Trích Việt Nam Sử lược (1919 - 1920)
Trần Trọng Kim (1883 - 1953)
Bản lưu tủ sách gia đình
1. Quốc-hiệu
2. Vị-trí và diện-tích
3. Địa-thế
4. Chủng loại
5. Gốc-tích
6. Người Việt-nam
7. Sự mở-mang bờ-cõi
8. Lịch-sử Việt-nam
1. QUỐC-HIỆU.
Nước
Việt-nam 越 南 ta về đời Hồng bàng (2897-258 tr. Tây-lịch) gọi là Văn-lang 文 郎, đời Thục An-dương-vương (257-207 tr. Tây-lịch?) thì gọi là Âu-lạc 甌 駱. Đến nhà Tần 秦 (246-206
tr. Tây-lịch?) lược định phía nam thì đặt làm Tượng-quận 象 郡, sau nhà Hán (202 tr. Tây-lịch 220 sau Tây-lịch) dứt nhà Triệu, chia đất
Tượng-quận ra làm ba quận là Giao-chỉ 交 趾, Cửu-chân 九 真và Nhật-nam 日 南. Đến cuối đời nhà Đông-Hán, vua Hiến-đế đổi
Giao-chỉ 交 趾 làm Giao-châu 交 州. Nhà Đường (618-907) lại đặt là An-nam Đô-hộ-phủ
安 南 都 護 府.
Từ khi
nhà Đinh (968-980) dẹp xong loạn Thập-nhị Sứ-quân, lập nên một nước tự-chủ, đổi
quốc-hiệu là Đại-cồ-việt 大 瞿 越. Vua Lý Thánh-tông đổi là Đại-Việt 大 越, đến đời vua Anh-tông, nhà Tống bên Tàu mới
công-nhận là An-nam quốc 安 南 國.
Đến đời
vua Gia-long, thống-nhất được cả Nam Bắc (1802), lấy lẽ rằng Nam là An-nam, Việt
là Việt-thường mới đặt quốc-hiệu là Việt-nam
越 南. Vua Minh-mệnh lại cải làm Đại-nam 大 南.
Quốc-hiệu
nước ta thay-đổi đã nhiều lần, tuy rằng ngày nay ta vẫn theo thói quen dùng hai
chữ An-nam 安 南, nhưng vì hai chữ ấy có ngụ ý phải thần-phục nước Tàu, vậy thì ta nên
nhất định lấy tên Việt-nam 越 南 mà gọi nước nhà.
2. VỊ-TRÍ
VÀ DIỆN TÍCH.
Nước
Việt-nam ở về phía đông-nam châu Á-tế-á, hẹp bề ngang, dài bề dọc, hình cong
như chữ S, trên phía Bắc và dưới phía Nam phình rộng ra, khúc giữa miền Trung
thì eo hẹp lại.
Đông
và Nam giáp bể Trung-quốc (tức là bể Nam-hải); Tây giáp Ai-lao và Cao-miên; Bắc
giáp nước Tàu, liền với tỉnh Quảng-đông, Quảng-tây và Vân-nam.
Diện-tích
cả nước rộng chừng độ 312.000 ki-lô-mét vuông chia ra như sau này:
Bắc Việt : 105.000 km2
Trung
Việt : 150.000 km2
Nam Việt : 57.000 km2
3. ĐỊA-THẾ.
Nước
ta hiện chia ra làm ba cõi: Bắc-Việt, Trung-Việt và Nam-Việt. Đất Bắc-Việt có
sông Hồng-hà (tức là sông Nhị-hà) và sông Thái-bình. Mạn trên gọi là Thượng-du
lắm rừng nhiều núi, ít người ở. Mạn dưới gọi là Trung-châu, đất đồng bằng, người
ở chen-chúc đông lắm.
Đất
Trung-Việt thì chỉ có một giải ở men bờ bể, còn ở trong có núi Tràng-sơn chạy dọc
từ Bắc-Việt vào gần đến Nam-Việt, cho nên người chỉ ở được mạn gần bể mà thôi.
Đất
Nam-Việt thì ở vào khúc dưới sông Mê-kông (tức là sông Cửu-long), lại có sông Đồng-nai
chảy ở mé trên, cho nên đất tốt, ruộng nhiều, dân-gian trù-phú và dễ làm ăn hơn
cả.
4. CHỦNG-LOẠI.
Người
Việt-nam có nhiều dân-tộc ở, như là ở về miền thượng-du Bắc-Việt thì có dân
Thái, (tức là Thổ), Mường, Mán, Mèo; ở về miền rừng núi Trung-Việt thì có dân Mọi,
và Chàm, (tức là Hời), ở về miền Nam-Việt thì có dân Mọi, Chàm, Chà-và và Khách,
vân vân. Những dân ấy ở trong ba nơi tất cả đến non một triệu người. Còn thì
dân-tộc Việt-nam ở hết cả.
Số người
Việt-nam ở trong ba nơi có thể chia ra như sau này:
Bắc-Việt : 8.700.000 người
Trung-Việt
: 5.650.000 người
Nam-Việt : 4.616.000 người
Cả thảy
cọng lại được độ chừng non 19 triệu người[1].
5. GỐC-TÍCH.
Theo
ý-kiến của những nhà kê-cứu của nước Pháp, thì người Việt-nam và người Thái đều
ở miền núi Tây-tạng xuống. Người Việt-nam theo sông Hồng-hà lần xuống phía
đông-nam, lập ra nước Việt-nam ta bây giờ; còn người Thái thì theo sông Mê-kông
xuống, lập ra nước Tiêm-la (tức là Thái-lan) và các nước Lào.
Lại có
nhiều người Tàu và người Việt-nam nói rằng nguyên khi xưa đất nước Tàu có giống
Tam-miêu 三 苗 ở, sau giống Hán-tộc (tức là người Tàu bây giờ) ở phía tây-bắc đến đánh
đuổi người Tam-miêu đi, chiếm giữ lấy vùng sông Hoàng-hà lập ra nước Tàu, rồi dần
dần xuống phía nam, người Tam-miêu phải lẩn núp vào rừng hay là xuống ở miền Việt-nam
ta bây giờ.
Những
ý-kiến ấy là theo lý mà suy ra đó thôi, chứ cũng chưa có cái gì làm chứng cho
đích-xác. Chỉ biết rằng người Việt-nam ta trước có hai ngón chân cái giao lại với
nhau, cho nên Tàu mới gọi ta là Giao-chỉ; mà xem các loài khác, không có loài
nào như vậy, thì tất ta là một loài riêng, chứ không phải là loài Tam-miêu.
Dẫu
người mình thuộc về chủng-loại nào mặc lòng, về sau người Tàu sang cai-trị hàng
hơn một nghìn năm, lại có khi đem sang nước ta hơn bốn mươi vạn binh, chắc là
nòi giống cũ của mình cũng đã lai đi nhiều rồi, mới thành ra người Việt-nam
ngày nay.
6. NGƯỜI
VIỆT-NAM.
Người
Việt-nam thuộc về loài da vàng, nhưng mà người nào phải đi làm-lụng dầm mưa dãi
nắng lắm, thì nước da ngăm-ngăm đen, người nào nhàn-hạ phong-lưu, ở trong nhà
luôn, thì nước da trăng-trắng như màu ngà cũ.
Trạc
người thì thấp nhỏ hơn người Tàu, mà lăn-lẳn con người, chứ không to-béo. Mặt
thì xương xương, trông hơi bèn-bẹt, trán thì cao và rộng, mắt thì đen và hơi xếch
về đàng đuôi, hai gò má thì cao, mũi hơi tẹt, môi hơi dày, răng thì to mà lại
nhuộm đen. Râu thì thưa mà ít, tóc thì nhiều và dài, đen và hơi cứng. Dáng-điệu
đi-đứng thì nhẹ-nhàng và xem ra bộ vững-vàng chắc-chắn.
Áo-quần
thì dài rộng, đàn-ông thì búi tóc và quấn khăn vành rây, áo mặc dài quá đầu gối,
tay áo thì chật, ống quần thì rộng. Đàn-bà ở Bắc-Việt và phía bắc Trung-Việt
thì đội khăn, mà ở chỗ thành-thị thì mặc quần, còn ở nhà quê thì hay mặc váy. Ở
phía nam Trung-Việt và Nam-Việt thì đàn-bà mặc quần cả, và búi tóc, chứ không đội
khăn bao giờ.
Về
đàng trí-tuệ và tính-tình, thì người Việt-nam có cả các tính tốt và các tính xấu.
Đại-khái thì trí-tuệ minh-mẫn, học chóng hiểu, khéo chân tay, nhiều người sáng
dạ, nhớ lâu, lại có tính hiếu học, trọng sự học thức, quý sự lễ phép, mến điều
đạo đức: lấy sự nhân, nghĩa, lễ, trí, tín làm 5 đạo thường cho sự ăn ở. Tuy vậy
vẫn hay có tính tình vặt, cũng có khi quỉ-quyệt, và hay bài-bác nhạo-chế. Thường
thì nhút-nhát, hay khiếp-sợ và muốn sự hòa-bình, nhưng mà đã đi trận-mạc thì
cũng có can-đảm, biết giữ kỹ-luật.
Tâm-địa
thì nông-nổi, hay làm liều, không kiên-nhẫn, hay khoe-khoang và ưa trương-hoàng
bề ngoài, hiếu danh-vọng, thích chơi bời, mê cờ-bạc. Hay tin ma quỷ, sùng sự lễ-bái, nhưng mà vẫn không nhiệt-tin
tông-giáo nào cả. Kiêu-ngạo và hay nói khoác, nhưng có lòng nhân, biết thương
người và hay nhớ ơn.
Đàn-bà
thì hay làm-lụng và đảm-đang, khéo chân, khéo tay, làm được đủ mọi việc mà lại
biết lấy việc gia-đạo làm trọng, hết lòng chiều chồng, nuôi con, thường giữ được
các đức tính rất quý là tiết, nghĩa, cần, kiệm.
Người
Việt-nam từ Bắc chí Nam, đều theo một phong-tục, nói một thứ tiếng[2] cùng giữ
một kỷ-niệm, thật là cái tính đồng-nhất của một dân-tộc từ đầu nước đến cuối nước.
7. SỰ
MỞ-MANG BỜ-CÕI.
Người
nòi-giống Việt-nam ta mỗi ngày một nẩy-nở ra nhiều, mà ở phía bắc thì đã có nước
Tàu cường-thịnh, phía tây thì lắm núi nhiều rừng, đường đi lại không tiện, cho
nên mới theo bờ bể lần xuống phía nam, đánh Lâm-ấp, dứt Chiêm-thành, chiếm đất
Chân-lạp, mở ra bờ-cõi bây giờ.
8. LỊCH-SỬ
VIỆT-NAM.
Từ khi
người Việt-nam lập thành nước đến giờ, kể hàng mấy nghìn năm, phải người Tàu
cai-trị mấy lần, chịu khổ-sở biết bao nhiêu phen, thế mà sau lại lập được cái nền
tự-chủ, và vẫn giữ được cái tính đặc-biệt của giống mình, ấy là đủ tỏ ra rằng
khí-lực của người mình không đến nỗi kém-hèn cho lắm. Tuy rằng mình chưa làm được
việc gì cho vẻ-vang bằng người, nhưng mình còn có thể hy-vọng một ngày kia cũng
nên được một nước cường-thịnh.
Vậy
ghi-chép những cơ-hội gian-truân, những sự biến-cố của nước mình đã trải qua,
và kể những công-việc của người mình làm từ đời nọ qua đời kia, để cho mọi người
trong nước đều biết, ấy là sách Việt-nam sử.
Nay ta
nên theo từng thời-đại mà chia sách Việt-nam sử ra 5 phần để cho tiện sự kê-cứu:
Phần I
: Thượng-cổ thời-đại.
Phần
II : Bắc-thuộc thời-đại.
Phần
III : Tự-chủ thời-đại.
Phần
IV : Nam-bắc Phân-tranh thời-đại.
Phần V
: Cận-kim thời-đại.
Chú thích cuối trang
▲ Số
này là theo sách Địa-lý của ông H. Russier (1939) chép lại chứ không chắc đã
đúng số nhất-định của người mình.
▲ Tuy
rằng mỗi nơi có một ít tiếng thổ-âm riêng và cái giọng nói nặng nhẹ khác nhau,
nhưng đại-để thì vẫn là một thứ tiếng mà thôi.