Ở đây, theo mình nghĩ, những điều sơ đẳng nhất về Phật Pháp mà các Phật tử băn khoăn sẽ tìm thấy lời giải đáp dễ hiểu - Có điều, chớ bằng lòng với những điều này để chểnh mảng trong việc đọc - hiểu Kinh Phật vì nơi đó mới là Tuệ.
Chân thành.
01.- ĐỨC PHẬT ĐÃ DẠY CHÚNG
TA NHỮNG GÌ?
Cách trả
lời hay nhất là trích dẫn những lời Phật dạy:
“Nầy các Tỳ Kheo, Như
Lai chỉ dạy về Đau Khổ và cách loại trừ Đau Khổ”.
Dầu câu
trả lời nầy có phù hợp với ý nghĩ của bạn hay không thì cũng nên ghi nhớ
lấy. Có nhiều cách trả lời câu hỏi nầy, nhưng câu nói trên của Đức Phật đã tóm
gọn một cách rõ ràng những lời dạy của Đức Phật.
Đức Phật
chỉ dạy về Đau Khổ và sự dập tắt Đau Khổ. Do đó, những câu hỏi chẳng liên quan
đến Đau Khổ và dập tắt Đau Khổ là những câu hỏi không thích nghi. Các bạn chẳng
cần quan tâm đến những câu hỏi như: “Sau khi chết có tái sanh hay không?” hoặc:
“Sự tái sanh diễn ra như thế nào?”. Các câu hỏi như thế sẽ chưa cần bàn đến.
Tóm lại,
khi được hỏi rằng:
“Đức Phật đã dạy
chúng ta những gì?”.
Hãy trả
lời:
“Đức Phật chẳng dạy gì
ngoài Đau Khổ và cách loại trừ Đau Khổ”.
***
02.-ĐỨC PHẬT ĐÃ DẠY ĐẶC
BIỆT NHỮNG ĐIỀU GÌ?
A.-Đây là
một vấn đề lớn, có thể trả lời bằng nhiều cách. Nếu được hỏi như thế, trước
tiên, chúng ta có thể trả lời rằng:
Đức Phật dạy chúng ta đi
trên Trung Đạo, đừng quá khổ hạnh mà cũng đừng quá dãi đãi; đừng ngã theo
cực đoan nầy cũng chẳng ngã theo cực đoan kia.
Một
mặt, chúng ta tránh quá ép xác khổ hạnh vì như thế sẽ tạo ra nhiều khó khăn và
rối rắm; mặt khác hãy tránh xa những phương pháp thực hành khiến cho dục lạc
ngũ trần phát sinh.
Cũng như
bảo rằng:
“Hãy ăn, hãy uống, hãy
vui đùa, vì ngày mai chúng ta sẽ chết!”.
Đây là một
câu nói trơ trẽn, chỉ thích hợp với hạng người đắm đuối trong dục lạc thế gian.
Ngược lại
với hai thái cực trên, Trung Đạo bao gồm: một mặt, không tạo nên những cực nhọc
cho ta; mặt khác không để cho tâm đắm chìm trong dục lạc giác quan.
Đi trên
Trung Đạo là tạo cơ duyên và điều kiện thuận lợi cho sự học hỏi và thực hành,
đem đến kết quả là chấm dứt Đau Khổ. Chữ Trung Đạo có thể được áp dụng trong
nhiều trường hợp khác nhau. Trung Đạo chẳng thể nào đưa bạn đi lạc đường. Trung
Đạo tạo phương tiện tốt đẹp để chúng ta thấy rõ được chân lý:biết nhân, biết quả, biết đủ,biết đúng thời, biết mình, biết người, biết cộng đồng. Bảy đức tính cao
thượng nầy tạo thành những bước đi trên Trung Đạo.
Đó là một
cách trả lời câu hỏi trên.
B.-Chúng
ta cũng có thể trả lời câu hỏi nầy bằng cách nói rằng Đức Phật dạy Tự Lực. Một
cách ngắn gọn, tự lực là không dựa vào thời vận hay số
mạng.
Chúng ta
không dựa vào các bậc Trời, ngay cả các bậc thường được gọi là Thượng Đế.
Chúng ta
phải tự lực. Hãy nhớ lời Phật dạy: “Ta là nơi nương tựa của Ta”.
Ngay cả
trong những tôn giáo hữu thần cũng nói rằng: “Thượng Đế chỉ cứu giúp những ai biết tự cứu lấy mình”.
Trong các
tôn giáo khác, vấn đề tự cứu hay tự lực có thể được nói đến hoặc ít hoặc
nhiều, nhưng trong Phật giáo, vấn đề tự cứu hay tự lực rất quan trọng. Người
nào bị phiền muộn, đau khổ chi phối, bị gạt gẫm, đau thân, khổ tâm thì phải
biết quay về con đường tự cứu.
Đức Phật
dạy: “Chư
Phật chỉ đơn thuần chỉ cho ta con đường. Còn việc đi trên con đường ấy, mọi
người phải tự cố gắng làm lấy”.
Tóm lại,
Đức Phật dạy “tự lực, tự cứu”. Chúng ta hãy ghi nhớ điều nầy.
C.-Một
cách khác để trả lời câu hỏi trên là nhắc lại lời Phật dạy: “Mọi sự vật đều bị chi phối bởi Nhân và Duyên (điều kiện).
Mọi sự vật nảy sinh tùy thuộc vào nguyên nhân và điều kiện, đúng theo định luật
tự nhiên”.
Tôn giả
A-Xà-Chí đã lập lại lời dạy nầy để giải đáp cho Tôn giả Xá-Lợi-Phất, lúc Ngài
chưa gia nhập Tăng Đoàn:
“Đức Phật dạy rằng, mọi
sự vật khởi lên đều có nguyên nhân; phải biết nguyên nhân của chúng cùng sự
chấm dứt nguyên nhân đó”.
Đây là một
nguyên lý rất phù hợp với khoa học, và chúng ta có thể nói rằng tất cả những
lời dạy của Đức Phật đều phù hợp với nguyên lý của khoa học. Đức Phật không
dùng những dữ kiện cá nhân hay chủ quan để làm tiêu chuẩn trong sự dạy dỗ; nói
cách khác, Phật giáo là một tôn giáo của lý trí.
D.-Một
cách trả lời khác là: Đức Phật dạy những quy tắc thực hành: “tránh làm điều ác, siêng làm việc lành, thanh lọc tâm ý”. Ba điều trên được
gọi là Giới Bổn Căn Bản, có nghĩa là “tóm lược những lời khuyên dạy”.
Tránh ác
và làm lành là những điều dễ hiểu nhưng giữ tâm trong sạch là điều cần giải
thích rõ ràng. Một người cứ nắm giữ và dính mắc, ngay cả dính mắc vào điều lành
thì cũng làm cho tâm thức người ấy bất an vì lo sợ không nhận được kết quả
lành, lo sợ mất mát những điều tốt đẹp đang có; âu sầu, phiền muộn, và
cho những cảm tính đó là “của tôi”. Tất cả những điều đó
tạo nên đau khổ. Mặc dầu chúng ta có thể thành công trong việc tránh ác và làm
lành, nhưng chúng ta vẫn cần phải biết cách làm thế nào để tâm được thanh tịnh.
Đừng nắm
giữ hay dính mắc vào bất cứ điều gì, đừng xem cái gì là “ta” hay “của ta”, nếu ngược lại thì sự khốn khó và đau khổ sẽ đè
nặng trên vai ta.
Vậy thì,
đừng đội trên đầu một bao ngọc ngà châu báu, vì cũng nặng y như đội một bao sỏi
đá vậy.
Hãy đặt
chúng xuống, đừng để vật nào trên đầu (không nắm giữ việc thiện hoặc ác trong
tâm). Đó là ý nghĩa của việc thanh lọc.
Tóm lại,
Đức Phật dạy: thứ nhất là tránh làm điều ác, thứ hai
là siêng làm những điều lành và thứ ba là thanh lọc tâm.
E.-Và đây
là lời dạy quan trọng khác cần được nhắc nhở luôn. Đức Phật dạy rằng: “Các pháp hữu vi, tức là mọi sự vật và mọi chúng sanh trên
thế gian đều Vô Thường vì chúng luôn luôn trôi chảy, biến đổi, hoại diệt. Chúng
ta phải luôn tỉnh thức”. Hãy thận trọng ghi nhớ lời dạy nầy.
Mọi sự vật
trên thế gian đều luôn luôn trôi chảy, biến đổi, hoại diệt, nghĩa là đều Vô
Thường. Đừng đùa với chúng! Chúng sẽ cấu xé bạn, sẽ cột trói và giữ chặt bạn.
Rồi bạn sẽ ngã quị mà khóc than, và biết đâu … lại muốn tự tử nữa!
Bây giờ
hãy đúc kết lại những cách trả lời về câu hỏi trên. Nếu được hỏi Đức Phật đã
dạy những gì, thì ta nên trả lời bằng một trong các câu sau đây:
- Ngài
dạy chúng ta đi trên Trung Đạo;
- Ngài
dạy chúng ta tự lực, tự cứu;
- Ngài
dạy chúng ta hiểu rõ luật Nhân Quả, phải biết tạo nhân như thế nào để được
hưởng quả tốt đẹp như ý muốn;
- Ngài
dạy chúng ta nguyên tắc thực hành: làm việc lành, tránh việc ác, thanh lọc tâm
ý;
- Và
Ngài nhắc nhở chúng ta rằng: tất cả mọi sự, mọi vật đều vô thường, biến đổi,
chúng ta phải luôn luôn tỉnh thức.
***
03.-XIN NÓI MỘT CÁCH VẮN
TẮT THÔNG ĐIỆP CỦA PHẬT GIÁO LÀ GÌ?
Chúng ta
có thể trả lời ngắn gọn bằng một câu mà chính Đức Phật đã dạy:
“Không nên bám víu, nắm
giữ vào bất cứ điều gì”.
Câu nầy do
chính Đức Phật dạy và đã được lưu truyền đến bây giờ. Chúng ta chằng cần phí
thời giờ tra cứu Tam Tạng Kinh Điển, vì câu ngắn gọn nầy đã nói lên đầy đủ giáo
pháp của Đức Phật:
“Không nên
bám giữ hay dính mắc vào bất cứ điều gì?”.
Lời dạy
nầy cho chúng ta biết rằng bám víu, nắm giữ là Đau Khổ. Một khi đã hiểu rõ điều đó, thì có thể coi như là
ta đã hiểu biết tất cả những lời dạy của Đức Phật, gồm trong bốn vạn tám ngàn
pháp môn. Và khi chúng ta thực hành lời dạy nầy tức là chúng ta đã thực hành
Phật Pháp một cách đầy đủ và trọn vẹn.
Vì sao một người thất
bại trong việc giữ gìn giới cấm?
Chính là vì y đã “bám
víu và nắm giữ” vào sự vật. Nếu y biết tự kiềm
chế, chẳng bám víu vào bất cứ vật gì, loại bỏ được tham ái và sân hận, thì y chẳng thể nào
phạm giới.
Vì sao tâm trí một người
lại luôn luôn xao lãng và chẳng thể định tâm? –
Là vì y đang dính mắc
vào một điều gì. Một người không có
được trí tuệ nội quán cũng là do bám víu, dính mắc. Một khi đã biết tập cách
buông bỏ, không nắm giữ nữa, liền đó người ấy đạt được các quả vị và cuối cùng
thành tựu Niết Bàn.
Đức Phật là bậc hoàn toàn
không hề bám víu vào điều gì.
Ngài dạy phương pháp
thực hành và kết quả của việc thực hành đó là sự không nắm giữ. Tăng Già bao gồm những người thực hành sự
không nắm giữ: một số còn đang thực tập và một số đã
hoàn tất.
Vậy, khi
được yêu cầu tóm tắt Giáo Pháp của Đức Phật trong một câu ngắn. Đức Phật đáp:
“Không nên bám víu, nắm
giữ bất cứ điều gì”.
***
04.-LÀM THẾ NÀO ĐỂ THỰC
HÀNH SỰ KHÔNG BÁM VÍU, NẮM GIỮ?
Nếu nột
người hỏi bạn làm thế nào để thực hành việc không bám víu, nắm giữ, thì bạn nên
một lần nữa đem câu nói của chính Đức Phật ra mà trả lời, chứ không nên đưa ý
kiến riêng của chúng ta. Đức Phật chỉ dẫn cách thực hành thật đầy đủ như sau:
“Khi thấy một vật, chỉ đơn thuần là thấy
vật ấy.
Khi nghe một âm thanh, chỉ đơn thuần là nghe âm thanh ấy.
Khi ngửi một mùi gì, chỉ đơn thuần là ngữi mùi ấy.
Khi nghe một âm thanh, chỉ đơn thuần là nghe âm thanh ấy.
Khi ngửi một mùi gì, chỉ đơn thuần là ngữi mùi ấy.
Khi nếm một vị gì, chỉ
đơn thuần là nếm một vị đó.
Khi thân xúc chạm một vật gì, chỉ đơn thuần là sự xúc chạm.
Khi một đối tượng của tâm, chẳng hạn một ý nghĩ bất thiện khởi sinh, hãy nhận biết và ghi nhận ý nghĩ bất thiện ấy”.
Khi thân xúc chạm một vật gì, chỉ đơn thuần là sự xúc chạm.
Khi một đối tượng của tâm, chẳng hạn một ý nghĩ bất thiện khởi sinh, hãy nhận biết và ghi nhận ý nghĩ bất thiện ấy”.
Chúng ta
hãy nhắc lại lời dạy trên, để giúp cho những bạn nào chưa từng được nghe đến
những câu ấy:
Khi thấy, chỉ “biết”:
hình thể, màu sắc;
Khi nghe, chỉ “biết”: âm
thanh;
Khi ngửi, chỉ “biết”:
mùi;
Khi nếm, chỉ “biết”: vị;
Khi thân xúc chạm vật
gì, chỉ “biết”: cảm giác;
Và khi một đối tượng
trong tâm khởi sinh (hình ảnh, tư tưởng…) chỉ “biết”: chính đối tượng đó.
Điều nầy
có nghĩa là khi sự vật tiếp xúc qua giác quan, chúng ta chỉ “đơn thuần ghi
nhận” mà không nên để cho ý nghĩ “tôi, ta” khởi lên. Nếu chúng ta thực hành như
thế thì ý niệm về “ta, tôi” không khởi sinh được; và một khi cái ta không có
mặt, đau khổ sẽ chấm dứt.
Cần giải
thích thêm câu: “Khi thấy một vật gì, chỉ đơn thuần là thấy”. Khi có vật tiếp
xúc với mắt, hãy quan sát và nhận diện chúng, để biết cần phải làm gì, nhưng
đừng để cho yêu hay ghét khởi sinh. Nếu để cho yêu hiện khởi thì tham muốn sẽ
phát sinh, và bạn sẽ nắm giữ nó; nếu để cho ghét nổi lên thì sân hận sẽ phát
sinh, và bạn sẽ muốn hủy hoại nó.
Thế là “người
thương” hay “người ghét” đã có mặt. Đấy là điều được gọi là “Cái Ta” hay “Tự
Ngã”. Vì dính mắc vào cái Ta, cái Tự Ngã nên chúng ta Đau Khổ.
Khi một sự
thấy xảy ra, hãy tỉnh giác. Đừng để phiền não lôi cuốn để phải dính mắc. Hãy
trao dồi trí tuệ để biết điều gì cần phải làm cho đúng và thích nghi. Nếu thấy
không cần phải làm điều gì, thì phải quên ngay điều đó.
Nếu đang
chờ đợi một kết quả nào về điều ấy thì cứ tiến hành với Tỉnh Thức, đừng để cho
ý tưởng về cái ta có dịp sanh khởi. Bằng cách nầy, bạn sẽ đạt được kết quả mong
muốn mà không có sự đau khổ nào xảy ra. Đó là nguyên tắc để thực hành Giáo
pháp, đáng được xem là tuyệt hảo.
Đức Phật
dạy: “Khi thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm
chỉ thuần là thấy, nghe, ngửi, nếm, cảm giác; khi tâm nhận biết một đối tượng chỉ thuần là sự nhận biết".
Hãy
để sự vật ngưng ngay tại đó và trí tuệ quan sát nội tâm sẽ vận hành một cách tự
nhiên. Hãy chọn lối đi đúng đắn và thích hợp.
Đừng
tạo thêm “người thương” hay “người ghét”. Đừng để tham ái tác động theo sự yêu
ghét, vì đấy là nguồn gốc của phiền não. Một tâm tư như thế sẽ bị náo loạn,
chẳng tự do. Tâm ấy hoạt động không có một chút trí tuệ nội quán nào.
Tại sao ta
không đề cập tới những công đức đầy thắng quả như: Giới, Định, Huệ, tạo
phước hay bố thí?
Chúng
ta làm phước, bố thí, giữ giới, phát triển định tâm và đạt trí huệ để trở nên
một người an định.
Làm phước
và bố thí nhằm mục đích để loại bỏ tự ngã. Giữ gìn giới luật là một phương thức
để chế ngự cái Ta. Tập trung tâm ý hay phát triển trí huệ cũng để loại trừ chấp
ngã.
Chúng ta
chẳng bàn đến những vấn đề đó, ở đây chúng ta chỉ nói đến những vấn đề khẩn cấp
hằng ngày. Hằng ngày, mắt ta thấy vật nầy, vật nọ, tai ta nghe tiếng nầy, tiếng
kia, mũi ta ngửi mùi thơm, mùi hôi, cả sáu giác quan đều có sự tiếp xúc hằng
ngày.
Khi tâm ta
an ổn, không lay chuyển và quân bình, dầu cho đủ loại sự vật tiếp xúc với chúng
ta bằng nhiều cách qua nhiều ngả giác quan khác nhau nhưng tự ngã vẫn không
phát sinh được.
Như thế, chỉ cần thực tập công phu “thấy, chỉ biết thấy; nghe, chỉ biết nghe…” cũng đủ bao trùm mọi công phu thực tập. Đó chính là cốt tủy của sự thực hành Giáo pháp.
Như thế, chỉ cần thực tập công phu “thấy, chỉ biết thấy; nghe, chỉ biết nghe…” cũng đủ bao trùm mọi công phu thực tập. Đó chính là cốt tủy của sự thực hành Giáo pháp.
***
05.-NƠI NÀO CHÚNG TA CÓ
THỂ TU HỌC ĐƯỢC?
Đức Phật
dạy rằng:
“Dùng ngay chính
trong cái thân vật chất nầy, với các tri giác và những hoạt động tâm ý để tu
học”.
Hãy học trong tấm thân
con người cùng với các tri giác và hoạt động tâm ý.
Tấm thân
vật chất nầy, còn đang sống động cùng với các tri giác, các tác động tâm ý; tất
cả các phần đó lập thành con người. Sự hiện diện của Thức bao hàm các tri giác và sự hiện diện của các hoạt động tâm ý bao hàm các kiến thức và tư tưởng.
Trong tấm
thân vật chất đó cùng với các tri giác và các hoạt động tâm linh, Đức Phật đã
cho biết rõ ràng: thế gian, nguồn gốc thế gian, sự tận diệt của thế gian cùng đường lối thực hành để hoàn thành sự tận diệt chính nó.
Khi Ngài
nói đến nguồn gốc thế gian, sự hoại diệt của thế gian cùng đường lối thực hành
đưa đến sự tiêu diệt hoàn toàn thế gian đó, là Ngài muốn nói rằng: toàn thể Giáo Pháp đều phải tìm thấy trong tấm thân nầy.
Không cần
phải đến trường, vào hang động, lên rừng hoang, trèo núi cao, hay vào tu viện.
Các nơi đó đều nằm bên ngoài chúng ta. Hãy xây dựng một ngôi trường bên trong,
thiết lập một đại học đường ngay trong thân thể nầy rồi hãy nghiên cứu, học
tập, sưu tầm, thám thính tìm ra sự thật về sự tạo khởi của thế gian.
Vì đâu thế
gian lại là suối nguồn của đau khổ, thế gian có được hủy diệt hoàn toàn chăng?
(tức sự hủy diệt của đau khổ) và làm cách nào để tận diệt được nó. Nói cách
khác hơn là để diễn đạt ý nầy, đó là hãy tự mình khám phá trở lại Bốn Chân Lý Cao Thượng (Tứ Diệu Đế).
Đôi khi
Đức Phật dùng danh từ “thế gian”, đôi khi Ngài dùng
danh từ “đau khổ”:
*Bản chất của thế gian
hay của sự đau khổ,
*Bản chất sanh khởi của thế gian, của đau khổ và nguồn gốc của thế gian, của đau khổ;
*Bản chất sanh khởi của thế gian, của đau khổ và nguồn gốc của thế gian, của đau khổ;
*Bản chất của sự hoàn
toàn diệt tận thế gian, của đau khổ;
*Cùng với bản chất của
sự tu tập để đi đến chấm dứt thế gian, chấm dứt đau khổ.
Những vấn
đề đó cần được tìm tòi và nhận thấy ngay trong tấm thân nầy, chớ chẳng phải ở
nơi nào khác. Nếu ai đã tìm thấy các vấn đề trên tại một nơi nào khác, thì đó
là những bản tường trình ghi trong sách vở, hoặc là lời đồn đãi hay những danh
từ rỗng suông mà thôi chứ không phải là Chân Lý.
Nếu những vấn đề trên đã
được tìm thấy ngay trong tấm thân vật chất nầy cùng với tâm ý thì đó mới thật
là Chân Lý.
Vậy thì
nếu được hỏi:
“Cần phải tu học nơi
nào?”
Bạn hãy
đáp:
“Chúng ta tu học ngay
trong tấm thân vật chất nầy cùng với tri giác và các hoạt động tâm ý”
***
06.-GIÁO PHÁP ĐƯỢC SO SÁNH
VỚI ĐIỀU GÌ?
Đức Phật
dạy:
“Giáo Pháp có thể được
so sánh với chiếc bè”.
Đức Phật
dùng chữ bè, bởi vì ngày xưa bè thường được dùng để sang sông, và cách
giải thích Giáo Pháp như một chiếc bè như thế rất dễ hiểu. Ví dụ nầy mang một ý
nghĩa quan trọng. Chúng ta không nên quá dính mắc vào Giáo Pháp đến nổi quên cả
chính mình hoặc hãnh diện cho mình là “ông thầy”, học giả hay bậc tri thức.
Nếu chúng
ta quên rằng Giáo Pháp chỉ như một chiếc bè, thì các nguy cơ trên sẽ phát sinh.
Giáo Pháp chỉ là một chiếc bè, một phương tiện chuyên chở để đưa ta sang đến bờ
bên kia. Khi đã đến bờ bên kia và đặt chân lên đất liền rồi, chúng ta chẳng dại
gì mà vác chiếc bè đi theo ta nữa.
Ví dụ đó
nhằm mục đích dạy cho chúng ta nhận chân và sử dụng Giáo Pháp như một phương
tiện để đạt đến mục đích, chớ không phải để bám víu, nắm giữ, dính mắc vào Giáo
Pháp mà quên cả chính mình.
Nếu chúng
ta không nhận chân ra được chức năng thật sự của chiếc bè nầy thì chúng ta sẽ
giữ nó lại để phô trương hoặc để tranh cãi với kẻ khác. Đôi khi lại còn dùng
chiếc bè để… đua thuyền, thật là hao phí và vô dụng.
Chiếc bè
phải được sử dụng đúng với mục đích của nó là để đưa ta sang sông. Cũng vậy,kiến thức về Giáo Pháp cần phải được sử
dụng để vượt qua biển khổ. Không nên dùng vào các
mục đích tai hại như để tranh cãi, hay được dùng như một vật để tôn thờ, lễ
bái. Cuối cùng, xin đừng bám chặt vào chiếc bè đến nỗi đã sang bờ bên kia, chân
đã đặt trên đất liền rồi mà vẫn còn muốn mang chiếc bè kè kè theo bên mình.
Giáo Pháp được ví như
chiếc bè phải được áp dụng cho cả người xuất gia lẫn tại gia.
***
07.-NGƯỜI CƯ SĨ TẠI GIA
CẦN PHẢI TU HỌC NHỮNG GÌ?
Chúng ta
đừng mất thời giờ tìm câu trả lời theo ý riêng của mình. Nếu người nào có ý
riêng thì cũng tốt thôi. Nhưng nếu muốn có một câu giải đáp phù hợp với lời
Phật dạy thì chúng ta phải nói: “Người tại gia cư sĩ phải nghiên cứu
tất cả kinh điển, nghĩa là những bài giảng mà Đức Phật đã dạy về “Vô Ngã, Rỗng
Vắng, Không Có Tự Thể”.
Trước hết,
Kinh là những lời dạy cốt yếu của Đức Phật, được hệ thống hóa, trình bày khéo
léo và xếp đặt có thứ tự.
Sự Vô Ngã,
Rổng Vắng, Không Có Cốt Lõi có thể dường như xa lạ đối với bạn, nhưng xin đừng
vội chán nản, bởi vì đây là những chữ rất quan trọng trong Phật Giáo.
Chữ Rổng
Vắng thường có nhiều nghĩa và cách dùng khác nhau. Chữ Rổng Vắng trong Phật
Giáo không phải là sự rổng vắng về mặt vật chất. Nó chẳng phải là một khoảng
trống không chẳng chứa đựng một chất liệu nào.
Rổng Vắng ở đây có nghĩa
là không có một chút bản chất riêng nào.
Mặc dầu có
rất nhiều sự vật tràn đầy khắp thế gian nhưng Đức Phật dạy rằng: chúng là rổng
không bởi vì không có lấy một chút gì nơi muôn vật đó có cái đáng xem là Tự
Ngã, là Ta hay thuộc về Tự Ngã , thuộc về Ta. Lời dạy ấy nhằm mục tiêu chỉ rõ
lại một lần nữa chẳng có gì đáng để bám víu, nắm giữ
cả.
Khi tâm
nhận ra rằng không có gì là Tự Ngã cũng không có gì thuộc về Tự Ngã thì tâm sẽ
trở thành Rổng Vắng và Tự Do.
“Thế giới nầy trở thành
Rổng Vắng, Tự Do”
***
08.-THẾ NÀO LÀ PHÁP BẤT
TỬ?
Đức Phật
đã dạy:
“Sự chấm dứt Tham, Sân,
Si chính là Pháp Bất Tử”.
Chừng nào chúng
ta còn có Tham, Sân, Si thì còn có sự chết, còn có sự đau khổ. Vì còn Ngã Kiến,
còn Tôi, Ta nên ta phải chịu sanh, già, bệnh, chết.
Khi tham, sân, si chấm dứt, ý niệm sai lầm về tự ngã không khởi sinh thì làm gì có cái Ta để chết đi? Do đó, nếu muốn đi tìm một trạng thái bất tử, thì chúng ta phải tìm những nguyên nhân và điều kiện để loại trừ Tham, Sân, Si.
Khi tham, sân, si chấm dứt, ý niệm sai lầm về tự ngã không khởi sinh thì làm gì có cái Ta để chết đi? Do đó, nếu muốn đi tìm một trạng thái bất tử, thì chúng ta phải tìm những nguyên nhân và điều kiện để loại trừ Tham, Sân, Si.
Đó là lời
dạy của Đức Phật. Pháp Bất Tử mà chúng ta thường được nghe là những lời dạy
thâm sâu trong Phật Giáo, khác với pháp bất tử được các tôn giáo khác nói đến.
Bất tử trong Phật Giáo chỉ có nghĩa là chấm dứt tham, sân, si. Trong khi “Bất
Tử” được nói đến trong các tôn giáo khác là có một đời sống an vui vĩnh viễn
khác hẳn trần thế.
***
09.-PHÁP NÀO LÀ PHÁP CAO
THƯỢNG VÀ THÂM SÂU NHẤT ĐỂ VƯỢT KHỎI THẾ GIAN VÀ SỰ CHẾT DƯỚI MỌI HÌNH THỨC?
Đức Phật
gọi pháp đó “Pháp dẫn đến Vô Ngã” hay chính là Vô Ngã. Pháp đưa đến Vô Ngã là pháp
cao thượng nhất và thâm sâu nhất. Pháp ấy vượt cả thế gian, vượt cả sự chết.
Pháp ấy ấy không gì khác hơn là Pháp Bất Tử.
Đức Phật
nói :
“Một bản kinh, bất cứ
thuộc loại nào, thuộc cấp bậc nào, dầu do một thi sĩ hay một nhà hiền triết nào
sáng tác, dầu dưới hình thức văn vần, hoa lệ hay âm vận du dương nào, cũng
không là Chánh Pháp nếu không có sự liên hệ đến Vô Ngã”.
Xin các
bạn hãy nhớ kỹ các chữ quan trọng nầy:
“Nếu không có sự liên hệ
đến Vô Ngã”.
Vì thế,
nếu một bài kinh nào không liên hệ đến Vô Ngã thì đó là lời nói của một đệ tử
về sau, một sự canh tân, một giáo lý mới, chớ không phải là lời nói của Đức Như
Lai, và do đó phải được xem là yếu kém hơn.
Nếu lời
nói của một vị đệ tử mà không liên hệ đến Vô Ngã thì xem như ở ngoài Giáo Pháp.
Nếu chúng ta muốn tìm
thấy Giáo Pháp trung thực với lời dạy nguyên thủy của đức Phật, chẳng có cách
nào khác hơn là tìm các bài giảng về Vô Ngã.
***
10.-TRONG KINH TẠNG ĐIỀU
GÌ ĐƯỢC ĐỨC PHẬT NHẤN MẠNH NHIỀU NHẤT?
Đức Phật
dạy:
“Ngũ Uẩn là Vô Thường và
Vô Ngã”.
Ngũ uẩn là
năm nhóm tập họp mà gộp chung lại thì thành một cá nhân.
*Phần thân thể vật
chất được gọi là Sắc Uẩn;
*nhóm cảm thọ: cả lạc
thọ lẫn khổ thọ, được gọi là Thọ Uẩn;
*ký ức và các tri
giác gọi chung là Tưởng Uẫn;
*các động tác của tâm
được gọi là Hành Uẩn;
*và tâm nhận biết
được mọi đối tượng qua các giác quan được gọi là Thức Uẩn.
Sắc uẩn,
thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn được gọi là Ngủ Uẩn. Năm uẩn là Vô
Thường và Vô Ngã. Đó là điểm giáo lý được Đức Phật nhấn mạnh đến nhiều nhất.
Năm uẩn Vô Thường, liên tục trôi chảy, liên tục thay đổi. chúng không có tự ngã
vì chúng luôn luôn trôi chảy; không nên cho rằng chúng là Ta, là của Ta.
Tôi xin
tóm lược lại lần nữa, xin ghi nhớ kỹ, Đức Phật luôn nhấn mạnh đến điều nầy:
“Tất cả sự vật đều Vô
Thường, đừng nên xem chúng là Tôi hay của Tôi”.
***
11.-ĐỨC PHẬT DẠY CHÚNG TA
PHẢI TIN VÀO AI?
Đức Phật
đã dạy dỗ cho người Kalama trong kinh Kalama Sutta: chúng ta chỉ tin tưởng điều gì mà chính chúng ta thấy rõ
ràng. Cần phải hiểu rõ từ
ngữ “thấy rõ ràng” là như thế nào. Thấy rõ ràng có nghĩa là thấy chính
xác, rõ ràng mà không cần xuyên qua sự lý luận, suy diễn hay đặt giả thuyết. Trong Phật Giáo,
chúng ta được dạy là không nên tin tưởng vào người nào hay điều gì mà trước đó
tự mình chưa thấy rõ ràng chính xác.
Chúng ta
có thể hiểu biết ý nghĩa trên qua những câu hỏi sau đây:
Tại sao
chúng ta được khuyên, được cảnh giác là:
*đừng tin mù quáng
vào Tam Tạng Kinh Điển;
*đừng tin vào một vị
Thầy nào;
*đừng tin những gì do
lý luận hay suy tư, biện giải.
Các nguyên
tắc trên giúp chúng ta có sự hiểu biết đúng đắn, bởi vì sự tin tưởng mù quáng
là điên rồ khờ dại.
Giả sử
chúng ta mở Tam Tạng Kinh Điển đọc vài đoạn rồi tin ngay mà chẳng cần suy nghĩ,
thẩm xét, kiểm chứng thì đó là tin tưởng mù quáng. Đức Phật dạy rằng tin tưởng
mù quáng vào Tam Tạng Kinh Điển là một sự sai lầm khờ dại lớn lao.
Thế nào
gọi là tin tưởng mù quáng vào Thầy dạy? Đó là tin tưởng vào lời dạy của Thầy mà
không dùng mắt, dùng tai để kiểm lại đó đúng hay sai.
Cũng vậy,
tin tưởng vào những lời đồn đãi cũng là thái độ không khôn ngoan, thiếu trí
tuệ.
Tin tưởng
xuyên qua lý luận biện giải, có nghĩa là tin tưởng vì đã có học qua và đã
có kinh nghiệm qua sự biện giải phân tích để đi đến một kết luận nào đó là một
thái độ nên khuyến khích, tuy nhiên những kiến giải như vậy cũng chưa đủ đúng
đắn, chính xác. Không nên đặt tin tưởng vào lối thuần túy như vậy.
Nhưng phải thận trọng
sáng suốt để biết rằng bài kinh nầy không cấm ta đọc Tam Tạng Kinh Điển, cũng
không phải bảo ta đừng nên học hỏi nơi các bậc Thầy, cũng chẳng bảo ta không
cần để ý đến các báo cáo, các lời đồn đãi, hay bảo ta đừng dùng phương pháp
luận lý học hỏi tìm hiểu vấn đề.
Bài kinh
nầy dạy chúng ta đừng dễ dãi tin ngay vào cái gì ta đọc được, nghe được hay
biết được; mà phải: tư duy cặn kẻ, quan sát mọi khía cạnh,
thấy rõ ràng và sau cùng là chính chúng ta đã tự chứng nghiêm sự thật là vậy.
Hãy lấy
một thí dụ, Đức Phật dạy rằng Tham, Sân, Si là nguyên nhân gây ra đau khổ. Nếu
chúng ta không biết thế nào là tham, sân, si thì chúng ta không thể nào tin
rằng tham, sân, si là nguyên nhân gây ra đau khổ. Nhưng nếu chính bản thân ta
đã kinh nghiệm để biết tham là như thế nào, sân, si ra làm sao, và khi ba điều
nầy khởi lên trong tâm như những ngọn lửa thiêu đốt chúng ta, gây ra đau
khổ cho chúng ta. Khi đó chúng ta tin vào lời dạy của Đức Phật một cách chắc
chắn, bởi vì ta đã có kinh nghiệm của chính bản thân chúng ta.
Bởi vậy
Đức Phật dạy về đức tin như sau: Khi nghe điều gì, chúng ta nên dò xét cho đến
khi sáng tỏ điều ấy. Bằng còn chưa thấu suốt được thì nên dùng lý luận để phân
tích vấn đề rồi hãy để yên vấn đề một thời gian xem sao.
Như vậy,
khởi đầu chúng ta hãy đem những gì mà chúng ta đã tin tưởng mà thực hành để
kiểm chứng lại. Dần dần qua sự thực hành, chúng ta sẽ thấy rõ ràng, sẽ tin
tưởng hơn, sẽ tiếp tục thực hành nhiều hơn và càng thấy rõ ràng hơn nữa.
Đó là lời
Phật dạy. Vậy nếu có người hỏi bạn về lòng tin, hãy nên giải thích cho đúng
đắn. Bằng không bạn sẽ giải thích sai lời Phật dạy.
Không tin
tưởng vào Tam Tạng Kinh Điển; không tin tưởng vào vị Thầy; không tin lời đồn
đãi; không tin vào những gì do lý luận, biện giải. Những điều không nên tin kể
trên còn có nhiều nghĩa ẩn tàng, cần phải được tìm hiểu. Nhẹ dạ mà tin ngay là
điên rồ.
Đức Phật
kết án việc ấy rất nặng. Ngài dạy trước khi đặt niềm tin vào đâu, hãy trắc
nghiệm nó cho đến khi nào thấu suốt được nó rồi mới thật sự tin.
Tin ngay
là ngu dại; chỉ tin tưởng sau khi đã thấy rõ ràng mới là thái độ đúng đắn.
Đó
là chủ trương của Phật Giáo về lòng tin: chẳng tin tưởng một cách ngây thơ,
không chỉ dựa vào con người, vào sách, vào giả thuyết, lập luận hay bất cứ điều
gì mà đa số đều tin theo, nhưng hãy tin vào những gì mà chính chúng ta đã thấy
và thân chứng rõ ràng.
Đó là chủ
trương của Phật Giáo. Người Phật Tử chúng ta nên theo chủ trương đó.
***
12.-TÂM CỦA NGƯỜI THƯỜNG
VÀ CỦA PHẬT TỬ KHÁC NHAU NHƯ THẾ NÀO?
Giờ đây
chúng ta sẽ cứu xét sự khác biệt giữa tâm trí của người thường và của người
Phật Tử đúng nghĩa.
Người thường ở đây có
nghĩa là người chưa thông hiểu và chưa hề tu tập theo đường lối đích thực của
Phật Giáo. Một người có thể được
gọi là Phật Tử vì có cha mẹ theo đạo Phật, vì theo trong sổ khai sanh hay lý
lịch. Nhưng người đó vẫn chỉ là một người thường.
Để trở
thành một Phật Tử thật sự, một vị Thánh nhân, tức là một người có trình độ tu
tập thâm sâu, thì người đó cần phải có một sự hiểu biết đúng đắn (chánh kiến)
về rất nhiều điều chung quanh mình bằng một trình độ thâm sâu hơn người thường.
Đức Phật
có nói:
“Giữa cái nhìn của bậc
Thánh và cái nhìn của người thường có một sự khác biệt rất lớn”.
Như thế, dưới mắt của
bậc Thánh: ca hát cũng giống như than khóc, khiêu vũ là động tác múa may của người
khùng, còn cười ha hả là thái độ ấu trĩ của trẻ con.
Người
thường cũng ca hát, cũng cười ha hả để hưởng vui mà chẳng để ý đến cái lúc họ
thấm mệt.
Trong giới
luật của bậc Thánh, ca hát bị xem như khóc lóc. Thử nhìn một người đang hát và
cố gân cổ lên để hét to, đó chẳng khác gì như đang khóc; vì nó xuất phát từ xúc
động tình cảm.
Khiêu vũ
cũng giống như kẻ điên khùng; hãy cứ quan sát thì thấy khi chúng ta đứng trên
sàn nhảy; nếu chúng ta tỉnh giác thì chẳng thể nào chúng ta nhún nhảy được?
Nhưng đa
số đều nghĩ đấy là cuộc vui giải trí nên không nhận ra đó là bộ dạng của người
mất trí. Có người thích cười to, cười lớn là vì có điều thích ý. Người ta rất
hay cười như thế, cười ngay cả những lúc không đáng cười hoặc chẳng có gì để
cười. Nhưng đối với bậc Thánh nhân và trong giới hạnh của họ thì cười lớn tiếng
là thái độ ấu trĩ trẻ con. Vậy chúng ta nên cười ít đi và đừng cười to như thế
thì lại càng tốt hơn nữa.
Đây là
những thí dụ về sự khác biệt trong cách hành sử của một vị Thánh nhân có giới
hạnh và người thường. Theo các truyền thống của người thế gian ngoài đời thì ca
hát múa vũ, cười to tiếng không hại gì mà còn là những cuộc vui thông thường.
Trong khi các bậc giới hạnh thì cho đó là một cái gì thật đáng thương hại và
đánh giá những điều ấy theo chiều suy nghĩ đó. Đây là cái nhìn của một người mà
tâm đã được huấn luyện thuần thục.
Đức Phật
không cấm đoán những việc làm trên nếu chúng ta thích làm, nhưng Ngài muốn
chúng ta hiểu rằng có thái độ trưởng thành và có thái độ ấu trĩ và chúng ta
không nên có thái độ không cần thiết.
Khi chúng
ta còn chưa là bậc Thánh, có thể chúng ta muốn thử làm chơi vài cử chỉ tầm
thường đó. Nếu thử một đôi lần, ta sẽ thấy lúc đầu có sự thích thú, nhưng về
sau, ta sẽ chán ngấy. Và như thế, ta có thể vươn lên gần đến hàng thánh thiện.
Vài người
chẳng thích nghe nói đến kỷ luật hay bàn đến giới luật. Họ ngại rằng sự kềm chế
sẽ đưa đến đau khổ. Tuy nhiên, huấn luyện tâm để không buông trôi theo
tính khí thay đổi thất thường là một nguyên tắc quan trọng trong Phật Giáo. Kềm chế thân tâm để khỏi chiều theo tính khí như
thế đâu phải là đau khổ. Ta phải tìm cách tránh bị thúc bách bởi các cảm xúc vị
kỷ hay ô nhiễm cám dỗ, thúc dục và ngự trị chúng ta. Hãy nhìn vào các cặp khiêu
vũ và xem các ô nhiễm kích thích họ ra sao, áp đảo và chế phục họ như thế nào;
ta gọi đó là tự do sao?
Cho nên,
chúng ta phải tìm cách cải thiện thân phận của chúng ta. Đừng mãi mãi là “người
thường”! Hãy ghi tên gia nhập vào cộng đồng của Đức Phật, tức là thâu thập Kiến Thức, Trí Huệ, Tỉnh Thức và Chánh Kiến để đau khổ giảm dần.
Tránh làm
các điều không cần thiết, chỉ tạo thêm bất lợi và khó nhọc cho chúng ta. Đấy
chính là phần thưởng mà bạn sẽ gặt hái được: bạn bước từ cấp thường nhân lên
hàng Phật Tử chân chánh, rồi đến bậc Thánh và an trú trong giới luật của hàng
Thánh nầy. Đức Phật khi xưa vẫn hi vọng rằng sẽ có thật nhiều bậc Thánh nhân
trong hàng những người muốn thoát khỏi đời trần tục.
***
13.-TU TẬP NHƯ THẾ NÀO LÀ
ĐI ĐÚNG TRÊN CON ĐƯỜNG ĐẠO?
Trong giáo
lý căn bản, Bát Chánh Đạo gồm có: Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ,
Chánh Mạng, Chánh Nghiệp, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định.Tám yếu tố nầy có thể
được qui về ba nhóm: Giới, Định, Huệ, hợp thành một hệ thống để thực hành Bát Chánh Đạo
là con đường duy nhất đưa đến giải thoát giác ngộ.
*Giới: Chánh Ngữ,
Chánh Mạng, Chánh Nghiệp, Chánh Tinh Tấn.
*Định: Chánh Niệm, Chánh
Định.
*Huệ: Chánh Tri
Kiến, Chánh Tư Duy.
Trong thực
hành, chúng ta phải “luôn luôn quan sát thân
tâm mà không có một ý niệm nào khởi sanh”.
Khi chúng
ta chỉ đơn thuần quan sát thân tâm, biểu hiện
qua sáu giác quan mà không thêm bất kỳ một yếu tố nào, có nghĩa không xem thân tâm là “Tôi”, “Ta”, tức là chúng ta thực hành Bát Chánh Đạo.
Trước mắt
chúng ta nên biết đến sáu giác quan: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và tâm. Mỗi giác
quan có năm yếu tố.
Chẳng hạn
về sự thấy, ta có:
1.-Mắt: cơ quan thâu
nhận hình sắc.
2.-Vật bị thấy: đối
tượng.
3.-Cái thấy: sự xúc chạm
xảy ra giữa mắt, vật bị thấy .
4.-Cảm thọ: khổ, lạc
hoặc không khổ không lạc.
5.-Thức: sự phân biệt
đối tượng (ý niệm tốt-xấu, hay- dở…) .
Nếu thiếu sự Tỉnh Giác (=sự quan sát=
nhận biết) ta sẽ nắm giữ vào một hay nhiều yếu tố trên của sự thấy và xem
chúng là Tôi, Ta… Chẳng hạn như chúng ta bám víu vào sự nhận biết vật thấy
(nhãn thức) và xem nó là Tôi, Ta hay Tự Ngã. Bởi vì qua nhãn thức ta có thể
nhận biết được đối tượng nên ta kết luận ngay là phải có cái Ta để làm công
việc nhận biết đó.
Tương tự
như thế, chúng ta bám víu vào xúc, thọ… và xem chúng là của Tôi, của Ta.
Đôi khi
một âm thanh du dương đến với ta và ta bám víu vào sự nhận biết (nhĩ thức) và
xem nó là Ta, Tôi hay Tự Ngã.
Mỗi giác
quan có năm yếu tố, tổng cộng là ba mươi yếu tố. Mỗi yếu tố đều có thể bị ta
nắm giữ lấy làm “Ta”, nhiều lần trong ngày một cách dễ dàng.
Vừa mới có sự dính mắc
vào sự vật thì liền sau đó đau khổ khởi sinh (ham thích thì muốn chiếm giữ, bực
bội thì muốn chối bỏ hoặc suy nghĩ liên miên về cái lợi cái hại do đối tượng
đem lại…). Thế là ta đã lầm lỡ và tự đẩy mình vào mạng lưới chằng chịt khổ đau.
Đó không
phải là đang đi trên đường đạo vì đức Phật dạy chúng ta đừng chấp chặt vào sáu
giác quan cùng các đối tượng liên hệ với chúng.
Nhờ
luôn canh phòng bằng sự Tỉnh Giác nên chúng ta không nhận giác quan nào làm “cái
ta” cả, và chính ngay lúc đó Bát Chánh Đạo (Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh
Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Định) khởi
sinh.
Thực tập
không chấp chặt vào sáu giác quan là nguyên nhân khiến Bát Chánh Đạo khởi sinh
tức thì.
*Tỉnh Giác trên mọi hoạt
động của Thân tức là thực hành:
Chánh Nghiệp -- Chánh
Mạng – Chánh Tinh Tấn.
*Tỉnh giác trên mọi hoạt
động của Khẩu tức là thực hành:
Chánh Ngữ.
*Tỉnh Giác trên mọi hoạt
động của Ý tức là thực hành:
Chánh Tri Kiến – Chánh
Tư Duy – Chánh Niệm – Chánh Định.
***
14.- NGHIỆP LỰC CÓ VAI TRÒ
NÀO TRONG PHẬT HỌC?
Nhiều
người Tây Phương đã viết những sách về Phật Giáo và dường như họ lấy làm hãnh
diện về chương nói về Nghiệp Lực và Tái Sanh. Nhưng họ đã giải
thích rất sai lầm, hoàn toàn sai lầm. Họ muốn giải thích chữ Nghiệp Lực, nhưng
tựu trung chỉ mang ý nghĩa “nghiệp thiện là tốt, nghiệp ác là xấu”, làm điều tốt, hưởng
quả tốt, làm điều xấu, chịu quả xấu, chỉ chừng ấy thôi. Sự giải thích về nghiệp
báo như thế thì cũng giống như sự giải thích về nghiệp báo trong các tôn giáo
khác. Đó không phải là nghiệp báo được dạy trong Phật Giáo.
Đối với sự
tái sanh cũng vậy. Họ tuyên bố rất mạnh mẽ như chính mắt họ trông thấy rõ ràng
chính các cá nhân nầy đang tái sanh lại. Họ đã giải thích sai lầm điều chánh
yếu mà đức Phật đã dạy
là không có sự hiện hữu của “cá nhân” hoặc “tự ngã”. Mặc dầu tôi đang
ngồi đây, nhưng chẳng có cá nhân nào ở đây cả. Khi đã không có cá nhân nào thì
lấy ai để mà chết, lấy ai để tái sanh? Đức Phật đã giảng dạy sự bất hiện hữu của “cá nhân”. Như thế, Sanh và Tử
dưới mắt của chúng ta thật ra chỉ là những danh từ chế định.
Chúng ta
cần phải có sự hiểu biết rõ ràng hơn về nghiệp lực. Đối với Phật Giáo, thì vấn đề quan trọng là chấm dứt
nghiệp báo, chứ không phải chính nghiệp báo và quả của nghiệp.
Đức Phật
dạy rằng nghiệp lực chấm dứt khi tham, sân, si
chấm dứt. Nói khác hơn,nghiệp
lực chấm dứt khi phiền não chấm dứt. Điều nầy thật dễ nhớ. Khi còn tham, sân, si thì còn nghiệp lực. Một khi tham, sân,
si chấm dứt, không tạo nghiệp hiện tại và cũng không tạo nghiệp tương lai. Như
vậy, nghiệp quá khứ chấm dứt, nghiệp hiện tại và nghiệp tương lai không có. Đây
là điểm khác biệt giữa nghiệp lực trong Phật Giáo và nghiệp lực trong các tôn
giáo khác.
Có ba loại
nghiệp nhưng phần đông chúng ta chỉ biết đến hai loại nghiệp: thiện nghiệp và
ác nghiệp mà không biết đến nghiệp lực thứ ba. Đức Phật gọi loại thứ nhứt là
bạch nghiệp hay thiện nghiệp tức là nghiệp trắng, nghiệp tốt; loại thứ hai là
hắc nghiệp, tức là nghiệp đen hay nghiệp dữ; loại thứ ba có thể gọi là nghiệp không
trắng không đen là loại nghiệp nhằm chấm dứt cả hai loại nghiệp trắng và nghiệp
đen.
Chính
là loại thứ ba nầy mới đúng theo nghĩa nghiệp lực của Phật Giáo vì đây là loại
nghiệp chấm dứt tham, sân, si; chấm dứt phiền não. Loại nghiệp lực thứ ba nầy chính là Bát
Chánh Đạo; nghiệp lực nầy chẳng trắng cũng chẳng đen và có khả năng đưa đến chấm
dứt bạch nghiệp và hắc nghiệp. Nó là con đường siêu thế thoát khỏi thế gian,
vượt lên cả điều thiện lẫn điều ác.
Loại
nghiệp thứ ba nầy không hề được các người Tây phương đề cập đến trong các
chương sách của họ nói về “Nghiệp lực và Tái sanh”. Những lời dẫn giải của họ
đa số đều phiến diện, thiếu chính xác. Để theo đúng giáo lý Phật Giáo, họ phải
luôn chú trọng cả loại nghiệp lực thứ ba, tức là loại nghiệp lực có khả năng
chấm dứt tham, sân, si, chấm dứt mọi nghiệp cũ, cả đen lẫn trắng.
***
15.- CÓ CẦN NGHE CHÍNH ĐỨC
PHẬT GIẢNG PHÁP MỚI CÓ THỂ CHẤM DỨT ĐAU KHỔ CHĂNG?
Có vài
người quả quyết rằng ta cần phải nghe chính Đức Phật thuyết giảng thì mới có
thể thật sự hiểu rõ được Giáo Pháp. Nhưng Đức Phật cũng nói là có nhiều người,
mặc dầu không được nghe Giáo Pháp do chính Ngài thuyết giảng, vẫn có thể đi
theo con đường chánh đạo. Đã có nhiều người, dầu chẳng được nghe Pháp từ chính
Đức Phật, nhưng qua sự
thực hành Bát Chánh Đạo một cách bền bỉ và nghiêm mật, vẫn có thể đi đúng con
đường chánh đạo.
Thế nên,
chúng ta nên chấp tay ngưỡng mộ lòng từ bi của Đức Phật đã không xem Giáo Pháp
là sở hữu độc quyền của mình và cũng chẳng hề tự xem mình là cần thiết.
***
16.- LÀM CÁCH NÀO ĐỂ GIẢI
QUYẾT KHI CÓ NGHI VẤN VỀ
MỘT GIÁO LÝ KHÔNG BIẾT CÓ PHẢI DO ĐỨC PHẬT DẠY?
MỘT GIÁO LÝ KHÔNG BIẾT CÓ PHẢI DO ĐỨC PHẬT DẠY?
Đức Phật
có đặt ra một nguyên tắc để trắc nghiệm: cứu xét và đối chiếu với Kinh Tạng.
Nguyên tắc căn bản là không nên tin tưởng vào điều gì do ghi chép lại hay được
giảng lại và không nên công nhận ai là người đủ uy tín. Nếu có sự nghi ngờ về
bất cứ lời nói nào mà họ tự nhận là đã nghe từ đức Phật hoặc từ một nhóm Trưởng
lão thông thái về những đề tài liên quan tới việc đưa đến sự chấm dứt đau khổ.
Đức Phật dạy rằng ta cần phải trắc nghiệm điều ấy theo hai cách:
1. Xem
xét và đối chiếu Kinh Tạng. Các bộ kinh là một hệ thống các bài pháp lập thành
một đường hướng phân minh. Nếu lời phát biểu nào đó không theo đúng đường hướng
trong kinh thì phải gạt bỏ đi.
2. Đối
chiếu với Luật Tạng. Các giới luật là oai nghi khuôn mẫu, là tiêu chuẩn phạm
hạnh, một hệ thống cố định. Nếu lời phát biểu nào đó không phù hợp với hệ thống
đó, giới luật đó, thì phải gạt bỏ đi.
Đừng quá
tin cậy vào Tỳ Kheo nào, hay thành viên nào của Tăng già, nhóm Trưởng lão, hay
bất kỳ một người nào tự nhận có kiến thức về pháp học và pháp hành, hoặc cho
rằng chính họ đã nghe như vậy từ chính đức Phật. Ngài luôn luôn đòi hỏi chúng
ta trước khi chấp nhận một điều gì, phải đặt nghi vấn rồi điều tra. Sau đó đối
chiếu lại với Kinh Tạng, xem có thích nghi không; hay đối chiếu với Luật Tạng,
xem có phù hợp không?
Đây là
những nguyên tắc để bảo đảm rằng, dù Phật giáo trải qua 2.000 năm, 3.000 năm,
5.000 năm, hay chục ngàn năm hay bao nhiêu đi nữa, nếu luôn luôn áp dụng nguyên
tắc nầy thì Giáo Pháp và Giới Luật không thể bị bóp méo hay lầm lẫn.
Thế nên
đây là một nguyên tắc rất hữu dụng. Đức Phật dạy hãy lấy Giáo Pháp và Giới
Luật để trắc nghiệm mọi thứ. Và đây chính là “Đại Tiêu Chuẩn”.
***
17.- ĐỨC PHẬT ĐÃ PHÊ PHÁN
CON NGƯỜI QUA CÁC THỜI ĐẠI NHƯ THẾ NÀO?
Trong một
bản Kinh, đức Phật đã khiển trách “chúng ta ngày nay”, có nghĩa là, kể từ
thời đức Phật cho đến ngày nay, mỗi thế hệ mới “cứ lo thụ hưởng các thú vui không chánh đáng, lại quá
tham lam và hay thiên về tà giáo”. Họ thích thú đi tìm cho mình các sự kích thích
không đúng đắn.
Nói cách
khác, họ thiếu tập trung tâm ý, hoàn toàn thiếu tỉnh giác, khiến cho sự tham luyến của họ trở nên mãnh
liệt và thái quá. Họ rơi vào tà giáo, bởi vì họ đã chịu thua hoàn toàn sức mạnh
của phiền não.
Lời tuyên
bố của đức Phật đã có hơn 2.000 năm, tuy nhiên Ngài đã dùng từ ngữ “con người của các thời đại sau” -- khoảng thời gian kể từ khi Ngài có lời
phán xét đó cho đến nay--.Chúng ta hãy suy nghĩ lại điều nầy để nhìn lại mình
trong hiện tại. Con người trên thế giới ngày nay có quá say mê đi tìm các lạc
thú không chánh đáng, quá ích kỷ, và thiên về tà thuyết không?
Rõ ràng,
người thời nay khác xa người thời đức Phật. Tuy nhiên, nếu ngày nay họ muốn sống đúng theo mẫu mực như
đức Phật đã dạy thì dù vẫn tìm thấy thích thú trong màu sắc, hình dạng, âm
thanh, hương vị và các khích động khứu giác, nhưng vẫn có thể luôn luôn tỉnh giác và có chánh tri kiến, không để tham
luyến trở nên thái quá.
Chỉ
riêng chữ “thái quá” nầy, tức là hơn mức cần thiết, cũng đã nói lên
đầy đủ ý nghĩa của các nguyên nhân gây nên sự xáo trộn, khó khăn và biến động
trên thế giới này nay.
Không nên
tìm cầu hơn sự cần thiết của mình, vì như thế là tham lam thái quá. Tuy nhiên
phải chăng ngày nay chúng ta vẫn chưa cho mình là tham lam, là thái quá? --Chỉ
những ai thành thật với chính mình mới biết mình có “tham lam thái quá” "hay không”mà thôi.
Chúng ta
phải ý thức rằng, việc tìm cầu nhiều hơn mức cần dùng chính là tự đọa đày và
làm mình đau khổ; đó là nguyên nhân tạo nên các rối loạn cho cá nhân và xã hội.
Hãy suy nghĩ kỹ về điều nầy.
Ngày nay
có nhiều người si mê tin theo tà thuyết mà không có sự suy tư đúng đắn, nên bị
phiền não tràn ngập, khiến họ làm nhiều điều sai lầm. Nhiều khi đã biết rõ một
điều nào đó rất sai lầm, nhưng bị tham lam, sân hận, si mê chế ngự, nên cứ làm
điều đó mà chẳng chút hổ thẹn hoặc lo ngại. Họ đã bị tà kiến chi phối nên suy
tư và hành động sai hẳn Giáo Pháp.
***
18.- ĐỨC PHẬT KÍNH LỄ
NHỮNG AI?
Chính đức
Phật có nói: “Như Lai kính lễ Giáo Pháp và kính lễ
cộng đồng Tăng già có đầy đủ các đức tánh gương mẫu”.
Một cộng
đồng Tăng già với các tu sĩ có hành xử đạo đức và tu hành tinh tấn được gọi là
cộng đồng có đầy đủ đức tánh gương mẫu. Như vậy, chính đức Phật cũng kính lễ
Giáo Pháp và kính lễ chúng Tăng vẹn toàn phẩm hạnh.
Chúng
ta nên suy gẫm về việc chính đức Phật cũng kính trọng Giáo Pháp và các Tăng
đoàn Tỳ Kheo giữ gìn giới hạnh trong sạch. Nếu tất cả thành viên của cộng đồng
Tăng lữ tu tập tinh tấn và đời sống phạm hạnh tốt đẹp thì đức Phật cũng sẽ kính
lễ họ.
Đây là một
điều mà chúng ta có thể ứng dụng vào cách hành xử trong thời đại nầy ở bất cứ
nơi nào trên thế giới. Nghĩa là chúng ta phải tôn kính Giáo Pháp. Bởi vì nếu mà
ngay cả một bậc cao quí nhất còn kính trọng Giới Luật và các cộng đồng thực
hành những Giới Luật đó một cách nghiêm chỉnh thì chúng ta cũng phải tôn kính
như thế.
***
19.- TÌM PHẬT NƠI NÀO?
Đức Phật
dạy: “Người nào thấy Giáo Pháp, người ấy thấy
Như Lai. Người nào không thấy Giáo Pháp, người ấy không thấy Như Lai. Người
chưa thấy Giáo Pháp, dầu có nắm áo Như Lai và giữ chặt lấy, cũng chẳng thể nào
thấy được Như Lai”.
Như Lai là
danh hiệu mà đức Phật thường tự xưng.
Lời nói
trên có nghĩa là chúng ta không thể tìm thấy đức Phật ở những gì là vật chất.
Hay đúng hơn, chỉ tìm thấy Phật khi chúng ta thực hành những lời Phật dạy và
chứng ngộ được "Pháp Thân thanh tịnh của
chúng ta" thì chính là chúng ta
thấy được Như Lai.
Đó là điều
cần được nhận ra trước khi nói rằng chúng ta đã tìm thấy Phật.
Mỗi khi
quì lạy trước tượng Phật, tâm chúng ta an trú vào hình tượng. Kế đến, chúng ta
phải vượt qua thân tướng đó, chú tâm thực hành Giáo Pháp của Phật.
Nếu công
phu thuần thục, "Tâm được Thanh Tịnh" thì có thể được
gọi là “Người nào thấy Giáo Pháp, người ấy
thấy Như Lai”.
***
20.- ĐỨC PHẬT CÓ HIỆN HỮU
VÀO GIỜ PHÚT NẦY KHÔNG?
Nếu được
hỏi như trên, chúng ta có thể viện dẫn chính lời đức Phật nói với ngài A Nan:
“ Nầy A Nan, Giáo
Pháp và Giới Luật mà Như Lai chỉ dạy và trình bày, hãy lấy đó làm Thầy của ông,
khi Như Lai qua đời”.
Ngày nay
chúng ta đang học tập Giáo Pháp và tuân hành Giới Luật, thừa hưởng lợi lạc do
Giáo Pháp và Giới Luật mang lại. Như thế thì vị Thầy vẫn còn hiện hữu đó.
Câu nói
trên đây rất được nhiều người biết đến vì đức Phật thốt lên câu ấy ngay vào lúc
Ngài sắp nhập diệt. Vậy các bạn nên ghi nhớ kỹ, câu nói đó dạy ta rằng:
“Còn Giáo Pháp, còn Giới
Luật thì vị Thầy vẫn còn hiện hữu”.
***
21.- ĐỨC PHẬT CÓ CHẤM DỨT
XONG NGHIỆP LỰC CỦA NGÀI HAY KHÔNG?
Nếu được
hỏi như vậy, chúng ta phải dè dặt đừng làm giảm thanh giá của đức Phật bằng các
câu trả lời thiếu thận trọng và liều lĩnh.
Thật ra,
chúng ta chẳng thể nào hạ thấp thanh danh của đức Phật, nhưng lời nói của chúng
ta có thể vô tình xem nhẹ giá trị của Ngài.
Đức
Phật chắc chắn đã chấm dứt nghiệp lực của mình, bởi vì Ngài đã tận diệt
tất cả các tâm ô nhiễm đúng theo nghĩa của chữ “dứt hết nghiệp lực”. Ngài đã tiêu trừ tất cả các loại nghiệp
lực, và chính điều nầy đã khiến danh tiếng Ngài lừng vang. Bậc trí giả Gotama
tức là một vị đã thành công trong việc chấm dứt hoàn toàn mọi nghiệp lực của
mình.
Tin tức về
biến cố nầy được loan truyền khắp xứ Ấn Độ, và đến tai tín đồ các giáo
phái ngoại đạo khác. Chẳng hạn như, đã có một đạo sĩ Bà La Môn tên Bavari sai
mười sáu đồ đệ đến yết kiến đức Phật để thưa hỏi Ngài và thâu nhận kiến
thức của Ngài. Nhiều kẻ khác cũng đến để trắc nghiệm Ngài.
Vì có tin
tức là Ngài Gotama đã trở thành một bậc “lậu tận thông”, người đã đạt được
việc chấm dứt hoàn toàn nghiệp lực của mình, nên dân chúng thời đó rất hãnh
diện, họ rất vui mừng khi nghe đến chữ “bậc giác ngộ và tiêu diệt hết tất cả
nghiệp lực”. Chính vì vậy mà người ta chú ý đến đức Phật.
Chúng ta
nên noi gương Ngài để nỗ lực hành trì chấm dứt nghiệp lực của chúng ta.
***
22.- ĐỜI SỐNG NỘI TÂM CỦA
ĐỨC PHẬT NHƯ THẾ NÀO?
Đức Phật
đã có lần nói về chính mình: Như Lai an trú trong trạng thái “Vắng
lặng thường biết”.
Trạng thái “vắng lặng
thường biết” nầy ám chỉ một tâm thức thường trực vắng bóng mọi tư tưởng về cái
Ta và những gì thuộc về của Ta.
An trú trong trạng
thái “vắng lặng thường biết” là luôn luôn sống trong sự tỉnh thức rằng muôn sự
vật đều chẳng có tự ngã (nghĩa là nhìn sự vật đúng y như sự thật).
Đức Phật
an trú trong trạng thái tịch tỉnh ấy là thể nghiệm luôn luôn sự an lạc tuyệt
vời. Đấy là những gì đức Phật nói về chính mình.
***
23.- TẠI SAO THẾ GIỚI NẦY
VÔ NGÃ?
Tín đồ các
Tôn giáo khác sẽ hỏi bạn: Tại sao lại bảo thế giới nầy “vô ngã”
khi nó chứa đầy các sự vật? Đó chẳng phải là vật chất hay sao?.
Cần hiểu
rằng thế giới nầy là do “Nhân duyên” hòa hợp mà thành; “Tánh không”(không có Tự Tánh) là vì không có “tự ngã” và những gì “thuộc về tự ngã”.
Chẳng có
một sự vật nào mà có thể cho đó là một tự ngã. Tự ngã không có thể tìm thấy ở
bất cứ cái gì dù tinh thần, dù vật chất, hoặc nơi các sản phẩm phát sinh từ
tinh thần hay vật chất.
Đức phật nói rằng cái mà
xác định được muôn vật đều Vô Ngã chính là sự nhận thức được rằng muôn vật đều “không có Tự
Thể“ (Tánh không), tất cả đều do “Nhân Duyên sanh”.
***
24.- TẠI SAO MỘT TÂM NHẬN
BIẾT SỰ VÔ NGÃ LẠI ĐƯỢC MÔ TẢ NHƯ MỘT TÂM GIẢI THOÁT?
Có một bài
Kệ trong Kinh Tạng bảo rằng: “Giải Thoát thật sự là giải thoát khỏi
Tham, Sân và Si”.
Một tâm
thức giải thoát (chẳng bị ngăn ngại, chẳng bị ràng
buộc, được tự do). Khi tâm thức đó đã được thoát khỏi Tham, Sân và Si.
Bằng bất
cứ phương pháp nào mà tâm thoát khỏi mọi vết tích của tham, sân và si thì được
gọi là một “tâm giải thoát”.
Nhưng ở
đây chúng ta chỉ nói đến những gì được làm một cách tích cực, nếu ta cố gắng nổ
lực bằng cách nào đó để tâm ta trở nên vắng bóng tham, sân, si ngay cả trong
một tích tắc, thì tâm lúc đó được
gọi là giải thoát. Sự giải thoát có thể được tăng trưởng theo từng cấp bậc cho
đến khi thật trọn vẹn – “hoàn toàn giải thoát”.
Bậc Thánh giả, ở các
giai đoạn tu tập, được giải thoát đến một mức độ khá cao. Thường nhân có đôi
lúc bất chợt cũng đạt được tâm rỗng rang giải thoát nhưng chỉ thoáng qua.
Nếu một
giây phút nào tâm vắng bóng tham, sân, si thì ngay lúc ấy tâm không có một“ngã kiến” (cho rằng có một cái ta) nào cả. Tâm thức lúc ấy gọi là “Tâm không” (tâm không có một ý niệm nào), hay “tâm giải thoát”
***
25.- VIỆC GÌ XẢY RA KHI CÓ
VIỆC VẮNG LẶNG HOÀN TOÀN?
Sự “tịch tĩnh vắng lặng” trọn vẹn hay “giải thoát hoàn toàn” được gọi là Niết Bàn. Niết Bàn là trạng thái tịch
tĩnh khởi sanh từ sự tận diệt hoàn toàn và triệt để của
ngã kiến. Có thể nói vắn tắt: “Niết Bàn là sự tĩnh lặng tối thượng”.
Đó là một
cái nhìn độc đáo vượt qua mọi kiến thức thông thường. Chúng ta có thể vượt lên
khỏi các loại kiến thức thế gian khi thân chứng được “Niết Bàn là sự tĩnh lặng
tối thượng”.
Niết Bàn
là sự tĩnh lặng tối thượng hoặc sự tĩnh lặng tối thượng là Niết Bàn. Xin hãy nhớ, sự toàn hảo của tịch tĩnh vắng lặng là phẫm
tính chỉ về Niết Bàn.
***
26.- NIẾT BÀN LÀ GÌ?
Nếu bạn
gặp người nào cứ khăng khăng hỏi câu hỏi trên, thì câu trả lời là: “Niết Bàn là một yếu tố bất diệt”.
Hãy nói đó
là một yếu tố không bị tiêu diệt. Tất cả mọi yếu tố đều bị tiêu diệt trừ Niết
Bàn, bởi vì nó không có Tham, Sân, và Si.
Khi có sự giải thoát khỏi sự si mê thì
chẳng có ngã kiến, chẳng có sự nắm giữ và bám víu vào tự ngã, và do đó chẳng
thể bị tiêu diệt.
Bởi vì
Niết Bàn còn là yếu tố đưa đến “sự chấm dứt sự bị tiêu diệt”, nên còn được gọi là “yếu tố bất diệt”. Yếu tố bất diệt nầy chính là sự chấm dứt của yếu
tố khả diệt.
***
27.- AN VUI TRONG NIẾT BÀN
CÓ PHẢI LÀ TÂM THAM?
Phật tử chúng ta thường
được dạy không nên ham muốn hay chê ghét, hoặc thích điều nầy, bất mãn điều nọ. Vậy nếu có người nào
tìm được cảm giác vui thích trong Niết Bàn, chúng ta phải gọi sự vui thích đó
là gì?
Sự vui
thích trong Niết Bàn được gọi là "Pháp ái" hoặc là “Pháp lạc”. Nhưng nên hiểu rằng
chữ Pháp ái dùng ở đây không phải loại tham muốn về hình sắc, âm thanh, hương vị,
xúc giác…
Trong
trường hợp nầy sự vui thích đó được tìm thấy nơi sự
vắng lặng tịch tĩnh, nơi sự bất diệt, nơi Niết Bàn. Đó gọi là sự an lạc trong Pháp (Pháp lạc).
***
28.- CHỨNG ĐẠT NIẾT BÀN
SAU KHI CHẾT HAY LÚC CÒN SỐNG?
Các vị
giảng sư ở những giảng đường trang trọng thường chỉ thuyết về Niết Bàn sau khi
chết. Tuy nhiên, trong Tam Tạng Kinh Điển, không thấy nói đến điều ấy.
“Niết Bàn tại đây và bây
giờ”.
Trong một
dịp, đức Phật mô tả sự chấm dứt của Tham, Sân và Si như là “cảm nhận trực tiếp”, “ở vào chỗ không trụ”, “vô sanh”. Những từ ngữ nầy đều hàm chứa ý nghĩa về một người còn sống đang chứng nghiệm, nhận biết và thưởng
thức Niết Bàn, người ấy có thể chia
sẽ với các bạn qua ngôn từ những gì tìm thấy được.
Điều nầy
chứng tỏ rõ ràng người ấy chưa chết và biết rõ thế nào
là hương vị của Niết Bàn.
Lại còn có
thêm những cụm từ khác nữa như “giác ngộ ngay trong hiện tại”, ám chỉ đến sự nhổ
tận gốc khổ đau và phiền não “ngay bây giờ và ở đây” mà không cần phải có sự hoại diệt và tan rã của
năm uẫn (tức là thân tâm).
Trong ngôn
ngữ thông dụng hằng ngày, chữ Niết Bàn thường có nghĩa là: “sự an lạc, sự tịch tỉnh vắng lặng, sự vắng bóng của phiền
não, sự vắng bóng của khổ đau ”.
***
29.- ĐIỀU GÌ TỐT LÀNH TỘT
BẬC CHO NHÂN LOẠI?
Bậc đại
giác có lần nói rằng: “Tất cả chư Phật đều cho rằng Niết Bàn
là tối thượng”.Tối thượng ở đây có nghĩa là: “điều tốt lành tối hậu và cao cả nhất cho nhân loại”.
Trong ngôn
ngữ quốc tế về đạo đức, có từ ngữ “cực điểm tối hảo, điểm tốt cao tột”, có nghĩa là sự thiện
lành cao độ, điều tốt nhất và cao cả nhất mà một con người có thể đạt
ngay trong đời nầy. Các học giả Phật giáo đều đồng ý rằng sự cao tột trong Phật giáo chính là Niết Bàn.
Vậy có ai
hỏi sự tuyệt đối của Phật giáo là gì, bạn hãy trả lời rằng: “chư Phật đều bảo Niết Bàn là tối thượng”.
***
30.- VÀO THỜI ĐẠI NẦY THẾ
GIỚI CÓ CÒN BẬC VÔ SANH CHĂNG?
Bậc Vô Sanh có nghĩa là
bậc không còn sanh khởi Tham, Sân và Si.
Chúng ta
không gọi là bậc Giác Ngộ, A La Hán hay Bồ Tát v.v… vì những tên gọi đó mang ý nghĩa trừu tượng.
Chúng ta gọi bậc Vô Sanh vì cụ thể tên gọi đó cho ta biết bậc nầy Tâm đã Thanh Tịnh không còn khởi sanh một “Ý niệm” nào.
Và để trả
lời câu hỏi trên, ta có thể viện dẫn lời đức Phật: “Nếu tất cả Tỳ Kheo sống chân chánh, thế giới chẳng vắng
bóng bậc Vô Sanh”. Đức Phật nói lời nầy ngay vào ngày mà Ngài nhập diệt.
Nếu có ai
nghi ngờ, cật vấn rằng: "ngày nay còn có bậc Vô Sanh
chăng?", xin đừng trả lời giản dị “Có” hay “Không”. Trả lời quá sớm như
thế là một lỗi nghiêm trọng.
Phải dùng
lời đức Phật mà đáp: “Nếu các Tỳ Kheo sống chân chánh, thế
giới chẳng vắng bóng các bậc Vô Sanh”.
***
31.- SỐNG CHÂN CHÁNH LÀ
NGHĨA LÀM SAO?
“Sống chân chánh”, thật ra có một nghĩa
đặc biệt của nó. Sống chân chánh chỉ giản dị là sống trong các điều kiện mà tâm
ô nhiễm không được nuôi dưỡng, không được phát triển. Do vậy, sống như thế
chẳng khác nào luôn luôn sống với một tâm thức “vắng lặng, tự do”, có nghĩa là chẳng hề dính mắc vào bất
cứ sự vật gì xem như là “Ta” hay“của Ta”.
Một người
mặc dầu vẫn nói năng, suy nghĩ và hành động, vẫn tầm cầu, hưởng dụng và tiêu
thụ nhưng không hề có ý tưởng coi một cái gì là do mình hay của mình; chỉ luôn
hành động với chánh niệm “tỉnh thức thường trực”, hành động khôn khéo, “hành động với trí tuệ” trong mọi trường hợp. Đó là sống chân chánh.
Nói cách
khác, sống chân chánh là sống cách nào khiến cho các phiền não không còn sanh
khởi và không được phát triển.
Nói cách
khác hơn, sống chân chánh là giữ đúng theo Bát Chánh Đạo, vì Chánh Kiến, chi thứ nhất của Bát Chánh Đạo cũng chỉ là sự
hiểu biết khi trí tuệ hoàn toàn không bị che mờ, không có gì để bám níu vào. Như thế, khi phấn
đấu, khi nói năng, trong bất cứ động tác nào, cũng chẳng hề có sự dính mắc.
Nếu chúng
ta sống chân chánh như đã mô tả, các tâm ô nhiễm như Tham, Sân, Si không được
bồi dưỡng trở nên yếu ớt rồi tự tiêu diệt. Chúng không có cách phát khởi, vì ta
đã bỏ được thói quen đã để cho chúng tự do phát khởi.
Đây là
điều quan trọng vì các khuynh hướng bất thiện ngày càng chồng chất chỉ là vì ta
đã quá quen thuộc với các tâm ô nhiễm.
Tuy nhiên,
những ai không biết được điều nầy, cứ tưởng rằng tham, sân, si là những thực
thể thường hằng, là tự ngã, đấy là họ đang vướng vào thường kiến (cho tất cả mọi sự việc đều thường
hằng).
Ai bảo
phiền não là những thực thể “thường còn” nằm lắng sâu bên trong tâm đó là người đang mắc
vào thường kiến, bám lấy niềm tin sai lầm là có một tự ngã vĩnh cửu và bất biến
hoặc là linh hồn.
Còn những
người có trí tuệ, có chánh kiến căn cứ trên nguyên tắc Phật học thì không xem
các tâm ô nhiễm đó như những thực thể độc lập thường hằng hay là tự ngã. Sự
hiện hữu của các tâm ô nhiễm đều có lý do: chúng do “Nhân duyên sanh”, chúng khởi lên đúng “luật Nhân quả”.
Khi chúng
được sanh khởi quá nhiều lần, ta trở nên quen thuộc với chúng, xem đó là những
phần thường hằng của bản tánh mình. Tin chúng thường hằng sẽ khiến ta lầm tưởng
chúng đang nằm sâu trong tâm thức ta mãi mãi.
Bạn nên
hiểu, các bất thiện tâm chỉ là những khuynh hướng quen thuộc, kết quả của một
quá trình huân tập lâu ngày đó thôi..
***
32.- THÀNH BẬC VÔ SANH KHÓ
HAY DỄ?
Hầu hết
mọi người đều trả lời là khó vô cùng. Xin nhắc lại một lần nữa là hãy giữ đúng
nguyên tắc là đừng vội đưa ra lời đáp không được
chuẩn.
Ai mà trả lời thiếu chính chắn như “Dễ mà!” hoặc “Khó lắm!”, người ấy chưa phải
là một Phật tử.
Những
nguyên tắc của đức Phật luôn luôn đặt trên luật nhân quả. Nếu hành động đúng đắn xuyên qua hiểu biết về lý
nhân quả, thì việc trở thành một bậc Vô Sanh là dễ. Nếu chúng ta đi ngược với
lý nhân quả, thì việc đó quả thật vô cùng khó khăn. Chỉ vì chúng ta đã quen
sống với với các ô nhiễm tâm cho nên rất khó mà đạt quả vị đó.
Ở đây,
chúng ta nên nhớ lại lời đức Phật đã nói: “Nếu chúng ta sống chân chánh, thế giới
nầy sẽ chẳng vắng bóng các bậc Vô Sanh”. Cuộc sống chân chánh đó đâu có vượt quá khả năng
của chúng ta. Chỉ cần thanh lọc các tâm ô nhiễm, đừng nuôi dưỡng chúng. Cũng
như ta muốn giết chết một con cọp, chúng ta nhốt nó vào chuồng, bỏ đói; chẳng
có gì ăn, nó sẽ chết. Không cần phải xông vào chuồng, chiến đấu với cọp, để bị
cọp cắn xé. Như vậy, việc giết cọp không vượt quá khả năng của chúng ta
nếu chúng ta biết dựa vào kỹ thuật sẳn có từ các năng lực tâm linh của chúng
ta.
Do đó, làm bậc Vô Sanh, khó hay dễ là tùy chúng ta áp dụng phương
pháp đúng hay sai. Nếu ta tuân theo lời Phật dạy, thì việc ấy cũng không khó
khăn chi lắm. “Hãy sống chân chánh, và thế giới nầy
chẳng vắng bóng bậc Vô Sanh”.
***
33.- CÓ THỂ TÌM GẶP MỘT VỊ
VÔ SANH Ở ĐÂU?
Chúng ta
tìm được một vị Vô Sanh khi có người tận diệt được các ô nhiễm tinh
thần.
Đừng nhọc
công đi tìm kiếm trong rừng, nơi tu viện, trong hang động, trên núi cao, trong
làng mạc, nơi thành thị hay ở trung tâm thiền học…
Chỉ gặp vị
Vô Sanh khi có sự chấm dứt hoàn toàn các ô nhiễm tâm. Hãy kiểm tra bằng
bất cứ cách nào để chứng tỏ đã có sự dập tắt hẳn các ô nhiễm tâm. Nếu không
kiểm tra được, thì cũng chẳng cần tìm kiếm thêm chi nữa, tự bạn sẽ hiểu lấy.
Nơi nào có sự tận diệt
các tâm ô nhiễm, nơi đó có bậc Vô Sanh.
***
34.- THƯỜNG NHÂN CÓ THỂ
THÀNH BẬC VÔ SANH KHÔNG?
Chớ vội
trả lời được hay không được mà nên đáp rằng một bậc Vô Sanh đã vượt lên trên cả hai đời sống thế tục và
tăng lữ.
Nên nhớ
rằng, niềm tin về việc một người đã đắc “Vô Sanh Pháp Nhẫn” phải gấp gáp xin thọ giới Tỳ Kheo trong vòng bảy
ngày, bằng không sẽ chết, là do lời xác quyết của các “ông thầy” quá mê tín, quá cố chấp, của các thế hệ sau và
chỉ thấy ghi trong các Chú giải, Phụ chú giải hay các tác phẩm hậu kinh điển mà
thôi.
Một bậc Vô Sanh bao giờ
cũng siêu thoát cả đời sống tại thế lẫn xuất thế. Chẳng ai buộc được một
vị Vô Sanh phải quay về làm cư sĩ sống theo thế tục được, vì vị nầy vượt lên
trên cuộc sống tăng lữ.
Do đó,
đừng bao giờ tuyên bố rằng một vị Vô Sanh có thể sống tại nhà hay không sống
tại nhà.
Cho dầu ta
có thể bắt buộc một vị Vô Sanh phải về nhà sống đời thế tục, nhưng chẳng ai có
thể ép Ngài trở thành một người còn bị hệ lụy ràng buộc.
Ngài đã siêu việt cả
hai: đời sống tại gia và nếp sống tăng lữ.
***
35.- LÀM SAO MÀ MỘT “KẺ
SÁT NHÂN” CÓ THỂ TRỞ THÀNH MỘT BẬC VÔ SANH?
Đây cũng
là một câu hỏi cũng dễ trả lời. Có nghĩa là cái mà được gọi là người, là cá nhân
đó, phải được tiêu diệt trước khi trở thành bậc Vô Sanh. Nếu không, thì chẳng có cách nào trở thành bậc Vô
Sanh cả.
Trước hết,
cần phải tiêu diệt cái ý niệm: “người”, “tự ngã”, “Ta”, và “nó”, “thú vật”, “chúng sanh”.
Nói cách
khác, cần phải chấm dứt những ý niệm: đây là “thú vật”, đây là “con người”, đây là một “thực thể thường trú”, đây là “tự ngã”.
Muốn thế,
phải loại trừ hẳn cái ý niệm về “con người”, hoặc phải dẹp bỏ hẳn cái gì mà ta
xem như là “tự ngã”. Làm điều ấy tức là đồng thời đang trở thành bậc Vô Sanh.
Do đó, mới gọi là giết chết xong con người thì mới “không còn sanh làm người”.
Đức Phật
đôi khi lại dùng những tiếng còn mạnh hơn nữa. Trong nhiều dịp, Ngài có nói
phải giết chết cha mẹ đi mới trở thành Vô
Sanh.
“Cha mẹ” ở đây ám chỉ
các cấu nhiễm tinh thần như si mê, tham ái, hoặc bất cứ cái ý niệm nào
cho rằng “có hành động đã đóng vai trò như cha mẹ”, hoặc như “người truyền
giống cùng khai sinh ra cái Ta”.
Vậy ta cần
phải diệt trừ chúng cho tiệt hẳn, phải giết “cha”, “mẹ” của “cái bản ngã” đó,
mới có thể trở thành bậc Vô Sanh.
Giờ đây
nhắc lại chuyện Angulimàla, một kẻ “sát nhân” nổi tiếng vào thời đức Phật. Angulimàla đắc quả
Vô Sanh sau khi đã giết chết hẳn chính con người của mình. Khi nghe đức Phật
bảo “dừng lại”, ông hiểu rõ ngay ý nghĩa đúng đắn của hai chữ đó.
Vài người,
vì hiểu lầm, đã cố giải nghĩa rằng khi đức Phật nói chính Ngài đã dừng lại,
nghĩa là dừng sự sát sanh, trong khi Agulimàla vẫn còn tiếp tục giết
chóc.
Giải thích
như thế không được đúng lắm. Khi đức Phật nói “Ta đã dừng lại”, Ngài muốn bảo, Ta đã “ngưng, không khởi sanh một Ý niệm nào”.
Angulimàla
hiểu rất đúng thế nào là đã thôi, đã dừng lại, hiểu rất đúng đến mức có đủ khả năng tiêu từ tận gốc rễ
“cái ý niệm” (chính là tự ngã của
con người). Do vậy mà Angulimàla có thể Vô Sanh như đức Phật.
Chỉ có mấy
chữ giản dị “dừng lại” trong tích truyện mà đã có nhiều người hiểu ý
nghĩa hoàn toàn sai lầm. Tích truyện đó bị hiểu sai, giải thích sai, bàn cãi
sai, giảng dạy sai, khiến nó trở nên mâu thuẫn. Nói rằng dừng lại chuyện giết
người là trở thành A la Hán thì thật là vô lý.
Do đó, ta
phải dừng lại, phải tiêu diệt “cái ý niệm”. Còn có ý niệm là còn
có: “có ta” “có người” “có muôn loài”, và
“có cuộc sống nầy”. Nghĩa là tất cả đều có
một cái Ngã (tự ngã).
Dừng lại “cái ý niệm”
nghĩa là không còn có cái mấu chốt, cái động cơ để phát sinh ra hành động, cũng
có nghĩa là tâm không thể sanh khởi tham, sân, si thì làm gì có hành động giết
người, cướp của…
Nói tóm
lại muốn đạt đến giải thoát hãy nhìn bằng “Trí Tuệ” tất cả sự sự vật vật là do“đủ Nhân đủ Duyên” mà sanh, chúng đều nằm trong “luật Nhân quả”, tất cả đều Vô Ngã,
không có Tự Thể.
***
36.- THẾ GIAN HIỆN NAY
TRÀN ĐẦY NHỮNG GÌ?
Vài người
có tầm nhìn xa sẽ đáp: “Thế gian nầy đầy dẩy đau khổ”. Thí dụ như họ nói
chẳng có gì ngoài sanh, trụ, rồi diệt. Điều nầy đúng nhưng khó hiểu.
Tưởng nên
trả lời giống như đức Phật đã giải đáp câu trên: “Thế gian nầy tràn đầy những
sự vật. Những gì có tướng đều là hư vọng. Tất cả đều do Nhân duyên sanh. Chẳng có cái gì là “Ta” hoặc “thuộc về Ta”.
Hãy đừng
thỏa mãn với lời đáp đơn giản “Thế gian nầy chỉ có đau khổ; không có gì không là nguồn cội của
khổ đau”.
Lời tuyên
bố đó tuy đúng nhưng mơ hồ, dễ bị hiểu lầm. Bởi vì cùng các sự vật đó, nhưng
nếu chúng ta đừng bám chặt vào thì chúng
không thể là nguồn đau khổ. Phải thật là hiểu điều nầy.
Thế gian nầy và ngay cả
các sự vật tạo thành thế gian nầy, không hề và chưa hề là nguồn đau khổ, chỉ
khi nào ta bám vào chúng, đau khổ mới phát sanh. Nếu không thì chẳng có đau
khổ.
Bảo rằng
đời là khổ, đó là lời nói cạn cợt, quá đơn giản, và vội vàng. Đời sống, khi bị
dính mắc và tham đắm vào, mới là đau khổ; bằng không có sự bám níu thì chẳng có đau khổ.
Cuộc sống
nầy có ý nghĩa, không phải vô nghĩa. Một số người cho rằng đời sống chẳng có ý
nghĩa, bởi vì họ chẳng biết cách tạo ý nghĩa cho đời sống.
Nếu chúng ta biết cách
dùng đời sống nầy làm một dụng cụ để tìm hiểu về đau khổ, về các nguyên nhân
của đau khổ, và về cách thực hành để đi đến sự tận diệt của đau khổ, thì đời
sống sẽ có ý nghĩa.
Như thế, đời sống là một phương tiện để nghiên cứu, thực tập, và
nhận lảnh các thành quả của sự thực tập ấy.
Nó là một phương tiện để tiến tới hiểu biết được điều tốt lành nhất
mà nhân loại có thể biết, và phải biết, tức là Niết Bàn.
Vậy các
bạn nên nhớ, đời sống thật sự có ý nghĩa, chỉ có những kẻ khờ dại vì chẳng biết
cách sử dụng cuộc sống, mới khiến kiếp người trở thành vô nghĩa.
Vậy thế
gian tràn đầy những gì? Nếu nhìn ở quan điểm thấp thì nói nó đầy đau khổ. Nhưng
nếu nhìn ở quan điểm cao hơn, bạn có thể nói thế gian nầy chẳng là gì khác hơn một
tiến trình liên tục không bao giờ chấm dứt của sanh, trụ, diệt, rồi lại sanh,
trụ, diệt… nhưng chúng ta bám níu
vào nó, đau khổ sẽ phát sinh. Nếu không thì nó cứ giản dị tiếp diễn mãi việc
sanh, trụ, diệt.
Do
đó, chúng ta nên nhớ rằng, một người đã được giải thoát, tự do,
thành bậc Vô Sanh, chẳng hề xem muôn vật là nguồn đau khổ mà cũng không xem
chúng là nguồn hạnh phúc.
Năm uẩn (tức
thân tâm) vô nhiễm của bậc Vô Sanh được xem là không bị vướng mắc vào sự đau
khổ. Nơi nầy chỉ có sự trôi chảy, biến đổi, và chuyển hóa của năm uẩn ấy đúng
theo nguyên lý nhân duyên.
Tóm lại
thế gian nầy tràn đầy những gì? Nó chứa đầy muôn vật đang sanh, trụ, diệt. Dính mắc
vào chúng, chúng sẽ gây ra đau khổ. Đừng bám níu, đừng ràng buộc vào chúng,
chúng chẳng hề tạo nên khổ đau.
***
37.- ĐIỀU GÌ ĐEM LẠI NHIỀU
PHƯỚC, ĐIỀU GÌ ĐEM LẠI ÍT?
Đức Phật
dạy: Giá trị của việc tạo phước do tâm tham không bằng “một phần mười sáu của một phần mười sáu” giá trị của việc vun trồng tâm Từ.
Làm phước
vì lòng tham bao gồm các việc làm phước vì danh vọng, vì muốn được sanh lên cõi
Trời hay Thiên đàng, vì muốn tái sanh trong cảnh giàu sang, tốt đẹp, hay muốn
hưởng thụ lạc thú thế gian. Đó là một sự dính mắc và bám níu. Dù là dính mắc nhưng
vẫn là làm phước, nhưng kết quả rất nhỏ so với việc tạo phước do tâm Từ.
Tâm Từ không dựa trên tư
lợi mà vì lợi ích của người khác. “Từ” là lòng thương
yêu rộng khắp đến mọi chúng sanh. Tạo phước phát xuất từ tâm Từ có một năng lực
cao cả, to lớn hơn nhiều so với tạo phước do lòng tham.
Trong ngôn
ngữ Pali, khi muốn chỉ sự to lớn giữa các vật, người ta thường dùng thành ngữ: “một phần mười sáu lấy chẻ nhỏ mười sáu lần”. Thí dụ như ta có một đơn vị của vật gì. Chẻ đơn
vị ấy ra làm mười sáu phần, lấy một phần; rồi đem một phần đó chẻ ra làm mười
sáu phần nữa, rồi lấy một phần.
Làm phước do Tham thì
phước ấy không bằng “một phần mười sáu của một phần mười sáu” của làm phước do
tâm Từ.
***
36.- THẾ GIAN HIỆN NAY
TRÀN ĐẦY NHỮNG GÌ?
Vài
người có tầm nhìn xa sẽ đáp: “Thế gian nầy đầy dẩy đau khổ”. Thí dụ như họ nói
chẳng có gì ngoài sanh, trụ, rồi diệt. Điều nầy đúng nhưng khó hiểu.
Tưởng
nên trả lời giống như đức Phật đã giải đáp câu trên: “Thế gian nầy tràn đầy
những sự vật. Những gì có tướng đều là hư vọng. Tất cả đều do Nhân duyên sanh. Chẳng có cái gì là “Ta” hoặc “thuộc về Ta”.
Hãy đừng
thỏa mãn với lời đáp đơn giản “Thế gian nầy chỉ có đau khổ; không có gì không là nguồn cội của khổ
đau”.
Lời
tuyên bố đó tuy đúng nhưng mơ hồ, dễ bị hiểu lầm. Bởi vì cùng các sự vật đó,
nhưng nếu chúng ta đừng bám chặt vào thì chúng
không thể là nguồn đau khổ. Phải thật là hiểu điều nầy.
Thế gian nầy và ngay cả
các sự vật tạo thành thế gian nầy, không hề và chưa hề là nguồn đau khổ, chỉ
khi nào ta bám vào chúng, đau khổ mới phát sanh. Nếu không thì chẳng có đau
khổ.
Bảo rằng
đời là khổ, đó là lời nói cạn cợt, quá đơn giản, và vội vàng. Đời sống, khi bị
dính mắc và tham đắm vào, mới là đau khổ; bằng không có sự bám níu thì chẳng có đau khổ.
***
38.- TÌM Ở ĐÂU PHƯỚC BÁU
TO LỚN NHẤT?
Đã có lần
đức Phật nói: “Phát triển “Tuệ nhận biết vô thường” dầu chỉ trong cái khảy ngón tay cũng
đem lại nhiều hiệu quả và phước báu hơn là cả việc cúng dường thực phẩm cho
toàn thể Tăng đoàn có đức Phật hướng dẫn”.
Điều nầy
có nghĩa là, nếu có thể thỉnh đức Phật cùng cả Tăng đoàn đến hiến cúng thực
phẩm, phước báu ấy vẫn còn chưa sánh bằng việc thành tựu công phu phát triển tuệ nhận biết vô thường dầu
chỉ xảy ra ngắn ngủi như cái khảy ngón tay. Đây là điểm căn bản nhất.
Do đó, các
bạn nên tỏ ra dè dặt trước những công đức cúng dường bố thí to tát thường hay
được trưng bày nơi các chùa chiền, bởi vì chúng còn liên hệ đến các dục lạc thế
gian.
Đại phước
báu phải là điều mà đức Phật đã mô tả. Phát triển “sự tỉnh giác về vô thường”, dầu chỉ trong phút
chốc, còn quí hơn tất cả các loại cúng dường cho chư vị Tỳ Kheo.
***
39.- TÌM HẠNH PHÚC Ở ĐÂU?
Trong Kinh
điển, có một đoạn thuật về các vị Trời sắp qua đời sau khi hưởng hết phước đức,
đã đến giai đoạn chót của tuổi thọ. Chư Thiên ước mong được an lạc, tìm cầu xem
nơi đâu có được hạnh phúc ấy.
Sau cùng,
họ đi đến kết luận là cảnh giới phúc lạc đó có thể tìm thấy ở cõi nhân gian. Họ
đồng thanh thốt lên trong niềm hoan hỉ: “Nguyện cầu mọi ước mong được thành
tựu! Hãy đi đến cõi nhân gian!”.
“Cảnh hạnh phúc ở cõi
nhân gian” có nghĩa là, ở cõi người, lẽ vô thường, bất toại nguyện và vô ngã
đều có thể chứng nghiệm được dễ dàng hơn là ở cõi Trời.
Nơi nhân
gian có các bậc Giác Ngộ, các bậc A La Hán, và có cả Phật, Pháp, Tăng mà trên
cõi Trời giữa rừng lạc thú giác quan, không hề có. Vì vậy, các bậc Trời đã đến
cõi nhân gian để tìm nguồn an lạc.
Trong khi
đó, con người lại muốn sanh lên cõi Trời để được sung sướng. Để tìm hạnh phúc ở
Thiên đàng cho kiếp mai sau, họ “đầu tư” vào việc đó bằng cách tạo phước, bố
thí, và tạo dựng chùa chiền…
Tìm cảnh hạnh phúc thật
sự ở đâu? Xin các bạn hãy suy gẫm lại.
***
40.- CHÚNG TA QUAN TÂM ĐẾN
MỨC NÀO VỀ VẤN ĐỀ THẦN THÔNG?
Thần thông
có nghĩa là “năng lực”. Được nói đến như là
một sự diệu kỳ, lạ thường hoàn toàn thuộc về tâm linh.
Vì thuần
về tâm linh, thần thông có được các năng lực tạo tác và lợi ích khiến chúng trở
thành mầu nhiệm hơn và bao quát hơn, so với các sự việc vật chất.
Một vị
biểu diễn thần thông đã huấn luyện khả năng tinh thần của mình cho đến mức có
thể khiến người khác tự chứng nghiệm được bất cứ cảm giác nào mà y muốn.
Y có thể
khiến cho họ thấy vật gì y muốn họ thấy bằng chính mắt của họ; nghe rõ ràng và
phân biệt các âm thanh nào y muốn họ nghe; ngửi mùi hương nào mà y muốn họ ngửi
được; nếm mùi vị nào mà y muốn họ được nếm bằng chính lưỡi của họ; và cảm xúc
qua làn da của họ sự mềm dịu, hay cứng rắn, hay các kích thích khác về xúc
giác.
Người biểu
diễn thần thông còn có thể tiến xa đến mức khiến cho kẻ khác thể nghiệm được sự
sợ sệt, thương yêu, hoặc là các tâm trạng khác nữa mà họ không biết lý do tại
sao. Thần thông đến như thế đã tỏ ra cực kỳ hữu hiệu và kỳ diệu.
Đức Phật
chẳng phủ nhận phép mầu Tâm linh, nhưng Ngài cấm đoán việc phô bày vì chúng
không đưa đến sự hiểu biết giác ngộ.
Ngài cấm
các Tỳ Kheo thi triển thần thông, và chính Ngài cũng tránh, mặc dù có nhiều
đoạn kể lại việc đức Phật phô diễn các phép mầu.
Đức Phật
đã có lần dạy rằng: “Các thần thông dùng để biểu diễn như
bay lên không trung, tàng hình, thiên nhĩ, thiên nhãn hay các loại tương tợ
khác đều liên hệ đến tà kiến và si mê”. Nói cách khác, “thần thông” được thi triển do vì
tà kiến hoặc si mê thúc dục. Còn các thần thông khác nữa vì sự chấp thủ mà thi
triển ra.
Các loại
thần thông đó được phô diễn ra với một tâm thức nhiễm ô nằm trong sự ham muốn
và chấp thủ.
Bây giờ
hãy chú tâm đến hai loại thần thông, đó là “thần thông vô lậu”, “thần thông vô chấp” (nghĩa là không chấp
thủ), tức là khả năng biết kiểm soát và làm chủ được tâm trí mình.
Thí dụ như
khả năng nhìn được bất cứ sự vật nào mà không có tâm so đo phân biệt là đẹp hay
xấu, dễ thương hay đáng ghét: thấy vật không cho là “đẹp” hay “không
đẹp”; cũng như không cho là “xấu” hay “không xấu”; xem mọi vật chẳng đẹp, chẳng
xấu, cùng bình đẳng như nhau. Khả năng đó giúp ta
kiểm soát hoàn toàn được tâm ý, giữ được sự “tỉnh giác thường hằng” và có tâm quân bình, bình thản trước các đối
tượng bên ngoài như hình sắc, âm thanh, hương, vị, xúc giác, tức là những thứ
làm cho tâm giao động.
Có được “chánh niệm tỉnh giác, tâm xả miên mật” đó chính là một phép mầu được gọi là thần thông
vô lậu và thần thông vô chấp. Các loại thần thông nầy mới thật đáng cho ta lưu
tâm học hỏi tu tập.
Các loại “thần thông hữu lậu và chấp thủ”, nếu muốn thi triển
được, phải đòi hỏi nhiều công phu trau luyện khó khăn và tinh tế. Nhưng chỉ một
số ít người có thể thực hiện được mà thôi; ngoài ra có nhiều biến loại khá phức
tạp, xem ra chỉ là những mưu mẹo lừa đảo, phỉnh gạt, đôi khi lại còn lạm dụng
đến các bùa chú, phù phép nữa. Đây không phải là thần thông chân chính đó chỉ
là “ma thuật” mà thôi.
Ngược lại,
các loại được gọi là thần thông vô lậu, thần thông vô chấp đều nằm trong khả
năng trau dồi của đa số mọi người, nhằm phát triển, viên mãn “chánh niệm tỉnh giác”và “tâm xả”.
Các thần
thông nầy mới đáng được Phật tử quan tâm và tu tập. Thần thông nầy mới thật là
thần thông chân chính, nó được gọi là “tu thông”. Thần thông do công phu tu tập tiêu diệt hết Tham, Sân, Si nên “tâm giải thoát khỏi mọi ràng buộc” thì sáu căn phát ra công năng đặc hiệu của nó
như:
1. Thiên
nhãn thông (mắt nhìn xa không
ngăn ngại).
2. Thiên
nhĩ thông (tai nghe xa không
ngăn ngại).
3. Tha
tâm thông (biết được ý nghĩ của
mọi loài).
4. Thần
túc thông (muốn đi tới đâu cũng
được).
5. Túc
mạng thông (biết được nhiều kiếp
trước, nhiều kiếp sau).
6. Lậu
tận thông (chỉ có Phật mới có được: “không có gì chẳng biết, không có
gì chẳng làm được”).
Hiện nay
chúng ta thường chạy theo các loại thần thông “ma thuật” chỉ cốt làm mê hoặc lòng người để thu lại lợi ích
vật chất, thay vì chú tâm đến loại “tu thông” do công phu thanh lọc thân tâm mang lại.
Thần thông là một cái gì
rất được ưa chuộng, nhưng chúng ta phải thay đổi cách nhìn, cách nhận định về
thần thông.
***
41.- HẠNH PHÚC VÀ ĐAU KHỔ
BẮT NGUỒN TỪ ĐÂU?
Ta thường
được nghe nói rằng: Hạnh phúc và Đau khổ bắt nguồn từ
nghiệp cũ. Đó không phải là câu trả lời đúng nhất.
Đau khổ là
những gì đã khởi lên do nguyên nhân và điều kiện; các nguyên nhân và điều kiện
đó có rất nhiều loại, nhiều hạng, nhiều thứ khác nhau, như: vô minh là một nguyên nhân; tham ái là một nguyên nhân;
nghiệp lực cũng là một nguyên nhân nữa.
Nay bảo
rằng Đau khổ bắt nguồn từ Nghiệp, ta phải nghĩ đến nghiệp mới, nghiệp tạo ngay trong đời nầy, tức là vô minh,
sự tham ái, sự bám víu của kiếp hiện tại.
Hãy suy
gẫm về các yếu tố nầy chính là những yếu tố có trách nhiệm gây ra Đau khổ, là
cội nguồn của sự khởi sanh ra đau khổ. Chúng ta phải nhận định rằng nghiệp cũ chẳng thể chống chọi với nghiệp mới, bởi vì chúng ta có khả năng tạo nên nghiệp mới.
Trong
nghiệp mới, có loại nghiệp thứ ba, có khả năng loại trừ các loại nghiệp cũ.
Nghiệp cũ gồm thiện nghiệp và ác nghiệp, không có gì khác hơn. Loại nghiệp thứ ba đơn giảnlà Bát Chánh Đạo. Khi ta phát khởi loại
nghiệp thứ ba thì nghiệp thứ ba nầy giảm sức tác hại của hai loại nghiệp kia.
Nếu chúng
ta sống hoàn toàn theo Bát Chánh Đạo, nghĩa là hoàn toàn diệt trừ Tâm ô nhiễm,
thì loại nghiệp thứ ba lấn át hoàn toàn nghiệp cũ, cả xấu lẫn tốt. Nghĩa là nghiệp cũ, thiện và ác, không có giá trị gì trước loại
nghiệp thứ ba mới nầy.
Do vậy,
chúng ta phải quan tâm đến cách thực hành trực tiếp “Bát Chánh Đạo” là
“tự quan sát lấy mình”, để buông bỏ hẳn cái ý niệm về Ta hay của Ta, tức là buông
bỏ cái chấp vào Tự ngã hay Ngã sở.
Nghiệp lực mới nầy,
thuộc loại nghiệp thứ ba, mạnh mẽ nhất trong mọi loại nghiệp. Một khi nó được khởi
sinh, nó sẽ “bén như gươm đao” và có thể tiêu diệt được một số thật lớn các
nghiệp cũ lâu đời.
Đau khổ khởi sanh từ
nghiệp mới do vô minh, khát ái và tham luyến. Các tham ái nầy đã khởi sanh qua
những gì ta đã tiếp xúc ngày hôm qua, hôm kia, với các hình sắc, âm thanh,
hương vị… bên ngoài.
Các ô
nhiễm đó có thể bị dẹp sạch, do loại nghiệp thứ ba mới mà chúng ta đang tạo
khởi. Đừng để bị phỉnh gạt rằng mọi thứ đều do nghiệp cũ mà ra. Nghiệp mới có thể giúp ta tìm được chuổi nguyên nhân mà từ
đó ta có thể xóa sạch được nghiệp cũ. Vậy đừng bỏ qua nghiệp mới thứ ba mãnh
liệt nầy, nó có thể vô hiệu hóa hoàn toàn các nghiệp cũ.
***
42.- NƠI ĐÂU TA CÓ THỂ
CHẤM DỨT ĐƯỢC ĐAU KHỔ?
Chúng ta
không thể chấm dứt được đau khổ trong tu viện, nơi rừng vắng, tại gia đình, hay
trên núi cao. Chúng ta phải chấm dứt đau khổ ngay
chính tại cái nguyên nhân sanh ra đau khổ.
Điều chúng
ta cần phải làm là tìm cho ra bằng cách nào đau khổ đến với ta hằng ngày và nó
đã sanh khởi do từ cội nguồn nào. Rồi chúng ta phải cắt đứt ngay tại cái nguồn
gốc đó.
Đau khổ
của ngày hôm qua đã diễn ra và đi qua rồi. Nó chẳng thể nào trở lùi lại được, nó
đã xảy ra và chấm dứt. Đau khổ nào có thể phát khởi vào ngày mai thì chưa có gì
phải lo; chỉ có đau khổ đang khởi diễn ngay ở
giây phút nầy là cần phải được dập tắt.
Vậy thì,
phải dập tắt ngay ở chỗ nào đây? Phải dập tắt ngay ở chính cái gốc nguồn của
nó. Chúng ta học tập về đời sống cho đến khi nào nhận thức được, như lời đức
Phật đã nói, rằng đau khổ chỉ khởi sanh do các “giác quan tiếp xúc với trần cảnh sanh
ra ý thức và ta dính mắc và bám giữ vào cái quan niệm cho đó là Ta, là của Ta”.
Thường thì
ta được nghe tuyên bố hùng hồn, nhưng mơ hồ rằng, sanh, già, bệnh, chết là đau
khổ. Nhưng sanh chẳng là khổ, già chẳng là khổ… chết cũng chẳng là khổ khi
không có sự “bám chặt vào ý niệm” về “sanh, già, bệnh, và chết” là “tôi sanh”, “tôi già”, “tôi bệnh”, “tôi chết”.
Nếu ta chẳng bám vào
chúng thì chẳng thể nào đau khổ được, vì thật sự chúng chỉ là sự thay đổi của
thân mà thôi. Khi thân thay đổi như
vầy, ta “có ý nghĩ” là “sanh”; thay đổi thế kia,
lại “có ý nghĩ” là “già”; thay đổi thế nọ lại “có ý nghĩ” là “chết”… nhưng chúng ta lại
quên rằng đó chỉ là những thay đổi của thân thể, mà thân là một “tổ hợp” do Nhân Duyên sanh,
nó Vô ngã, không có Tự thể.
Ta coi
sanh có thật, và hơn thế nữa, ta gọi đó là sanh của tôi, già của tôi, chết của
tôi… Đây là một chuổi mê lầm chồng chất bắt đầu bằng “TÔI” là một mê lầm; rồi thấy thay đổi của thân
như “sanh của tôi” hay “già của tôi” … lại là mê lầm hơn nữa. Ta chẳng còn thấy
được những thay đổi nầy chỉ đơn thuần là thay đổi của thân.
Ngay khi
ta “Tỉnh giác trên mọi hoạt động của Thân” thì ý niệm về “sanh, già, bệnh, chết”
biến mất và cái Tôi cũng không còn. Không còn Tự ngã và ở tình trạng nầy đau
khổ chấm dứt.
Đức Phật
nói: “sanh, già, bệnh, chết là khổ”. Đa số người hiểu lầm lời nói đó. Họ bảo
tình trạng sanh, tình trạng già… là đau khổ. Một số người chẳng thể giải
thích được tại sao. Còn vài người thì ngập ngừng, lưỡng lự, giải thích một cách
mập mờ, tối nghĩa, cực đoan, ngọng nghịu.
Đó là vì
quên mất lời đức Phật dạy: “Bám níu vào năm uẩn là đau khổ”. Năm uẩn là tâm và
thân hợp chung lại thành con người. Nếu có sự bám níu vào bất cứ cái gì
được xem như là “Ta” hoặc là “của Ta” của năm uẩn tức thì có đau khổ.
Nơi nào
diệt trừ được đau khổ? Chúng ta phải loại trừ đau khổ ngay ở
cái gốc của nó, tức là nơi mà tâm nắm bắt và bám níu vào sự vật.
Đau khổ do
tham luyến giàu có? Cần loại trừ đau khổ ngay trong sự tham
luyến đó. Đau khổ do không biết buông bỏ các ảo tưởng về quyền lực, thể diện,
danh dự và tiếng tăm? Cần loại trừ đau khổ ngay trong sự chấp
thủ đó.
Lúc
đó giàu có quyền uy, và oai thế tự chúng không là đau khổ. Cho nên, ta tìm ngay nơi nào đau khổ khởi lên và diệt trừ nó ngay
tại chỗ đó.
Do đó,
chúng ta biết rằng ý niệm khởi lên do mê đắm ngũ dục lạc thế gian: tài, sắc,
danh, thực, thùy khiến phát sanh ra đau khổ. “Tỉnh giác trên mọi hoạt động của Tâm” thì không còn “chấp ngã”. Không còn có cái Ta thì lấy ai chịu khổ.
***