tại khoản 1 Điều 168 của Luật này.

b) Đất không có tranh chấp.

c) Quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án.

d) Trong thời hạn sử dụng đất".

Như vậy, nếu người chuyển nhượng không có Giấy chứng nhận thì không nên mua, trừ 02 trường hợp: Khi nhận thừa kế quyền sử dụng đất thì người sử dụng đất được thực hiện quyền chuyển nhượng khi có Sổ đỏ hoặc đủ điều kiện để cấp Sổ đỏ, quy định tại khoản 1 Điều 168 của Luật Đất đai 2013.

Trường hợp tất cả người nhận thừa kế quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất đều là người nước ngoài hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài không thuộc đối tượng được mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam thì người nhận thừa kế không được cấp Sổ đỏ nhưng được chuyển nhượng, tặng cho, quy định tại khoản 3 Điều 186 Luật Đất đai 2013

Nhớ kiểm tra Sổ đỏ giả, quy hoạch, thế chấp, đất bán cho nhiều người

* Cách kiểm tra sổ đỏ giả: Để kiểm tra Giấy chứng nhận thật hay giả sẽ có một số cách như: Kiểm tra trực tiếp các thông tin trên Giấy chứng nhận, xin thông tin tại Văn phòng đăng ký đất đai,…

Mặc dù có nhiều cách khác nhau nhưng không phải ai cũng có kinh nghiệm kiểm tra trực tiếp trên Giấy chứng nhận. Do vậy, cách tốt nhất để kiểm tra Giấy chứng nhận thật hay giả là xin thông tin đất đai tại Văn phòng đăng ký đất đai (nếu thửa đất chưa được cấp thì chắc chắn Giấy chứng nhận đó là giả).

 * Cách kiểm tra nhà đất thuộc quy hoạch

Để biết thửa đất thuộc quy hoạch hay không thì người dân có nhiều cách kiểm tra như sau:

- Xem quy hoạch sử dụng đất trực tiếp tại trụ sở UBND cấp huyện (huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh), cấp xã (xã, phường, thị trấn).

- Xem trên cổng thông tin điện tử của UBND cấp huyện.

- Hỏi ý kiến công chức địa chính cấp xã hoặc người dân tại khu vực có thửa đất để biết thêm thông tin.

- Xin thông tin tại Văn phòng đăng ký đất đai.

* Cách kiểm tra thông tin thế chấp, thửa đất chuyển nhượng cho nhiều người

Căn cứ theo khoản 3 Điều 188 Luật Đất đai 2013, việc thế chấp quyền sử dụng đất có hiệu lực kể từ khi đăng ký vào sổ địa chính. Do vậy, để kiểm tra thông tin thế chấp thì nên xin thông tin tại Văn phòng đăng ký đất đai.

Mặt khác, trong phiếu xin thông tin đất đai nếu tích vào ô lịch sử biến động hoặc ô tất cả các thông tin trên thì sẽ biết thửa đất đó đã được chuyển nhượng cho ai.

Nhớ cách đặt cọc đúng Luật

Trước khi ký hợp đồng chuyển nhượng thông thường các bên đặt cọc để "làm tin". Quy định về đặt cọc và phạt vi phạm được quy định rõ tại Điều 328 Bộ luật Dân sự 2015 như sau:

"1. Đặt cọc là việc một bên (sau đây gọi là bên đặt cọc) giao cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận đặt cọc) một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác (sau đây gọi chung là tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng.

2. Trường hợp hợp đồng được giao kết, thực hiện thì tài sản đặt cọc được trả lại cho bên đặt cọc hoặc được trừ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền; nếu bên đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc; nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác".

Như vậy, việc đặt cọc nên lập thành văn bản có chữ ký đầy đủ của các bên và nên có người làm chứng; mặc dù không bắt buộc phải công chứng hoặc chứng thực nhưng nếu số tiền đặt cọc lớn nên công chứng, chứng thực.

Lưu ý: Người nhận chuyển nhượng có thể thỏa thuận với người chuyển nhượng về việc ghi giấy nhận tiền là "tiền trả trước" thay vì ghi đặt cọc; vì không phải là đặt cọc nên khi không giao kết, thực hiện hợp đồng thì không bị phạt vi phạm (không bị phạt cọc).

 Nhớ cẩn trọng khi giá nhà, đất rẻ bất ngờ

Thích mua hàng giá rẻ là tâm lý chung của nhiều người, khi chuyển nhượng đất đai cũng vậy. Nếu giá đất rẻ "bất ngờ" so với mặt bằng chung tại khu vực đó thì cần cẩn trọng hơn, nhất là đất phân lô, bán nền. Trường hợp không đủ điều kiện chuyển nhượng thì không nên ký hợp đồng chuyển nhượng.

Trên thực tế, mặc dù biết thửa đất không đủ điều kiện chuyển nhượng (khi đó giao dịch sẽ vô hiệu) nhưng vì lợi ích thì nhiều người vẫn ký hợp đồng và chấp nhận rủi ro để đầu tư "mạo hiểm".

Ví dụ: Đất chưa được cấp Giấy chứng nhận nhưng không phải vì không đủ điều kiện cấp mà khó thực hiện. Nếu người chuyển nhượng thiện chí và cần tiền thì có thể cân nhắc để ký hợp đồng chuyển nhượng; sau đó đề nghị cấp Giấy chứng nhận cho người chuyển nhượng và khi có Giấy chứng nhận thì thực hiện thủ tục sang tên sau.

Nhớ cách thỏa thuận các điều khoản trong hợp đồng

Điều 500 Bộ luật Dân sự 2015 quy định hợp đồng về quyền sử dụng đất như sau:

"Hợp đồng về quyền sử dụng đất là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó người sử dụng đất chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất hoặc thực hiện quyền khác theo quy định của Luật đất đai cho bên kia; bên kia thực hiện quyền, nghĩa vụ theo hợp đồng với người sử dụng đất".

Như vậy, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là một loại cụ thể của hợp đồng dân sự nên các bên được thỏa thuận các điều khoản, miễn sao nội dung không được trái luật, đạo đức xã hội.

Người nhận chuyển nhượng để tránh rủi ro thì cần thỏa thuận trong hợp đồng các điều khoản sau:

- Yêu cầu người chuyển nhượng cam kết các giấy tờ phải bảo đảm tính pháp lý (không phải giấy tờ giả), thửa đất không thuộc quy hoạch, tại thời điểm chuyển nhượng không có tranh chấp với ai.

- Thanh toán thành nhiều đợt, chỉ thanh toán hết khi đăng ký vào sổ địa chính (khi sang tên xong).

- Thỏa thuận điều khoản phạt vi phạm hợp đồng; mức phạt vi phạm do các bên thỏa thuận, không khống chế mức phạt vi phạm.

Không trả hết tiền khi chưa sang tên Sổ đỏ xong

Khoản 3 Điều 188 Luật Đất đai 2013 quy định:

"Việc chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất phải đăng ký tại cơ quan đăng ký đất đai và có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký vào sổ địa chính".

Như vậy, việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất chỉ có hiệu lực khi đăng ký vào sổ địa chính; nếu chưa đăng ký vào sổ địa chính thì không nên trả hết tiền cho người chuyển nhượng.

Không mua bán nhà, đất bằng giấy viết tay

Điểm a khoản 3 Điều 167 Luật Đất đai 2013 quy định:

"a) Hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất phải được công chứng hoặc chứng thực, trừ trường hợp kinh doanh bất động sản quy định tại điểm b khoản này".

Như vậy, từ ngày 01/7/2014 đến nay khi chuyển nhượng nhà đất phải công chứng hoặc chứng thực hợp đồng chuyển nhượng, nếu không sẽ vô hiệu vì vi phạm hình thức, trừ trường 02 trường hợp sau:

- Một hoặc các bên chuyển nhượng là tổ chức hoạt động kinh doanh bất động sản.

- Một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất 2/3 nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực (theo khoản 2 Điều 129 Bộ luật Dân sự 2015).

Không chuyển nhượng nhà, đất bằng vi bằng

Điều 36 Nghị định 08/2020/NĐ-CP quy định về thẩm quyền, phạm vi lập vi bằng, giá trị pháp lý của vi bằng như sau:

"1. Thừa phát lại được lập vi bằng ghi nhận các sự kiện, hành vi có thật theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi toàn quốc, trừ các trường hợp quy định tại Điều 37 của Nghị định này.

2. Vi bằng không thay thế văn bản công chứng, văn bản chứng thực, văn bản hành chính khác.

3. Vi bằng là nguồn chứng cứ để Tòa án xem xét khi giải quyết vụ việc dân sự và hành chính theo quy định của pháp luật; là căn cứ để thực hiện giao dịch giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật.

4. Trong quá trình đánh giá, xem xét giá trị chứng cứ của vi bằng, nếu thấy cần thiết, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân có thể triệu tập Thừa phát lại, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác để làm rõ tính xác thực của vi bằng. Thừa phát lại, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác phải có mặt khi được Tòa án, Viện kiểm sát nhân dân triệu tập".

Như vậy, vi bằng không có giá trị thay thế hợp đồng chuyển nhượng có công chứng, chứng thực; mà theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 167 Luật Đất đai 2013 thì phải công chứng hoặc chứng thực hợp đồng khi chuyển nhượng nhà đất. Hay nói cách khác, vi bằng không thể sang tên Giấy chứng nhận.