04/04/2022

Chùa Việt - Phần 11

 (Phần 11)


Chuông gia trì - mõ

Chuông cỡ lớn tại chùa thường được gọi là Đại hồng chung ("Đại" đã là to, mà "hồng" lại cũng có nghĩa là to lớn nữa, nhưng mang hai nghĩa hơi khác nhau. Hồng ở đây mang tính to lớn trừu tượng, tâm linh hơn đại). Chuông lớn còn có tên là U minh chung. Cũng có những chuông nhỏ hơn theo hình dáng giống đại hồng chung thường dùng khi làm lễ, tiếng cũng không ngân dài như đại hồng chung.


Đại hồng chung ở chùa Sắc Tứ Linh Thứu  ấp Chợ Xoài Hột, xã Thạnh Phú, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang



Trong chùa còn có một loại "chuông" đặc biệt nữa gọi là chuông gia trì, giống như cái ang bằng đồng để ngửa, khi dùng dùi gõ vào cũng tạo tiếng kêu ngân nga, tiếng cao hay trầm, ngân lâu hay không đều có hình dáng, độ dày, chất liệu đồng đúc lên. Chuông gia trì luôn để ở nơi ngồi tụng kinh hành lễ trước bàn thờ, phía bên trái, đối xứng với mõ.



Mõ nguyên bản là dụng cụ gõ báo thời gian, canh giờ gọi mọi người làm một việc gì đấy. Từ việc dùng mõ gọi các nhà tu hành đến giờ lên tu tập hành lễ, hoặc đi ăn (thụ trai), dần chuyển thành thứ pháp khí dùng khi làm lễ. Nếu mõ xưa chỉ gõ một vài hồi để thông báo, thì nay được gõ đều đặn trong suốt thời gian đọc kinh. Tiếng mõ tốc tốc trở thành âm thanh đặc trưng quen thuộc của chùa.

Mõ bên tay phải, và chuông gia trì bên tay trái

Cái mõ dần trở thành một vật biểu tượng của ngôi chùa. Nói đến sư sãi là thể nào cũng hình dung ra cái mõ, tràng hạt, và cuốn kinh.

Ở nông thôn Việt Nam vẫn thường gặp cái mõ cá dài thượt, có hình một con cá treo ở ngoài đình. Như xưa các cụ kể, thì khi có việc làng, sẽ gõ cái mõ đó lên để tập hợp làng xã. Trong làng có một người làm công việc được gọi là làm Mõ, thường là dân ngụ cư (không phải dân 3 đời ở làng), phải cầm cái mõ đi rao khắp làng xã khi có việc, là người bị coi rẻ nhất làng.



Trong chùa, cái mõ hình tròn, khoét rỗng lòng, có một cái quai, trên khắc hai con cá. Cái mõ liên quan đến con cá là vì Cá được cho là loài vật không bao giờ ngủ, vì mắt chúng bao giờ cũng mở thao láo. Do đó mõ - cá thể hiện sự thức tỉnh, giữ gìn không bao giờ ngủ nghỉ, cũng như những người tu hành không bao giờ thôi trì giới và tinh tiến. Gõ tiếng mõ cá để nhắc nhở cái tâm con người.

Bên cạnh chuông gia trì và mõ, trong chùa còn dùng hai pháp khí tạo âm thanh nữa là trống và chiêng. Trống đánh lên để tạo âm thanh hùng mạnh, thể hiện uy lực của nhà Phật, xua đuổi tà ma yêu quái. Tiếng trống tạo ra âm thanh liên quan với biểu tượng "sư tử hống" - tiếng gầm của sư tử, tượng trưng cho đại hùng đại lực. Tiếng chiêng để giữ nhịp, thức tỉnh người đọc kinh.

Bộ: Trống - chuông gia trì - mõ - chiêng trong một ngôi chùa




Bia đá

Một trong những thứ không thể thiếu ở các ngôi chùa, đền cổ, và nhiều lúc là vật cổ nhất, quý giá nhất của một ngôi chùa, đó là các tấm bia đá.

Việc để lại dấu tích trên đá đã có từ thượng cổ, và bia đá trở thành một hình thức lưu giữ dấu tích, bút tích, sự tích phổ biến nhất. Bia đá không chỉ là nơi để khắc chữ, các bài văn, mà còn là nơi thể hiện trình độ điêu khắc, trang trí đá tuyệt vời của cha ông. Xung quanh bia thường có các điêu khắc trang trí hoa văn, rồng phượng...

Bia có nhiều loại: bia hậu chuyên dành để ghi tên những người đóng góp công đức cho chùa, thường làm đơn giản, xung quanh ít trang trí, và để trực tiếp trên bệ đá thường.

Những bia lớn có văn bia (minh) thì viết kỹ lưỡng chi tiết về lịch sử chùa, quá trình hình thành, xây dựng, trùng tu, cùng tên tuổi những người liên quan. Văn bia loại này là tư liệu lịch sử quý giá, là nguồn tư liệu chính xác, lâu bền. Văn bia có độ chính xác thời gian cao, vì thường ghi rõ thời gian tạo lập (niên đại, mùa, tháng). Những bia lớn thường có trang trí cầu kỳ, nhiều họa tiết, mà nhìn vào đó có thể xác định phong cách điêu khắc của các thời kỳ lịch sử.

Bia chùa Keo ở Thái Bình:



Đây là một bia được trang trí rất cẩn thận cầu kỳ. Các điêu khắc và chữ viết khắc rất sâu vào đá. Đặc biệt là vì bia dầy nên còn điêu khắc trang trí cả trên hai cạnh hai bên, điều rất ít gặp trong các bia khác. Bia này không đặt trên rùa như thông thường, mà là trên một loạt các lớp cánh sen có trang trí đẹp.

Bia thường đặt trên lưng rùa với ý nghĩa trường tồn lâu bền. Bia của Việt Nam cũng rất khác bia của Trung Quốc, nhìn là có thể nhận ra sự khác biệt tương đối rõ ràng. Bia của TQ không đặt trên lưng rùa, mà là con Bị hí, một giống con của rồng. Trên trán bia cũng không phải là rồng, mà là con Phụ hí, cũng là một loại con khác của rồng.

Hai tấm bia đá dựng hai bên cái cổng nổi tiếng của chùa Kim Liên

Nhà Mẫu

Nhà Mẫu, hay điện thờ Mẫu là một phần mang đặc trưng riêng của các ngôi chùa miền Bắc. Ngoài Chính điện, thì nhà Tổ và nhà Mẫu luôn được hương khói nghi ngút, và còn người ta cầu khấn ở đây còn nhiều hơn Chính điện.



Tín ngưỡng thờ Mẫu đã có từ xa xưa, nhưng được khôi phục và phát triển mạnh mẽ cách đây khoảng 500 năm, dưới triều Lê trung hưng. Khi đó Phật giáo đang tiêu điều, Nho giáo cũng suy đồi. Người dân quay lai với tín ngưỡng thờ các vị thần bản địa, được tôn phong trong hình tượng Tam tòa Thánh Mẫu, Tứ phủ Công đồng.

Tứ phủ gồm: Thiên phủ, Địa phủ, Nhạc phủ, Thoải phủ (Trời, Đất, Núi rừng, Nước), đặc trưng bởi các màu Đỏ, Vàng, Lục, Trắng.

Tam tòa gồm: Thiên tiên (coi quyền cả thiên địa), Thượng ngàn, Thủy cung. Mẫu Thiên tiên mặc áo đỏ, Mẫu Thượng ngàn áo xanh lục, Mẫu Thoải áo trắng.

Với phong cách Tam giáo đồng nguyên đã có từ thời Lý, khi mà trong chùa các vua Lý cho thờ cả Đạo giáo, Nho giáo, thì việc đưa Tín ngưỡng Mẫu vào trong chùa cũng không khó khăn lắm. Và Phật giáo, với bản chất bao dung hòa đồng nhập thế của mình, cũng đã chấp nhận các vị thần của đạo Mẫu vào khuôn viên của mình một cách hòa nhã. Ngược lại, các tín đồ đạo Mẫu cũng thừa nhận Phật vẫn là đấng cao thiêng hơn hết thảy, và các thánh cũng là quân của nhà Phật.

Điện thờ Liễu Hạnh Công chúa trong Phủ Tây Hồ



Bên trên là Tam tòa Thánh Mẫu, dưới một chút là 5 vị Quan lớn, dưới nữa là các ông Hoàng. Gầm bàn thờ chính là nơi thờ Ngũ hổ, hai bên có hai tượng Cậu. Trên đỉnh thường treo hai con rắn còn gọi là ông Lốt, hóa thân của Quan Tuần Tranh.

Lễ vật cúng bàn thờ Mẫu phong phú đa dạng, kể cả đồ mặn, và tất cả các đồ ăn uống thông thường, như cả mì chính (bột ngọt), muối ăn, nước ngọt, bia, thuốc lá.... nhưng thường luôn có trứng.

Chùa cũng có lúc làm nhiệm vụ của một ngôi đền, khi trong chùa thờ cả các vị nhân thần được nhân dân tôn kính.

Các vị nhân thần được thờ trong chùa gồm:

- Các vị vua chúa: thường là các vua đã ra lệnh xây chùa, có đóng góp của cải cho chùa, hoặc liên quan chặt chẽ với chùa. Chẳng hạn như chùa Kiến Sơ thờ Lý Thái Tổ vì vua đã từng tu ở chùa khi còn bé, chùa Huy Văn thờ Lê Thánh Tông vì vua và mẹ đã từng lánh nạn ở chùa, chùa Bộc thờ lén Quang Trung (câu chuyện về bức tượng Quang Trung chùa Bộc sẽ viết và có ảnh sau).

- Các vị vương công: như Trần Hưng Đạo, chúa Trịnh, chúa nhà Mạc.... nhiều chùa đều có ban thờ riêng.

- Các vị hoàng hậu, công chúa, quận chúa... là những người đã hưng công xây dựng, tu bổ chùa, hoặc về tu ở chùa. Như chùa Mía thờ bà chúa Mía, chùa Bút Tháp có tượng hai bà hoàng hậu và công chúa...

Tượng thờ Lý Thái Tổ chùa Kiến Sơ. Pho tượng này trông rất ngờ ngệch chất phác, rất dân gian và mang phong cách kiểu tượng phỗng. Tuy vậy đây vẫn là tượng Vua, mà còn là một vị vua đầu triều Lý nổi tiếng.

 


Hòa thượng

 Đây là Sư cụ chùa Ráng, người ta thường gọi là Tổ Ráng, năm nay 93 tuổi (2009) nhưng rất khỏe mạnh, không hề cần chống gậy.



Nói đến chùa, không thể nói đến người trong chùa, đó là các Nam tu sĩ, gọi là Tăng hay Tỳ kheo tăng; và Nữ tu sĩ, gọi là Ni, hay Tỳ kheo ni.

Phật giáo là tôn giáo rất bình đẳng. Ngay từ thuở sơ khai Phật Thích Ca đã chấp nhận phụ nữ tham gia vào giới tu sĩ, và Ni giới cũng tích cực trong việc tu trì không kém Tăng giới. Cho đến nay ở Việt Nam, số chùa do Ni trụ trì nhiều không kém Tăng.

Tuy vậy, cũng giống như các tôn giáo khác, Phật giáo cũng vẫn dành cho Nam giới những đặc quyền lớn hơn. Chỉ có Tăng mới được làm một số vị trí quan trọng như Chứng minh, Đàn đầu, Sám chủ, Giám luật... Một người nữ muốn xuất gia thì bên cạnh Nghiệp sư (thầy trực tiếp dạy dỗ) là Ni, thì cũng cần có sự hiện diện của Tăng, và trong lễ xuất gia chính thức cho Tăng chủ trì.

Về giáo phẩm của Tăng thì cao nhất là Hòa thượng, dưới đó là Thượng tọa, dưới nữa là Đại đức. Hòa thượng từ 80 tuổi trở lên gọi là Đại lão Hòa thượng.

Với Ni giới thì cao nhất là Ni trưởng, dưới là Ni sư, dưới nữa là Ni cô hay Sư cô.

Mọi người thử nhìn vị tăng áo nâu, mà áo len (ảnh trên) trong còn thòi ra áo ngoài, đội mũ len cũng nâu như một ông nông dân đứng bên trái, và đoán xem tại sao vị tăng này đặc biệt ???

Đấy là Sư cụ chùa Ráng, người ta thường gọi là Tổ Ráng, năm nay 93 tuổi (2009) nhưng rất khỏe mạnh, không hề cần chống gậy.

Điều đặc biệt nhất ở cụ chính là vì cụ không có vẻ gì khác người. Cụ là vị sư thuần Việt nhất mà tớ từng thấy, áo nâu sồng, răng đen, đi lại liên tục như một ông nông dân, và cụ còn tự cày ruộng đến tận năm 80 tuổi mới nghỉ.

Và điều quan trọng nhất là Cụ chính là Pháp Chủ của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, là vị đứng đầu, lãnh đạo cao nhất của 50 nghìn tăng ni, của hàng triệu Phật tử của Phật giáo Việt Nam.

Khi cụ lên ngôi Pháp chủ, hàng trăm tăng ni già trẻ đã quỳ xuống dập đầu lễ cụ, đoàn người kéo dài hàng km đón cụ. Và mới ngày hôm trước khi tôi đến, thì các vị Sư chức thuộc loại to nhất của Hà Nội cũng vừa mới đến lễ bái cụ xong.

Thế nhưng sau tất cả những nghi lễ màu mè đầy tính tôn giáo đó, Pháp Chủ cũng vẫn là một ông sư già chùa làng, lúc nào cũng áo nâu. Ngay cả khi người ta khoác áo vàng rực, đỏ lòe lên, thì bên trong vẫn là lớp áo nâu, và cả đời cụ hình như chỉ đi dép, chưa bao giờ đi giày.

Cũng ở địa phận Hà Tây cũ, còn sư cụ Đại trưởng lão, thọ bậc nhất Việt Nam, 97 tuổi, nhưng khi nói chuyện với tất cả các tăng ni khác, bất kể là chú tiểu bé cho đến các hòa thượng, thì sư cụ Đại trưởng lão vẫn luôn tự xưng là "Con" !

Chùa Tứ Pháp

Trong các chùa miền Bắc, có một "dòng" đặc biệt. Tôi tạm gọi là Dòng, vì đây là một phong cách chùa riêng, có nguồn gốc xa xưa, được nhiều người cho rằng có trước cả khi Phật giáo vào Việt Nam. Dòng chùa này chỉ có duy nhất ở đồng bằng sông Hồng. Đó là dòng chùa Tứ Pháp.

Những cư dân trồng lúa nước ở đồng bằng sông Hồng từ xa xưa đã tôn thờ các vị thần thiên nhiên, thể hiện qua bốn vị Nữ thần: Mây - Mưa - Sấm - Chớp, và gọi là Tứ Pháp: Pháp Vân - Pháp Vũ - Pháp Lôi - Pháp Điện.

Mặc dù truyền thuyết về Tứ Pháp và Phật Mẫu Man Nương là ở vùng Bắc Ninh, truyền thuyết từ thời Sĩ Nhiếp - thế kỷ 2-3, nhưng chùa Tứ Pháp thì trải trên một diện rộng hơn nhiều, từ Bắc Ninh qua Hưng Yên, cả Hà Nội, Hà Nam và dọc sông Hồng ra đến Nam Định cũng có.

Điểm đặc biệt của những ngôi chùa Tứ Pháp là Thần tượng của Nữ thần thưởng rất lớn, được đặt trang trọng và có khi còn cao hơn tượng Phật. Trong những ngôi chùa cổ xưa nhất như chùa Dâu, chùa Đậu, tượng Nữ thần đặt chính giữa điện, chiếm vị trí cao nhất, còn tượng Phật chỉ đặt ở phía sau, nhỏ và thấp hơn nhiều.

Những ngôi chùa Tứ Pháp này đã thể hiện tín ngưỡng dân gian lúa nước của người Việt cổ rất khéo léo, lồng một tôn giáo vào niềm tin cổ xưa, không hẳn là Phật giáo thuần khiết, cũng không hẳn là thần thánh đơn thuần.

Về hệ thống chùa Tứ Pháp ở Bắc Ninh:

 

Vùng Dâu - Luy Lâu - nơi Phật giáo được truyền vào đầu tiên, có chùa Dâu thờ Pháp Vân, được coi là chùa cổ nhất Việt Nam. Vùng Dâu có truyền thuyết Phật Mẫu Man Nương, người đã sinh ra 4 chị em Nữ thần, vì vậy có đủ 5 ngôi chùa thờ. Các vùng khác chỉ có tối đa 4 chùa. Cũng vì thế, bộ tượng Pháp ở Dâu là đẹp và đầy đủ nhất.

Một số chùa Tứ pháp nổi tiếng nhất:

- Chùa Dâu ở Bắc Ninh - thờ Pháp Vân (nay thêm cả Pháp Vũ)

- Chùa Keo ở Gia Lâm - thờ Pháp Vân

- Chùa Thái Nhạc ở Hưng Yên - thờ Pháp Vân

- Chùa Đậu ở Hà Tây (cũ) - thờ Pháp Vũ

- Chùa Bà Đanh ở Hà Nam - thờ Pháp Vân

Trong 4 bà, thì Pháp Vân được thờ nhiều nhất. Ngay trong nội thành HN cũng có hai chùa Pháp Vân, mà một chùa nằm ngay đầu đường cao tốc, và đường đó cũng mang tên chùa: Pháp Vân - Cầu Giẽ.

Điều đặc biệt của chùa thờ Tứ Pháp là tượng Bà Tứ Pháp được ngồi trên tòa sen, điều chỉ dành riêng cho Phật hoặc Đại Bồ tát (nhiều chùa Bồ tát cũng không được ngồi tòa sen).

Tượng Pháp Vân chùa Dâu - Bắc Ninh.



Tượng Tứ Pháp ở Dâu đều bị bọc trong vải vóc, mũ khăn kín mít, nên không thể thấy được bên trong. Rất may là ở một số chùa khác những phục trang mới thêm này không có, do đó có thể nhìn rõ các cụ xưa đã tạc tượng các Bà thế nào.

Hầu cận bên bà Pháp Vân là hai pho Kim Đồng và Ngọc Nữ cũng rất độc đáo. Pho Ngọc Nữ thể hiện người con gái thuần Việt, đội khăn vấn tóc, đứng trong một điệu múa hầu Bà.



Trong ảnh dưới, ảnh nhỏ là tượng Pháp Vân chùa Dâu (sưu tập), và hai pho Pháp Vân chùa Keo Gia Lâm. Có thể thấy tượng Pháp Vân chùa Dâu rất đặc biệt, mình trần, chỉ có xiêm từ thắt lưng trở xuống (các tượng ở vùng Dâu đều thế, do đó đều phải "mặc áo"). Tượng chùa Keo thì có khoác tấm phủ vai, mặc xiêm áo đàng hoàng, và không bị phủ vải.

Các pho tượng Pháp này rất đặc biệt, vì là Nữ thần nhưng được mang các dấu hiệu của bậc Đại Phật: Trên đầu có tóc xoắn ốc, có gò nổi giữa đầu, giữa trán có Bạch hào, tai dài, ngồi tòa sen theo thế liên hoa, tay để trong thủ ấn giống Chuyển pháp luân, hoặc ấn Vô úy.

Những biểu tượng này nếu không phải các Đại Phật, bậc Như lai thì không bao giờ có. Ngay như Quán Thế Âm cũng không được có tóc xoắn và gò giữa đầu thế này.

Qua đó có thể thấy sự tôn sùng của cư dân với các Nữ thần, xếp ngang hàng, hay cho các Nữ thần chính là hóa thân của Phật. Điều này chỉ xuất hiện ở đồng bằng Sông Hồng thôi.

Chùa Thái Lạc ở Hưng Yên là một trong những ngôi chùa hiếm hoi còn lại cả tòa điện từ đời Trần, với những cột kèo, trạm chổ từ 700 năm. Chùa cũng thờ bà Pháp Vân, được đặt giữa các tượng khác. Nhưng cũng dễ nhận ra tượng Bà vì pho tượng có màu nâu gụ khác hẳn những pho tượng Phật thếp vàng khác.

Tượng Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện ở Lạc hồng Văn Lâm, Hưng yên, cùng hội nhau về 1 chùa trong đó có chùa Thái Lạc.


Tượng bà Pháp Vũ chùa Đậu (Hà Tây cũ), để trong 1 khám kính tối om, nhện chăng đầy. Pho tượng này có vẻ đặc biệt, với tay bắt ấn giơ lên trời, và đôi mắt được thếp vàng sáng rực lên so với toàn bộ màu nâu gụ xung quanh. Tòa sen cũng rất đẹp. Pho tượng này nổi tiếng linh thiêng.

Mặc dù đã nói đến Đại Bồ tát Quán Thế Âm khá kỹ ở phần trước, phần này tôi muốn nói đến những pho tượng Quan Âm Nghìn mắt nghìn tay cổ ở chùa miền Bắc mà tôi đã gặp. Cũng may mắn mà tôi đã chụp ảnh được một số pho tượng cổ quý nhất thuộc loại này còn lại ở Việt Nam, là tượng chùa Hội Hạ, chùa Đào Xuyên, chùa Bút Tháp, chùa Mễ Sở, chùa Tam Sơn.

Tượng chùa Hội Hạ được coi là cổ nhất, làm từ đời Mạc, dáng chắc khỏe. Chùa đã đổ nát, tượng được đưa vào Bảo tàng Mỹ thuật.



Từ dưới lên, phần bệ lục giác có những tượng nhỏ ở góc tượng trưng cho Địa ngục, đỡ bên trên là mặt biển cả. Giữa biển nổi lên đầu con thủy quái khổng lồ, đỡ lấy tòa sen (đến chùa Bút Tháp thì thành con rồng). Hai tay con thủy quái đỡ lấy toà sen cũng để cho tòa khỏi đổ.

Từ mặt biển cũng vượt lên hai cuộn mây nhỏ, với hai bông sen nhỏ đỡ cho Thiện Tài đồng tử và Long Nữ, hai hầu cận của Quan Thế Âm. Phật Bà ngồi nghiêm trang trên đài sen, có tổng cộng 42 tay cầm một số loại pháp khí. Tượng đội mũ, ở giữa mũ là hình Phật A Di Đà, tượng đeo hoa tai dài nặng to tướng.

Những cánh tay cứu độ

Pho tượng thể loại "cực nhiều tay" đầu tiên được xác định là ở chùa Đào Xuyên, tuổi thọ gần 400 năm, có đến hơn 600 tay.



Pho tượng này phải nói rất đặc biệt, và tôi rất thích, bởi những cánh tay kỳ lạ, độc đáo. Các cánh tay được tạc đều uốn cong vòng, ôm lấy thân tượng chính, các cánh tay phía sau lại thẳng như mái chèo.

Nhìn nghiêng pho tượng

Pho tượng Quán Thế Âm thiên thủ thiên nhãn chùa Mễ Sở là pho có nhiều tay nhất còn lại đến nay, pho tượng hơn 300 tuổi.



Tượng có tổng cộng 1113 tay nhỏ, không xòe tròn ra xung quanh, mà lại vươn lên, khum lại thành một vòm cổng, tạo ra một khoảng trống sau lưng tượng. Hai cánh tay chính của Quán Âm kết ấn Chuẩn đề, 40 tay khác xòe ra xung quanh rất đẹp.

Trên cùng, các tay đỡ một vầng mây, mà ở giữa là Phật A Di Đà ngồi, hai bên là Quán Thế Âm và Đại Thế Chí đứng, có lọng mây che trên đầu, và các tay tỏa ra như hào quang nhỏ. Bệ tượng cũng đặc biệt, không phải đài sen như thông thường, mà là những lớp sóng biển cuộn lên dồn dập.

Pho tượng cổ Quan Âm thiên thủ thiên nhãn chùa Tam Sơn. Pho tượng đã từng bị hỏng khá nhiều trong chiến tranh, mới được tu sửa lại gần đây.



Đại từ Đại bi, Cứu khổ Cứu nạn, Quán Thế Âm bồ tát

Cối phật

Tại các ngôi chùa cổ miền Bắc, còn có một cấu trúc rất độc đáo, là CỐI PHẬT, hay Cối Kinh.

Tên chính thức của cấu trúc này là Tòa Cửu Phẩm Liên Hoa, có hình thức là tòa tháp gỗ cao 9 tầng, 6 cạnh, mỗi tầng là một đài sen lớn. Toàn bộ cấu trúc dựa trên một trục gỗ ở chính giữa, đặt trên một cối đá, có thể quay được.

Trên mỗi tầng, mỗi mặt có một tượng Phật ngồi giữa hai Bồ tát. Như vậy có tổng cộng 9x6 = 54 tượng Phật, 9x12 = 108 tượng Bồ tát. Mỗi khi quay Cối Phật, thì như cả thế giới chuyển động.

Cửu Phẩm Liên Hoa tượng trưng cho 9 bậc trong cõi Tịnh Độ của Phật A Di Đà. Cõi Tịnh Độ gồm 3 bậc là Hạ phẩm, Trung phẩm, Thượng phẩm; mỗi Phẩm lại chia làm 3 là : Hạ sinh, Trung sinh, Thượng sinh. Như vậy từ Hạ phẩm Hạ sinh đến Thượng phẩm Thượng sinh là 9 bậc.

Chín bậc này dành cho tất cả mọi chúng sinh có lòng hướng đến cõi Tây phương Cực Lạc của phật A Di Đà, tùy vào phẩm hạnh của kẻ đó mà được tái sinh vào các cõi tương ứng.

Cối Phật chùa Bút Tháp, hai bên có hai tượng Phật ngồi quay ra hai hướng.





Theo văn bia thì cối Phật được dựng từ đời Trần, đến năm 1739 làm lại,

Cối Phật chùa Đồng Ngọ - Hải Dương, được làm năm 1692, mới được/bị sơn thếp lại, trông choáng lộn rực rỡ ...

Cửu phẩm Liên hoa chùa Giám

Theo tôi, tòa Cửu phẩm liên hoa đẹp nhất là của chùa Giám.






Chùa Giám là nơi Nam dược Thánh Y - Thiền sư Tuệ Tĩnh đã từng tu hành, chữa thuốc đời Trần. Ngôi chùa có lịch sử từ đời Lý, trải nhiều lần trùng tu vẫn mang được nhiều nét kiến trúc cổ.

Năm 1971, chùa được dời từ bãi sông vào nơi mới, cách 8km. Vì ngôi chùa cổ bằng gỗ hoàn toàn, nên người ta đã dỡ ngói, dỡ mộng gỗ ra, rồi ghép lại, mà không ảnh hưởng đến kiến trúc. Cũng là một kỳ công.

Chùa rất đẹp, nhưng đẹp nhất là tòa Cửu phẩm liên hoa, hiện nay vẫn còn quay được. Tòa tháp gỗ này được sơn màu đỏ gạch, với các góc được trang trí như đốt trúc, có cả các mấu tre rất độc đáo. Số cánh sen ở mỗi lớp cũng nhiều và đẹp. Tòa Cối phật nằm ở giữa một tháp gỗ trong sân chùa, sáng sủa hơn nhiều so với tháp gỗ chùa Đồng Ngọ.

Có lẽ  để tìm hiểu về chùa Việt thì còn nhiều lắm những điều chưa biết, nhưng vì bài viết cũng đã dài, thôi để dịp nào đó sẽ trở lại vậy..

03/04/2022

Duyên chồng vợ



Người Việt mình xưa bao giờ cũng đặt tình nghĩa lên trên tất cả.

Archangel Gabriel nói:

Sống ở trên đời ai cũng có lỗi, có sai lầm, chỉ khác nhau là ít nhiều, nặng nhẹ mà thôi. Và sau những lỗi lầm đó thì cuộc sống vẫn tiếp diễn, vẫn tiến lên phía trước. Thế nên, ở đời cũng như trong cuộc sống vợ chồng nên chăng mỗi người hãy cố gắng đặt mình vào hoàn cảnh của người khác để thông cảm và thấu hiểu.

 Vợ chồng biết rộng lượng, tha thứ và bỏ qua lỗi lầm của nhau đó mới là tình nghiã vợ chồng thật sự. Bởi chính lòng nhân ái, vị tha sẽ giúp mỗi người giảm được sự căng thẳng, tức giận, bình tĩnh nhìn nhận lại vấn đề, phân biệt đúng sai và cùng nhau sửa lỗi.

Hơn nữa trong tình nghĩa vợ chồng thường khi yêu thì yêu cả tật xấu, yêu cả cái hư của người bạn. Ông bà ta có câu “Khi yêu củ ấu cũng tròn, ghét nhau bồ hòn cũng méo”. Thế nên, nếu đã từng yêu nhau, chúng ta hãy dành cho nhau một sự bao dung để rồi chúng ta chỉ nhớ đến những ký ức tốt đẹp của nhau. Có như vậy thì gia đình mới mong cùng nhau đi đến bến bờ trăm năm.

 Thuở đời, khi người sang thì bắt quàng làm họ, lúc người nghèo túng, đau yếu thì ngoảnh mặt không quen. Như thế còn gì là đạo lý nữa? Huống chi đó là người mình đầu ấp tay gối, người đã từng chia ngọt sẻ bùi cùng nhau. Lúc khổ đau, vợ chồng nắm tay đồng lòng thì mới mong có ngày hạnh phúc trở lại được.

Yêu thương nhau chỉ đong đếm bằng lời nói, nơi chót lưỡi đầu môi. Gặp chuyện thì mỗi kẻ một nơi, ai cũng cố vùng vẫy để tự thoát thân thì còn gì để nói nữa?

Dù người ấy có như thế nào, người vợ cũng nên bên cạnh sẻ chia, đó mới là tình chồng vợ. Mà đã thương chồng thì chuyện gì cũng phải cùng chồng vượt qua.

Người phụ nữ luôn được so sánh với sự hy sinh, lấy chồng là phải theo chồng. Dù sướng hay khổ cũng không than không trách. Như ca dao có câu:

“Thương chồng phải lụy cùng chồng

Đắng cay phải chịu, mặn nồng phải cam”

Vợ chồng nên duyên và sống với nhau đâu phải dễ.

Người ta nói, không còn tình cũng còn nghĩa. Cứ gặp chuyện là dứt áo ra đi vậy trách sao được lòng người bạc bẽo.

Khi yêu thì “thề non hẹn biển”, không muốn đi cùng lại gieo tiếng oán cho nhau.

Đừng đổ thừa vào duyên nợ, hết duyên chính là cái cớ hoàn mỹ nhất cho sự thay lòng đổi dạ của con người.

The Angel khẳng định

Chúng ta hãy nhớ rằng, mình đến với nhau là bởi tình yêu chứ không phải vì bất kì một thứ vật chất nào cả. Ông bà ta dạy “Lấy gà theo gà, lấy chó theo chó”, đã là người mình thương thì có sung sướng hay khổ đau cũng phải kề bên.

Đã mang một tiếng “vợ chồng” thì hãy sống sao cho ý nghĩa thiêng liêng và sâu nặng của nó được tiếp nối. Người bên cạnh bạn lúc vui sướng chưa chắc đã là tri kỷ nhưng người cùng chịu khổ với bạn chắc chắn là bạn tâm giao. Vì mấy ai trên đời thấy việc tốt mà tránh, thấy việc khổ mà lao đầu vào đâu.

Thì có thương nhau sâu nặng người ta mới ở lại bên nhau, cùng nắm tay vượt qua bão giông và sóng gió. Và cũng vì thương nhau sâu nặng, người ta mới ở bên nhau lâu bền.

Chúng ta thay lòng không đôi khi không phải vì hết yêu mà vì hoàn cảnh khiến tình yêu dần phai nhạt. Ai cũng trách người ra đi và xót thương cho người ở lại, chắc chắn rồi.

Chúng ta chọn lầm có thể chọn lại nhưng có phải nên đảm bảo rằng mình nên có một lời giải thích hợp lý hay không?

Lý Quân Diệp kết luận:

Đã trót thương nhau thì hãy vì nhau mà cố gắng, dù hạnh phúc hay đau khổ cũng cam tâm tình nguyện mà chịu. Rời xa nhau thì dễ chứ ở cạnh nhau mới thật sự là bản lĩnh. Trong đời, con người ta sẽ đối diện với không biết bao nhiêu là sóng gió. Nếu bản thân cứ mãi đổi thay như thế thì biết bao giờ mới trở nên người…

 

Dùng Gừng chữa bệnh, vô cùng hữu ích

Sưu tầm từ nhiều nguồn

 


   Gừng là gia vị quen thuộc với nhiều tác dụng mà gần như ai cũng biết. Nhưng chia sẻ này của chuyên gia Đông y sẽ khiến bạn ngạc nhiên vì sự hữu ích "vô bờ bến" của nó với sức khỏe.

Ngoài làm gia vị, gừng còn giúp cơ thể sửa đổi những trục trặc có thể nói là toàn thân.

  Sau đây là những cách sử dụng gừng đơn giản để chữa bệnh, áp dụng chúng sẽ đỡ phải uống thuốc.

1. Đổ mồ hôi, thanh trừ cảm lạnh

Theo Đông y, gừng tính ôn, ấm áp, vị cay, có tác dụng làm tiết mồ hôi, giảm nhiệt độ, có hiệu quả cao trong việc chống nôn. Khi bị cảm gió do lạnh có thể dùng nước gừng tươi để giải trừ cảm vô cùng hiệu quả.

Vì thế mà có người chỉ cần vừa bị cảm, ngay lập tức sẽ nấu một bát nước gừng tươi, thêm ít củ hành hoa, nước và đường nâu đun lên uống. Bệnh cảm sẽ nhanh chóng khỏi mà không cần đi viện.

Vì có tính ấm, nên gừng còn được Đông y xem là "bạn thân" của người mắc bệnh đau dạ dày do lạnh. Khi bị nhiễm lạnh dẫn đến đau bụng, pha chút gừng tươi ấm để uống có thể giảm nhẹ triệu chứng. Người mắc bệnh dạ dày có thể uống nước này thường xuyên ở mức độ phù hợp sẽ có thể ổn định tình trạng bệnh.

2. Giảm ho tiêu đờm

Ho có thể được chia thành những nguyên nhân như do nóng hoặc lạnh. Nếu là do cảm lạnh mà ra, thì có thể xem là cơ thể đã bị nhiễm lạnh. Lúc này, triệu chứng sẽ là ho nặng dần lên, kèm theo ngứa họng, đau đầu hoặc các triệu chứng sốt.

Gừng làm cho cơ thể ấm lên, đổ mồ hôi, từ đó bạn sẽ cảm thấy ho giảm, đờm giảm theo, đỡ đau họng và cải thiện tình hình nhanh chóng.

3. Thúc đẩy sự thèm ăn

Dân gian Trung Quốc lưu truyền câu tục ngữ nổi tiếng có ý rằng, chán cơm thì hãy ăn gừng. Mỗi lần cảm thấy không muốn ăn cơm, thì hãy ăn ngay vài ba lát gừng tươi hoặc có thể đập dập gừng, thái sợi cho vào món canh phù hợp, ăn vào sẽ thúc đẩy sự thèm ăn trở lại, làm tăng vị giác.

Ngoài ra, nhiều người còn ứng dụng cách băm nhỏ, phi thơm gừng tỏi để xào nấu một món ăn nào đó, hương thơm của gừng lẫn với tỏi sẽ kích thích khứu giác và vị giác, giúp bạn lấy lại cảm giác thèm ăn trở lại.

Uống nước gừng trước các bữa ăn cũng có thể cải thiện tình hình.

4. Làm giảm đau bụng kinh

Phụ nữ cơ thể yếu ớt thường dễ bị đau bụng kinh, đặc biệt là vào mùa lạnh hoặc khi cơ thể nhiễm lạnh. Theo Đông y, gừng có thể làm cơ thể ấm lên, giúp giảm chứng đau bụng kinh nhanh hơn. Gừng tươi và đường nâu là vị thuốc tuyệt vời nhất cho chị em. Hãy uống trước khi chu kỳ diễn ra 2-3 ngày.

Tuy nhiên đây chỉ là vị thuốc tốt dành cho người bị lạnh. Còn người có cơ địa nóng thì không nên sử dụng phương pháp này, hãy đến cơ sở y tế khi bạn cảm thấy quá đau.

5. Làm giảm viêm răng, viêm xương khớp

Khi bị viêm nha chu, chân răng sưng tấy do tác hại của cao răng tấn công, bạn có thể uống nước gừng để làm giảm đau trước khi nhờ tới sự can thiệp của bác sĩ.

Người bị viêm khớp là do nhiễm lạnh, để giảm đau có thể sao gừng nóng lên rồi quấn vào vùng khớp bị đau để cải thiện tình hình. Muốn tránh viêm khớp, bạn không nên để vùng này bị nhiễm lạnh, làm việc trong môi trường ẩm ướt dài ngày.

6. Ngâm chân:

Giảm bệnh hôi chân, làm ấm lòng bàn chân

Hôi chân là do vi khuẩn tích tụ lại lâu khi đi giày kín, dùng 1 chút gừng, giấm và muối đun nóng rồi ngâm chân vào buổi tối, không chỉ giúp bạn xử lý tình trạng hôi chân mà còn có thể dễ dàng đi vào giấc ngủ, giữ cho đôi chân luôn ấm áp.

Tuy nhiên người bị hôi chân quá nặng, đã bị vi khuẩn tấn công khiến cho vùng da bị viêm, lở loét, có vết thương hở thì không áp dụng phương pháp này.

7. Dùng gừng gội đầu để diệt khuẩn, giảm các bệnh trên da đầu

   Nấu nước cho chút gừng tươi để gội đầu có thể tiêu diệt các loại vi khuẩn bám trên da đầu, nhưng áp dụng bài thuốc này cần sự kiên nhẫn, thực hiện đều đặn cho đến khi tình hình cải thiện.

8. Ổn định và giảm huyết áp

Nói về những lợi ích của gừng, Giáo sư Vu Khang, Trưởng khoa Dinh dưỡng, Bệnh viện Hiệp Hòa, Bắc Kinh (TQ) chia sẻ, trong thực tế, chúng ta có thể ứng dụng gừng nhiều hơn so với những gì đã biết trước đây. Ví dụ, vào mùa lạnh, người bị bệnh huyết áp, tim mạch rất dễ phát bệnh.

Cách tốt nhất là nên dùng gừng đun nước ngâm chân, thêm chút giấm và muối để ngâm khoảng 15 phút trước khi ngủ. Làm đều đặn việc này sẽ làm khí huyết lưu thông tốt hơn, giảm huyết áp và ổn định tình trạng bệnh.

9. Chống suy nhược thần kinh

Đối với những người bị suy nhược thần kinh, y học Trung Quốc khuyên rằng bạn nên uống bát nước gừng nóng khi bụng rỗng để làm ấm hệ tiêu hóa, bổ sung khí, làm mới các cơ quan bên trong cơ thể, cải thiện giấc ngủ, từ đó ổn định thần kinh.

Người bị loét miệng có thể sử dụng nước súc miệng bằng gừng nóng pha thêm chút muối khoảng 2-3 lần một ngày, tuân thủ lâu dài giúp giảm nhẹ các vết loét.

10. Điều trị đau vai thắt lưng

Nhiều người bị đau vùng vai hoặc vùng thắt lưng, có thể nấu hỗn hợp nước gừng pha với giấm và muối, dùng khăn mặt nhúng nước, vắt ráo rồi chườm nóng lên vùng bị đau mỏi. Cách làm này vừa đơn giản, vừa hiệu quả, mang lại cảm giác thư thái toàn thân.

11. Chống xơ vữa động mạch

Uống chút nước gừng tươi mỗi ngày trước khi đi ngủ có thể làm ấm cơ thể, thúc đẩy tuần hoàn máu, ngăn ngừa xơ vữa động mạch. Pha hỗn hợp gồm 3 lát gừng, 1 cây hành lá, phần gốc trắng, 2 tép tỏi, một chút hạt tiêu. Uống nước, bỏ bã.

Mặc dù gừng rất tốt, có thể chữa được nhiều bệnh, trải dài khắp cơ thể từ đầu đến chân, nhưng chúng chỉ phù hợp với người bị lạnh. Còn khi bị nóng, nếu áp dụng phương pháp này sẽ khiến bệnh nặng hơn.

Vì vậy, khi có bệnh, bạn cần xem xét kỹ nguyên nhân mắc bệnh là do lạnh hay nóng, từ đó lựa chọn sử dụng gừng hay vị thảo dược khác. Người bị lạnh thường có triệu chứng sợ lạnh, chảy mũi, lưỡi họng rát nổi màu trắng.

Trong trường hợp bạn bị nóng gây ra bệnh với các triệu chứng như phát sốt, đai họng, chảy mũi vàng, đại tiện phân khô, đừng dùng gừng, mà hãy thử dùng trà hoa cúc, kim ngân hoa pha nước uống, hoặc ăn các món ăn giúp cơ thể mát hơn.

01/04/2022

Những hiểu lầm, hiểu không đúng về đạo Phật

 



Tôi chưa phải là Phật tử, tôi cũng chưa quy y nhưng tôi kính Phật, thích nghe giảng và tìm hiểu về đạo Phật. Tôi chưa ăn chay được vì chưa thích với có vẻ không hợp do tôi không thích ăn rau. Đôi lúc nhìn sự việc xung quanh của đạo pháp, có những cái tôi thấy chưa đúng của những người trong đạo hay có những sự việc người ta làm hơi mâu thuẫn với Phật pháp... Tôi vẫn giữ vững niềm tin vào Phật và chỉ tin Phật mà thôi.

Có khi tìm hiểu và đọc thêm những phân tích và phê bình dù đúng hay không tôi vẫn tiếp tục tin Phật. Nếu có những gì mới lạ mà tôi post lên chỉ để các bạn nghiên cứu và suy nghĩ, nhưng phải giữ vững niềm tin nếu bạn là Phật tử.

 Phật là chân lý, là người thầy hướng dẫn chứ không phải làm cho ta mê tín. Đó là điều tôi luôn ghi nhớ và hy vọng các bạn cũng đã biết. 

Ta chắp tay thành tâm lễ Phật là kính biết ơn Phật Tổ và các chư Phật đã bao bọc và chỉ đường, dẫn lối cho ta đi theo con đường sáng - Ví thế, ngày nào tôi cũng thắp hương lên ban Phật và bữa ăn nào tôi cũng thầm khấn biết ơn .

Đạo Phật ngày càng suy đồi, tha hoá, nguyên nhân thì nhiều, nhưng đôi khi vì trong giới tu sĩ và cư sĩ không trang bị đủ kiến thức của giáo pháp như thật - tức là giáo pháp cội rễ - mà chỉ chạy theo cành, nhánh, ngọn lắm hoa và nhiều trái. Từ đấy, khó phân biệt đâu là đạo Phật chân chính, đâu là đạo Phật đã bị biến chất, chạy theo thị hiếu dung thường của thế gian.

Đôi nơi đạo Phật còn bị trộn lẫn với tín ngưỡng duy linh và cả tín ngưỡng nhân gian nữa... Nhiều lắm, không kể xiết đâu.

Ở đây, tôi xin trích giới thiệu bài nói của ngài Minh Đức Triều Tâm Ảnh tại Ngoạ Tùng Am, Sơ Xuân 2015:

Với cái nhìn “chủ quan” của một tu sĩ Theravāda, tôi xin mạo muội liệt kê ra đây những hiểu lầm tai hại và rất phổ biến của Phật giáo để chư vị thức giả cùng thấy rõ như thực:

1- Tôn giáo: Đạo Phật có những sinh hoạt về tôn giáo nhưng đạo Phật không phải là tôn giáo, vì đạo Phật không có một vị thượng đế tối cao hoá sinh muôn loài và có quyền ban thưởng, phạt ác.

2- Tín ngưỡng: Đạo Phật có những sinh hoạt tín ngưỡng nhưng đạo Phật không phải là tín ngưỡng để mọi người đến van vái, cầu xin những ước mơ dung tục của đời thường.

3- Triết học: Đạo Phật có một hệ thống tư tưởng được rút ra từ Kinh, Luật và Abhidhamma, được gọi là “như thực, như thị thuyết” chứ không phải là một bộ môn triết học “chia” rồi “chẻ”, “phán” rồi “đoán” như của Tây phương.

4- Triết luận: Đạo Phật có tuệ giác để thấy rõ Cái Thực chứ không sử dụng lý trí phân tích, lý luận. Còn triết, còn luận là vì chưa thấy rõ Cái Thực. Đạo Phật là đạo như chơn, như thực. Kinh giáo của đức Phật luôn đi từ cái thực cụ thể để hướng dẫn mọi người tu tập, nó không có triết, có luận đâu. Ngay “thiền” mà còn “luận” (thiền luận) là đã đánh mất thiền rồi.

5- Từ thiện xã hội: Đạo Phật có những sinh hoạt từ thiện xã hội nhưng không coi từ thiện xã hội là tất cả, để hy sinh cuộc đời đầu tròn, áo vuông một cách uổng phí. Đạo Phật còn có những sinh hoạt cao cả hơn: Đó là giáo dục, văn hoá, nghệ thuật, tu tập thiền định và thiền tuệ nữa. Từ thiện xã hội thì ai cũng làm được, thậm chí người ta còn làm tốt hơn cả Phật giáo, ví dụ như Bill Gates. Còn giáo dục, văn hoá, nghệ thuật của đạo Phật là nền tảng Mỹ Học viết hoa (nội hàm các giá trị nhân văn, nhân bản) mà không một tôn giáo, môt chủ nghĩa, một học thuyết nào trên thế gian có thể so sánh được. Và đây mới là sự phụng hiến cao đẹp của đạo Phật cho thế gian. Còn nữa, nếu không có tu tập thiền định và thiền tuệ thì mọi hình thái sinh hoạt của đạo Phật, xem ra không phải là của đạo Phật đâu!

6- Cực lạc, cực hạnh phúc: Đạo Phật có nói đến hỷ, lạc trong các tầng thiền; có nói đến hạnh phúc siêu thế khi ly thoát tham sân, khổ lạc (dukkha), phiền não của thế gian - chứ không có một nơi chốn cực lạc, cực hạnh phúc được phóng đại như thế.

7- 8 vạn 4 ngàn pháp môn: Đạo Phật có nói đến 8 vạn 4 ngàn pháp uẩn (dhammakhandha) chứ không nói đến 8 van 4 ngàn pháp môn (dhammadvāra). Uẩn (khandha) ngoài nghĩa che lấp, che mờ và nghĩa chồng lên, chồng chất, còn có nghĩa là nhóm, liên kết, tập hợp ví như Giới uẩn (nhóm giới), Định uẩn (nhóm định), Tuệ uẩn (nhóm tuệ). Do từ uẩn (khandha) lại dịch lệch ra môn - cửa (dvāra), pháp môn nên ai cũng tưởng là có  8 vạn 4 ngàn pháp môn, tu theo pháp môn nào cũng được! Ai là người có thể đếm đủ 8 vạn, 4 ngàn cửa pháp này? Còn nữa, xin lưu ý, 8 vạn 4 ngàn chỉ là con số tượng trưng, có nghĩa là nhiều lắm, đếm không kể xiết theo truyền thống tôn giáo và tín ngưỡng Ấn Độ cổ thôi. Ví dụ 84 ngàn lỗ chân lông, 84 ngàn vi trùng trong một bát nước, 84 ngàn phiền não, 84 ngàn cách tu...

8- Xin xăm, bói quẻ, cầu sao, giải hạn, xem ngày giờ tốt xấu: Những hình thức này không phải của đạo Phật. Trong kinh tụng Pāli có đoạn: Giờ nào (chúng ta) thực hành thân, khẩu, ý trong sạch; giờ đó được gọi là vận mệnh tốt, là giờ tốt, là khắc tốt, là canh tốt... Ngày đó gọi là có nghiệp thân phát đạt, nghiệp khẩu phát đạt, nghiệp ý phát đạt. Và nguyện vọng theo đó được gọi là nguyện vọng phát đạt.

Người tạo nghiệp thân, nghiệp khẩu, nghiệp ý phát đạt như thế rồi sẽ được những lợi ích phát đạt (chữ phát đạt có thể có thêm nghĩa nhiều ích).

9- Định mệnh: Đạo Phật có nói đến nghiệp, đến nhân quả nghiệp báo chứ không hề nói đến định mệnh. Theo đó, gây nhân xấu ác thì gặt quả đau khổ, gây nhân lành tốt thì gặt quả an vui - chứ không phải “cái tơ cái tóc cũng do trời định” như định mệnh thuyết của Khổng Nho hoặc định mệnh 4 giai cấp của Bà-la-môn giáo.

10- Siêu độ, siêu thoát: Không có bài kinh nào, không có uy lực của bất kỳ ông sư, ông thầy nào có thể tụng kinh siêu độ, siêu thoát cho hương linh, vong linh, chân linh cả.

Thời Phật tại thế, nếu có đến nơi người mất, chư tăng chỉ đọc những bài kệ vô thường, khổ và vô ngã để thức tỉnh người sống; và hiện nay các nước Phật giáo Theravāda còn duy trì.  Có thể có hai trường hợp:

- Nếu vừa chết lâm sàng thì thần thức người chết vẫn còn. Vậy có thể đọc kinh, mở băng kinh, chuông mõ, hương trầm... để “thần thức người chết” hướng về điều lành... để thần thức tự tạo “cận tử nghiệp” tốt cho mình.

- Nếu thần thức đã lìa khỏi thân rồi – thì họ đã tái sanh vào cõi khác rồi, ngay tức khắc. Khi ấy thì gia đình làm phước để chư tăng tụng kinh hồi hướng phước ấy cho người đã mất.

Cả hai trường hợp trên đều không hề mang ý nghĩa siêu độ, siêu thoát mà chỉ có ý nghĩa gia hộ, gia niệm, gia lực mà thôi. Tu dựa vào tha lực cũng tương tự như vậy, nhưng cuối cùng cũng phải tự lực: “Tự mình thắp đuốc mà đi, tự mình là hòn đảo của chính mình”.

Chư thiên chỉ có khả năng hoan hỷ phước và báo truyền thông tin ấy cho người quá vãng mà thôi. Họ không có uy lực ban phước lành cho ai cả.

11- Huyền bí, bí mật: Giáo pháp của đức Phật không có cái gì được gọi là huyền bí, bí mật cả. Đức Phật luôn tuyên bố là “Như Lai thuyết pháp với bàn tay mở ra”; có nghĩa là ngài không có pháp nào bí mật để giấu kín cả!

12- Tâm linh: Ngày nay, người ta tràn lan lễ hội, tràn lan mọi loại điện thờ với những hình thức mê tín, dị đoan, sa đoạ văn hoá... mà ở đâu cũng rêu rao các giá trị tâm linh. Đạo Phật không hề có các kiểu tâm linh như vậy. Thuật ngữ tâm linh này được du nhập từ Trung Quốc. Và rất tiếc, tôi không hề tìm ra nguồn Phật học Pāli hay Sanskrit có từ nào tương thích với chữ “linh” này cả!

13- Niết-bàn: Nhiều người tưởng lầm Niết-bàn là ở một cõi nào đó, một nơi chốn nào đó; thậm chí là ở một thế giới ở ngoài thế gian này. Người nào tìm kiếm Niết-bàn kiểu ấy, thuật ngữ thiền tông có cụm từ “lông rùa, sừng thỏ” như ngài Huệ Năng đã nói rõ: “Phật pháp tại thế gian. Bất lý thế gian giác. Ly thế mịch bồ-đề. Cáp như tầm thố giác”. Thố giác là sừng thỏ. Và giác ngộ cũng vậy, chính ở trong khổ đau, phiền não mới giác ngộ bài học được.

Những vị đệ tử chưa chứng ngộ thường thắc mắc về Niết Bàn và đặt những câu hỏi về Niết Bàn. Đức Phật có nhiều lần đã im lặng trước những câu hỏi đó. Sự im lặng của Phật tổ cũng đã là một cách trả lời. Tìm hiểu về Niết Bàn là một việc làm mất thì giờ lại còn dễ đưa người tới những tưởng tượng hư vọng. Niết Bàn là một thực thể cần được thực chứng chứ không phải là đối tượng của những suy luận duy lý (đoạn này tôi thêm vào).

14- Bỏ khổ, tìm lạc: Tu Phật không phải là bỏ khổ, tìm lạc. Xin lưu ý cho: Khổ và Lạc chính là căn bản của phiền não!

15- Tu để được cái gì! Có nhiều người nghĩ rằng, tu là để được cái gì đó. Xin thưa, được cái gì là sở đắc. Ai sở đắc? Chính là bản ngã sở đắc. Đạo Phật là vô ngã. Hãy xin đọc lại Bát-nhã tâm kinh.

16- Tu là sửa: Nếu tu là sửa thì mình đã từ “cái ta này” biến thành “cái ta khác”. Nếu tu là không sửa thì cứ để nguyên trạng tham sân si như vậy hay sao? Xin thưa, sửa hay không sửa đều trật. Đạo Phật quan trọng ở Cái Thấy! Có Cái Thấy mới nói đến giác ngộ và giải thoát. Không có Cái Thấy này thì tu kiểu gì cũng trệch hướng hoặc rơi vào phước báu nhân thiên.

17- Vía: Đạo Phật không có vía nào cả. Vía, hồn, phách là quan niệm của nhân gian. Ví dụ, ba hồn bảy vía. Ví dụ, nam thất, nữ cửu – nam bảy vía, nữ chín vía. Nếu là nam thất, nữ cửu thì nó trùng với nam 7 khiếu, nữ 9 khiếu. Vía là phần hồn. Không có cái hồn, cái linh hồn tự tồn tại nếu không có chỗ nương gá. Vía không độc lập được. Như danh - phần tâm, sắc - phần thân – luôn nương tựa vào nhau.

Chỉ có năng lực thiền định mới tạm thời tách lìa danh ra khỏi sắc, như Cõi trời Vô tưởng của tứ thiền. Tuy nhiên, cõi trời Vô tưởng hữu tình này không phải là không có danh tâm mà chúng ở dạng tiềm miên. 

Còn các Cõi trời Vô sắc thì sắc không phải là không có, chúng cũng ở dạng tiềm miên. Thật đáng phàn nàn, Phật và Bồ-tát đều có “vía” cả! Và cũng thật là“đau khổ” khi trong lễ an vị Phật, người ta còn hô “Thần nhập tượng” nữa chứ!

18- Bồ-tát: Bồ-tát là âm của chữ Bodhisatta: Chúng sanh có trí tuệ. Vậy, chúng ta tạm thời bỏ quên “khái niệm Bồ-tát” quen thuộc trong kinh điển mà trở về với nghĩa gốc là “chúng sanh có trí tuệ”. Và như vậy, sẽ có hạng chúng sanh có trí tuệ với nguyện lực Thanh Văn; chúng sanh có trí tuệ với nguyện lực Độc Giác; chúng sanh có trí tuệ với nguyện lực Chánh Đẳng Giác. Ngoài 3 loại chúng sanh có trí tuệ trên – không có loại chúng sanh có trí tuệ nào khác.

19- Phật: Phật là âm của chữ Buddha, nghĩa là người Giác ngộ. Vậy chúng ta nên tạm thời bỏ quên “khái niệm Phật” từ lâu đã mọc rễ trong tâm thức mà trở về nghĩa gốc là bậc Giác ngộ. Vậy, có người Giác ngộ do nghe pháp từ bậc Chánh Đẳng Giác, được gọi là Thanh Văn Giác. Có người Giác ngộ do tự mình tu tập vào thời không có đức Chánh Đẳng Giác, được gọi là Độc Giác. Có vị Giác ngộ do trọn vẹn 30 ba-la-mật, trọn vẹn minh và hạnh nên gọi là Chánh Đẳng Giác.

Không có vị Giác ngộ (Phật) nào ngoài 3 loại Giác ngộ trên.

20- Thể nhập: Tu là không thể nhập vào cái gì cả. Thể nhập là bỏ cái ngã này để nhập vào cái ngã khác. Cãi ngã khác ấy có thể là dòng sông, có thể là ngọn núi, có thể là một cội cây, có thể là một thần linh, thượng đế.

Cái cụm từ “thể nhập pháp giới” rất dễ bị hiểu lầm. Khi đi, chánh niệm, tỉnh giác trọn vẹn với cái đi; khi nói, chánh niệm, tỉnh giác trọn vẹn với cái nói; khi ăn, chánh niệm, tỉnh giác trọn vẹn với cái ăn – thì đấy mới đúng nghĩa “thể nhập pháp giới”, ngay giây khắc ấy, mọi tham sân, phiền não không có chỗ để phan duyên, sanh khởi.



Ví dụ thôi

 


CÂU CHUYỆN THỨ NHẤT

 Cô gái mù không có gì cả, trên đời này chỉ còn có mỗi người yêu ở bên cạnh. Anh hỏi cô:

– Nếu mắt em khỏi rồi, em có lấy anh không?

Cô gái gật đầu đồng ý.

Rất nhanh sau đó, cô được hiến giác mạc, có thể nhìn thấy bình thường, mới phát hiện người yêu cô cũng bị mù.

Khi chàng trai cầu hôn, cô đã từ chối.

Description: https://www.facebook.com/images/emoji.php/v9/f51/1/16/2714.pngSuy ngẫm:

Khi một số việc thật sự xảy ra, liệu rằng ai cũng có thể đặt mình vào hoàn cảnh của người khác để yêu thương.

 

CÂU CHUYỆN THỨ HAI

Khi cầu hôn anh nói:

– Hãy tin anh.

Khi cô sinh cho anh một đứa bé kháu khỉnh, anh nói:

– Để em phải vất vả rồi.

Khi con gái lấy chồng, anh nói:

– Còn có anh.

Khi cô lâm bệnh nặng, anh nói:

– Anh vẫn ở đây.

Khi cô sắp phải ra đi, anh nói:

– Em đợi anh nhé.

Anh chưa bao giờ nói: “Anh yêu em!” nhưng tình yêu chưa bao giờ rời xa!

Description: https://www.facebook.com/images/emoji.php/v9/f51/1/16/2714.pngSuy ngẫm:

Có những người không giỏi biểu đạt nhưng ai dám nói họ thiếu thốn tình yêu.