Mình thích lịch sử và văn hiến Việt Nam nên đã đọc nhiều sách và tài liệu về chủ đề này, trong đó có cuốn “Việt Nam sử lược” của ông Trần Trọng Kim. Tìm hiểu về ông qua báo Nhân dân, Viện bảo tàng Lịch sử Việt Nam và Wikipedia… nên mạo muội gửi tới các bạn 1 giai đoạn ngắn của lịch sử Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám.
Trần Trọng Kim và một số trí thức có tiếng tăm được giao thành lập nội các ở Huế vào ngày 17 tháng 4 năm 1945. Đây là một dạng chính phủ nghị viện đầu tiên tại Việt Nam và Trần Trọng Kim trở thành Thủ tướng đầu tiên của Việt Nam.
Một chính phủ được thành lập trong bối cảnh lịch sử như chính phủ Trần Trọng Kim, thông thường dễ bị coi là thân Nhật, là tay sai Nhật. Và thực tế đã bị coi như vậy. Giáo sư Đinh Xuân Lâm có viết: "Nội các Trần Trọng Kim, với thành phần là những trí thức có tên tuổi, trong đó phải kể tới một số nhân vật tiêu biểu của nước ta trước năm 1945, có uy tín đối với nhân dân, như: Trần Trọng Kim, Hoàng Xuân Hãn, Trịnh Đình Thảo, Phan Anh… Họ đều là giáo sư, luật gia, nhà báo, chưa hề dính líu với bộ máy quan trường, trước đó lại có nhiều hoạt động thể hiện có tư tưởng yêu nước, có tinh thần dân tộc, nên được nhiều người ngưỡng mộ…".
Chỉ trong bốn tháng làm việc với chủ quyền và độc lập rất hạn chế, Chính phủ Trần Trọng Kim đã tạo biểu tượng, đặt nền tảng về pháp lý và giáo dục cho Việt Nam nhiều năm sau.
Theo
tác giả Lê Mạnh Hùng, với an ninh, quốc phòng và kinh tế tài chính đều nằm
trong tay quân đội Nhật, tất cả những gì mà Chính phủ Trần Trọng Kim có thể đạt
được trong việc giành lại chủ quyền cho Việt Nam thực tế là chỉ có tính cách biểu
tượng. Tuy nhiên, trong tình huống Đông Dương vào năm cuối của Thế chiến thứ hai, biểu
tượng đóng một vai trò rất quan trọng. Chương trình chính phủ theo lời nói của
ông Hoàng Xuân Hãn là làm
thay đổi tâm lý người Việt đến mức mà đất nước sẽ không thể trở lại tình trạng
thuộc địa nữa một khi Thế chiến thứ hai chấm dứt.
Trong
thời gian ngắn ngủi, chính phủ này cũng đã làm được một việc quan trọng là thống
nhất về mặt danh nghĩa đất Nam kỳ vào đất nước Việt Nam; và thay chương trình học
bằng tiếng Pháp bậc tiểu học và trung học sang chương trình học bằng tiếng Việt,
do học giả Hoàng Xuân Hãn biên soạn. Hành chính được cải tổ với việc dùng chữ
Việt trong tất cả các giao dịch của chính phủ ngoại trừ lĩnh vực y tế và các
văn thư liên lạc với Pháp hoặc các công ty của người Trung Hoa.
Nội các
Đế quốc Việt Nam của học giả Trần Trọng Kim (1883-1953) tồn tại từ ngày 17/04
đến 25/08 năm 1945 gồm toàn các trí thức: một giáo sư, hai kỹ sư, bốn bác sĩ,
bốn luật sư.
Đó là
các ông Trần Trọng Kim, Hoàng Xuân Hãn, Hồ Tá Khanh, Trịnh Đình Thảo, Vũ Trọng
Khánh, Vũ Ngọc Anh, Trần Văn Chương, Trần Đình Nam, Vũ Văn Hiền, Phan Anh và
Nguyễn Hữu Thi.
Thứ tự |
Chức
vụ |
Tên |
Nghề
nghiệp |
Chức
vụ sau cùng |
1 |
Nội các Tổng trưởng |
Trần Trọng Kim |
Giáo sư sử học |
|
2 |
Phó Nội các Tổng trưởng |
Trần Văn Chương |
Luật sư |
Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Mỹ. |
3 |
Bộ trưởng Nội vụ |
Trần Đình Nam |
Bác sĩ |
Niên trưởng Giám sát Viện Đệ Nhị Cộng hòa Việt Nam |
4 |
Bộ trưởng Tư pháp |
Trịnh Đình Thảo |
Luật sư |
Phó Chủ tịch Hội đồng Cố vấn Chính phủ Cách mạng lâm
thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam, uỷ viên Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam |
5 |
Bộ trưởng Giáo dục và Mỹ nghệ |
Hoàng Xuân Hãn |
Thạc sĩ Toán |
|
6 |
Bộ trưởng Tài chính |
Vũ Văn Hiền |
Luật sư |
|
7 |
Bộ trưởng Thanh niên |
Phan Anh |
Luật sư |
Bộ trưởng Bộ Ngoại thương, Phó chủ tịch Quốc
hội Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. |
8 |
Bộ trưởng Công chính |
Lưu Văn Lang |
Kỹ sư |
|
9 |
Bộ trưởng Y tế và Cứu tế |
Vũ Ngọc Anh |
Bác sĩ |
tử thương vì máy bay Đồng Minh oanh tạc 23 tháng 7/945 |
10 |
Bộ trưởng Kinh tế |
Hồ Tá Khanh |
Bác sĩ |
|
11 |
Bộ trưởng Tiếp tế |
Nguyễn Hữu Thí |
Cựu y sĩ |
|
* |
Khâm sai Bắc Bộ |
Phan Kế Toại |
Tổng đốc |
Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Nội vụ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. |
* |
Khâm sai Nam bộ |
Nguyễn Văn Sâm |
|
|
* |
Đốc lý Hà Nội |
Trần Văn Lai |
Bác sĩ |
Phó Chủ tịch Ủy ban hành chính TP Hà Nội |
* |
Tổng đốc Nghệ An |
Đặng Văn Hướng |
phó bảng |
Quốc vụ khanh đặc trách công tác ở 3 tỉnh Thanh-
Nghệ - Tĩnh của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. |
* |
Đốc lý Hải Phòng |
Vũ Trọng Khánh |
Luật sư |
Bộ trưởng Bộ Tư pháp đầu tiên của Chính phủ Liên
hiệp Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. |
* |
Đô trưởng Sài Gòn |
Kha Vạng Cân |
Kỹ sư |
Bộ trưởng Bộ Công nghiệp nhẹ Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa. |
1. Lập lại quốc hiệu Việt Nam
Đây là
tên nước 'ước mơ' của Hoàng đế Gia Long nhưng không được Thanh triều công
nhận.
Tên nước
Đại Nam do Vua Minh Mạng đặt đã bị Pháp xóa để lập ra Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam
Kỳ trong Liên bang Đông Dương.
Được
Nhật Bản trao trả 'độc lập', vua Bảo Đại và chính phủ đã nhanh chóng tuyên
bố quốc hiệu là Việt Nam.
Đây cũng
là cái tên mà Nguyễn Thái Học, Phan Bội Châu đặt cho các đảng phục quốc, cách
mạng.
Quốc
hiệu Việt Nam do chính phủ Trần Trọng Kim tuyên bố với thế giới sau đã thành
tên nước cho cả hai chế độ ở Nam và Bắc đến 1975 và ngày nay.
Đế quốc
Việt Nam năm Bảo Đại 20 chọn cờ vàng ba sọc đỏ với một sọc đứt quãng theo quẻ
Ly của Kinh Dịch làm quốc kỳ.
Nhà Nho
học Trần Trọng Kim dẫn sử để nói đó là màu cờ vàng của Triệu Thị Trinh khi
khởi nghĩa chống quân Ngô.
2. Dùng tiếng Việt làm quốc ngữ và Việt hóa giáo dục
Dù có
một số nỗ lực dùng tiếng Nhật thời Nhật Bản chiếm Đông Dương, tiếng Pháp vẫn
là ngôn ngữ hành chính bên cạnh tiếng Việt và một số văn bản Hán ngữ đến năm
1945.
Giáo sư
Hoàng Xuân Hãn, Bộ trưởng Giáo dục, đóng vai trò chính trong việc ra quyết
định dùng tiếng Việt hệ quốc ngữ thay tiếng Pháp.
Ông soạn
các sách giáo khoa, gồm cả sách toán, kỹ thuật lần đầu bằng tiếng Việt và đưa
bộ Quốc văn Giáo khoa thư vào áp dụng ngay trong niên học 1945-46 tại Bắc Kỳ
và Trung Kỳ.
Đây là
cơ sở cho chương trình trung học trên toàn Việt Nam ở cả hai miền dưới hai chế
độ đối nghịch.
Các sách
giáo khoa chịu ảnh hưởng của giai đoạn Hoàng Xuân Hãn vừa giảng dạy, vừa nghiên
cứu từ 1936 đến 1947.
Đó là
thời gian ông xuất bản tiểu sử Lý Thường Kiệt và La Sơn phu tử, soạn từ vựng
danh từ khoa học Toán Lý Hóa cho người Việt Nam.
3.Đòi lại miền Nam để thống nhất lãnh thổ
Theo sử
gia Lê Mạnh Hùng, ngày 16/06, Vua Bảo Đại ra tuyên bố thống nhất tương lai của
ba kỳ về một.
Chính
phủ Trần Trọng Kim cũng ngay lập tức đàm phán với Nhật để đòi lại ba thành
phố trực trị của người Pháp trước đó là Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng.
Cuộc
gặp của Trần Trọng Kim với gặp Trung tướng Yuitsu Tsuchihashi, Tư lệnh Quân
đoàn 38 của Nhật tại Đông Dương trong tháng 7 đã đem lại kết quả quan trọng.
Tân
chính phủ Việt Nam được bổ nhiệm lãnh đạo ba đô thị lớn: Trần Văn Lai làm Thị
trưởng Hà Nội, Vũ Trọng Khanh làm Thị trưởng Hải Phòng và Nguyễn Khoa Phong làm
Thị trưởng Tourane (Đà Nẵng).
Ở Hà
Nội, bác sĩ Trần Văn Lai đã cho đổi tên phố từ tên Pháp sang tên những vị anh
hùng dân tộc Việt Nam.
Sang
tháng 8/1945, Nhật Bản đồng ý trao trả Nam Kỳ cho chính phủ Trần Trọng Kim và
ông Nguyễn Văn Sâm được bổ nhiệm làm Khâm Sai Nam Kỳ.
Không có
quân đội riêng, chính phủ Trần Trọng Kim chỉ dựa vào tình thế và quyết tâm của
các trí thức để đàm phán với Nhật Bản.
Nhưng về
mặt chính trị, tâm lý dân tộc và hành chính, nhận lại Nam Kỳ là thành tựu có
tính biểu tượng quan trọng.
Hành
động này không chỉ xóa nỗi nhục bại trận - cuộc chiến mất nước của Đại Nam
bắt đầu từ Nam Kỳ - mà còn duy trì giấc mơ thống nhất ba miền các bậc tiền bối
nuôi dưỡng.
4.Soạn hiến pháp nhấn mạnh tự do và độc lập
Dù không
có thực quyền và không được các đại cường công nhận - bởi là chính quyền có
quan hệ mật thiết với Đế quốc Nhật - Trần Trọng Kim, đã lập ra Hội đồng dự
thảo Hiến pháp.
Sau khi
trao quyền lại cho chính phủ Cách mạng Việt Minh, cựu hoàng Bảo Đại khi đó ngoài 30
tuổi, giữ chức Cố vấn tối cao một thời gian với cái tên công dân Vĩnh Thụy
Hội
đồng gồm các trí thức, văn nghệ sỹ nổi tiếng: Phan Anh, Nguyễn Tường Long, Vũ
Đình Hòe, Huỳnh Thúc Kháng, Đặng Thai Mai, Tôn Quang Phiệt, Hồ Tá Khanh, Nguyễn
Văn Sâm, Nguyễn Văn Thinh, Hồ Hữu Tường.
Hiến
pháp công nhận tự do lập nghiệp đoàn, các hội nghề nghiệp.
Tổng hội
Công chức ra đời để làm lực lượng chính trị ủng hộ cho tân chính phủ.
Các hội
đoàn thanh niên sau là cơ sở cho các phong trào vũ trang chống Pháp của cả phe
cộng sản và cộng hòa.
Trong
Tuyên chiếu 03/05/1945, cựu hoàng Bảo Đại đã viết:
"Muốn
cải-tạo quốc-gia, chính-phủ cần hành động cho quy-củ nghĩa là phải có hiến
pháp.
Hiến
pháp tương lai của Việt-Nam sẽ căn cứ vào sự hợp nhất quốc-gia, sự quân dân
cộng tác, và những quyền tự do chính-trị tôn-giáo cùng nghiệp-đoàn của
nhân-dân."
Đặc
biệt, theo lời cựu hoàng, "Chính phủ ngày nay không phải phụng sự một cá
nhân hay một đảng phái nào cả."
Tuy
nhiên, hoạt động lập pháp này đã không hoàn tất được vì các công việc cấp
bách hơn như cứu đói cho miền Bắc.
Theo sử
gia Trần Gia Phụng, chính phủ Trần Trọng Kim tuy được Nhật hậu thuẫn, nhưng từ
khi thành lập cho đến khi giải tán, đã hoạt động độc lập và không lệ thuộc
người Nhật.
5. Rút lui và trao quyền cho thế hệ cách mạng
Các hạn
chế của chính phủ Trần Trọng Kim đã được nói đến nhiều, gồm cả việc không có
Quốc hội, không có quân đội và không được nước nào công nhận ngoài Đế quốc
Nhật Bản.
Nội các
này đã tan rã trong làn sóng cách mạng nổi lên và mục tiêu giành giật vùng ảnh
hưởng của các đại cường.
Ý thức
được những vấn đề đó, các trí thức trong chính phủ này đã chọn con đường trao
lại quyền lực không đổ máu cho một chính quyền do Việt Minh lãnh đạo.
Được
biết cựu hoàng Bảo Đại đã không cho binh lính mai phục bắn vào nhóm thanh niên theo
Việt Minh trèo lên kỳ đài ở Huế hạ cờ vàng và kéo cờ đỏ sao vàng lên cột ngày
21/08.
Nội các
Trần Trọng Kim của Đế quốc Việt Nam rút lui để cũng khép lại thời kỳ quân chủ
để chuyển sang Cách mạng và cộng hòa
Là chính
phủ chuyên viên đầu tiên của Việt Nam thời hiện đại, nội các Trần Trọng Kim
đã rút lui trong hòa bình để trao quyền lại cho thế hệ các chính khách và nhà
làm cách mạng chuyên nghiệp.
Về thể
chế, Đế quốc Việt Nam rút lui đã khép lại thời kỳ quân chủ để chuyển sang
cộng hòa với các tiến bộ và hệ lụy như đã biết về sau.