Tự thấy đã làm ác nên hối hận nên có bái này để răn (TL)
Về Bồ Đề
tâm, trong nội điển có thuyết minh rất nhiều, nay chỉ xin trích lục ít đoạn nơi
Kinh
Hoa Nghiêm để chư vị đồng tu thể nhận:
* Này
thiện nam tử! Bậc Bồ Tát phát lòng Vô Thượng Bồ Đề là: khởi lòng đại bi cứu độ
tất cả chúng sinh. Khởi lòng cúng dường chư Phật, cứu cánh thừa sự. Khởi lòng
khắp cầu chính pháp, tất cả không sẻn tiếc. Khởi lòng thú hướng rộng lớn, cầu Nhất
Thiết Trí. Khởi lòng đại từ vô lượng, khắp nhiếp tất cả chúng sinh. Khởi lòng
không bỏ rơi các loài hữu tình mặc áo giáp kiên thệ để cầu Bát Nhã Ba La Mật.
Khởi lòng không siễm dối, vì cầu được trí như thật. Khởi lòng thật hành y như
lời nói, để tu đạo Bồ Tát. Khởi lòng không dối với chư Phật, vì gìn giữ thệ
nguyện lớn của tất cả Như Lai. Khởi lòng nguyện cầu Nhất Thiết Trí, cùng tận
kiếp vị lai giáo hóa chúng sinh không dừng nghỉ. Bồ Tát dùng những công đức Bồ
Đề tâm nhiều như số bụi nhỏ của cõi Phật như thế, nên được sinh vào nhà Như
Lai.
* Này
thiện nam tử! Như người học bắn, trước phải tập thế đứng, sau mới học đến cách
bắn. Cũng thế, Bồ Tát muốn học đạo Nhất Thiết Trí của Như Lai, trước phải an
trụ nơi Bồ Đề tâm, rồi sau mới tu hành tất cả Phật pháp.
Thiện
nam tử! Ví như vương tử tuy hãy còn thơ ấu, song tất cả đại thần đều phải kính
lễ. Cũng thế, Bồ Tát tuy mới phát Bồ Đề tâm tu Bồ Tát hạnh, song tất cả bậc kỳ
cựu hàng Nhị Thừa đều phải kính trọng nể vì. Thiện nam tử! Như thái tử tuy đối
với quần thần chưa được tự tại, song đã đủ tướng trạng của vua, các bầy tôi
không thể sánh bằng, bởi nhờ chỗ xuất sinh tôn quý. Cũng thế Bồ Tát tuy đối với
tất cả nghiệp phiền não chưa được tự tại, song đã đầy đủ tướng trạng Bồ Đề,
hàng Nhị Thừa không thể sánh bằng, bởi nhờ chủng tính đứng vào bậc Nhất. Thiện
nam tử! Như người máy bằng gỗ, nếu không có mấu chốt thì các thân phần rời rạc
chẳng thể hoạt động. Cũng thế, Bồ Tát nếu thiếu Bồ Đề tâm, thì các hạnh đều
phân tán, không thể thành tựu tất cả Phật pháp.
Thiện
nam tử! Như chất kim cương tất cả vật không thể phá hoại, trái lại có thể phá
hoại tất cả vật, song thể tính của nó vẫn không tổn giảm. Bồ Đề tâm của Bồ Tát
cũng thế, khắp ba đời trong vô số kiếp, giáo hóa chúng sinh, tu các khổ hạnh,
việc hàng Nhị Thừa không thể làm đều làm được, song kết cuộc vẫn chẳng chán mỏi
giảm hư...
* Phổ
Hiền Bồ Tát bảo: Thiện nam tử!
Bồ Tát
vì điều phục giáo hóa tất cả chúng sinh nên phát Bồ Đề tâm.
Vì trừ
diệt khổ tụ cho tất cả chúng sinh, nên phát Bồ Đề tâm.
Vì đem
cho tất cả chúng sinh sự an vui đầy đủ, nên phát Bồ Đề tâm.
Vì dứt
trừ sự ngu tối cho tất cả chúng sinh, nên phát Bồ Đề tâm.
Vì đem
lại Phật trí cho tất cả chúng sinh, nên phát Bồ Đề tâm.
Vì cung
kính cúng dường tất cả chư Phật, nên phát Bồ Đề tâm.
Vì tùy
thuận lời dạy Như Lai khiến chư Phật hoan hỷ, nên phát Bồ Đề tâm.
Vì muốn
thấy sắc thân tướng hảo của tất cả chư Phật, nên phát Bồ Đề tâm.
Vì muốn
vào trí huệ rộng lớn của tất cả chư Phật, nên phát Bồ Đề tâm.
Vì muốn
hiển hiện các đức: lực, vô úy của chư Phật, nên phát Bồ Đề tâm.
* Như
thế, trong Kinh Hoa Nghiêm đức Thế Tôn và chư Bồ Tát đã thuyết minh rộng
rãi về công đức của Bồ Đề tâm, trên đây chỉ lược trích một vài yếu điểm.
Kinh văn
cũng có nói: "Cửa yếu vào đạo, trước phải phát tâm. Việc yếu tu hành,
trước nên lập nguyện."
Nếu không
phát tâm rộng lớn, không lập nguyện bền chắc, thì dù trải qua vô lượng kiếp,
vẫn y nhiên ở trong nẻo luân hồi; dù có tu hành cũng khó tinh tấn và chỉ luống
công khổ nhọc.
Do đó
nên biết: muốn học Phật đạo, quyết phải phát Bồ Đề tâm không thể trì huởn. Bởi
thế khi xưa Tỉnh Am đại sư đã soạn ra Phát Bồ Đề Tâm Văn để khuyến khích tứ
chúng.
Trong
ấy, Ngài theo các tâm nguyện mà trình bày sự phát tâm thành tám cách: tà, chính,
chân, ngụy, đại, tiểu, thiên, viên. Xin tóm đại lược như sau:
1. Có
những người tu không tham cứu tự tâm, chỉ biết theo bên ngoài, hoặc cầu danh
lợi, đắm cảnh vui hiện tại, hay mong quả phúc tương lai mà phát lòng Bồ Đề.
Phát tâm như thế gọi là Tà.
2. Như
chẳng cầu danh lợi, không tham cảnh vui cùng mong quả phúc, chỉ vì thoát vòng sinh
tử, lợi mình lợi sinh mà cầu đạo Bồ Đề. Phát tâm như thế gọi là Chính.
3. Mỗi
niệm trên vì cầu Phật đạo, dưới vì độ chúng sinh, nhìn đường Bồ Đề dài xa mà
không khiếp, thấy loài hữu tình khó độ nhưng chẳng sờn. Tâm bền vững như lên
núi quyết đến đảnh, như leo tháp quyết đến chót. Phát tâm như thế gọi là Chân
(thật).
4. Có
tội lỗi không sám hối chừa cải, ngoài dường trong sạch, trong thật nhớp nhơ,
trước tinh tấn sau biếng lười. Dù có tâm tốt nhưng còn xen lẫn lợi danh, có
pháp lành song bị tội lỗi làm ô nhiễm. Phát tâm mà còn những điều này, gọi là
Ngụy (dối).
5. Cõi
chúng sinh hết, nguyện mới hết; đạo Bồ Đề thành, nguyện mới thành. Phát tâm như
thế gọi là Đại.
6. Xem
tam giới như tù ngục, sinh tử như oan gia; chỉ mong mình mau giải thoát, chẳng
muốn độ người. Phát tâm theo quan niệm này, gọi là Tiểu.
7. Thấy
chúng sinh và Phật đạo ở ngoài tự tính, rồi nguyện độ nguyện thành, đường công
hạnh chẳng quên, sự thấy hiểu không dứt. Phát tâm như thế gọi là Thiên (lệch).
8. Biết
chúng sinh và Phật đạo đều là tự tính, nên nguyện độ nguyện thành, tu công đức
không thấy mình có tu, độ chúng sinh không thấy có chúng sinh được độ. Phát tâm
như thế gọi là Viên (tròn).
Trong
tám cách như trên, Tà, Ngụy, Thiên, Tiểu nên bỏ, Chân, Chính, Viên, Đại, nên
theo. Được như thế mới gọi là phát Bồ Đề tâm đúng cách.
Trong
văn, Tĩnh Am đại sư lại khuyên đại chúng nên nghĩ đến mười nhân duyên để phát
tâm.
Mười
duyên ấy là: vì nghĩ đến ơn Phật, vì công ơn cha mẹ, vì nhớ ơn sư trưởng, vì
tưởng ơn tín thí, vì biết ơn chúng sinh, vì lo khổ sinh tử, tôn trọng tính
linh, vì sám trừ nghiệp chướng, vì hộ trì chính pháp, vì cầu sinh Tịnh Độ.
Nơi điều
cầu Tịnh Độ, Ngài dẫn một lời Kinh A Di Đà và bảo: "Kinh Văn nói: Không
thể dùng chút ít căn lành phúc đức nhân duyên được sinh về nước kia. Thế thì
biết, phải có nhiều căn lành phúc đức mới được vãng sinh Cực Lạc. Nhưng nhiều
căn lành không chi hơn phát Bồ Đề tâm, nhiều phúc đức không chi hơn trì danh
hiệu. Nhiếp tâm niệm Phật giây phút hơn bố thí nhiều năm, chân thật phát lòng
Bồ Đề hơn tu hành nhiều kiếp.
Giữ chắc
hai nhân duyên này, quyết định được sinh Cực Lạc."
Qua
những lời dạy của Phật, Bồ Tát, Tổ Sư ở trên, ta thấy phát Bồ Đề tâm là điều
rất quan yếu trên đường hành đạo.
Mục C.
Ba Sự Kiện Thiết Yếu Đối Với Bồ Đề Tâm
Tiết 12
Đường Sinh Tử Nhiều Nguy Hiểm
* Đường
vào vườn giác ngộ có nhiều cửa, hành giả trước tiên phải lấy tâm đại Bồ Đề làm
khởi điểm chính chân, rồi tùy căn cơ sở thích, muốn tu theo pháp môn nào cũng
tốt.
Trên
đường tu, nếu luận về "căn cơ" thì môn Tịnh Độ bao gồm cả ba căn
thượng, trung, hạ; chẳng những hạng phàm thường, mà các bậc Bồ Tát như Văn Thù,
Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ đều nguyện vãng sinh.
Nếu luận
về "thời tiết" thì thời mạt pháp này chúng sinh phần nhiều tâm tạp
chướng nặng, môn Tịnh Độ dễ thật hành, lại có thể trong một đời được vãng sinh
giải thoát. Nhưng, nếu luận về sở thích, thì riêng môn Tịnh Độ không thể thỏa
mãn được hết mọi người, vì thế đức Như Lai mới nói nhiều pháp môn.
Đại khái
như những vị có tâm hùng tráng, ưa sự giản dị trực thiệp trong sáng, thì thích
về Thiền Tông.
Những vị
ưa sự thần thông linh ứng kỳ bí, thích tu về Mật Tông.
Những vị
ưa lý luận, cần phân tích cho xác thật rành rẽ mới chịu tin tưởng làm theo,
thích tu về Duy Thức Tông...
Trong
mỗi tông lại có nhiều chi tiết khác biệt, mà mỗi người hành trì không giống
nhau.
Tuy
nhiên, trong đời mạt pháp, hành giả đã phát đại Bồ Đề tâm thề độ mình độ sinh,
mà muốn bảo đảm cho tâm ấy thành tựu không bị thối thất; dù tu các môn khác,
cũng nên kiêm hành Tịnh Độ để cầu vãng sinh.
Tại sao
thế? Trong đây có ba sự kiện thiết yếu, xin tuần tự kể phần đại lược:
* Trong
nẻo sống chết luân hồi, có nhiều hiểm nguy chướng nạn cho đường tu. Muốn thoát
cảnh hiểm luân hồi để bảo đảm tâm Bồ Đề không thối thất, phải cầu sinh Tịnh Độ.
Đây là sự kiện thiết yếu trước tiên, mà hành giả cần lưu ý.
* Tiên
đức hằng răn nhắc: "Nếu tu mà không chuyên cầu giải thoát, thì sự tu nơi
kiếp này là mối thù trong kiếp thứ ba."
Sở dĩ có
việc ấy, bởi kiếp thứ Nhất lo kham khổ tu hành, nên chuyển sinh qua kiếp thứ
nhì được hưởng quả báo thông minh giàu sang quyền thế. Trong kiếp thứ hai này,
do giàu sang nên dễ mê theo cảnh quyền quý, vợ đẹp con xinh, cùng các thú vui
vật chất nơi cõi trần. Đã nếm mùi dục lạc tất dễ sinh đắm nhiễm, càng đắm nhiễm
càng đi đến chỗ sa đọa tối tăm, dám làm nhiều điều ác để củng cố lợi quyền và
thỏa lòng tham vọng.
Kiếp thứ
nhì đã gieo nhân như thế, kiếp thứ ba làm sao khỏi bị đọa lạc tam đồ?
Có kẻ
gạn: "Kiếp trước đã có công tu gieo nhân tốt, không lẽ sang kiếp thứ nhì
trí huệ căn lành đều mất, để đến nỗi phải bị đọa hay sao?"
Xin đáp:
"Căn lành tuy có, nhưng nghiệp ác từ vô lượng kiếp chưa phải đã tiêu trừ.
Mà trong cảnh trần, việc lành rất khó làm như leo lên cây cao, điều ác rất dễ
phạm như tuộc xuống dốc lở. Người xưa đã chẳng bảo:
Trọn đời
làm lành, lành còn chẳng đủ; một ngày làm ác, ác tự có dư đó ư? Như những người
giàu sang quyền thế mà chúng ta hiện thấy, kiếp trước họ đều có ít nhiều công
đức bố thí tu phúc làm lành, nhưng kẻ hướng về nẻo thiện không bao nhiêu, người
say đắm danh lợi vinh hoa lại chiếm phần đa số.
Thử hỏi
có mấy vị đỗ cao quyền quí chịu xuất gia, sống một cuộc đời khắc khổ đạm bạc,
hướng về mục đích giải thoát thanh cao?
Ngay như
người xuất gia, khi chưa có địa vị còn kham nhẫn tu hành, lúc đã được quyền
danh, nhiều kẻ lễ bái tôn trọng cúng dường, lại dễ bị cảnh phù trần ràng buộc.
Hiện tại
ta thấy có biết bao hàng tăng ni thiện tín, trước còn tinh tấn hành trì, sau
lần lần biếng trễ bỏ tu hoặc hoàn tục thối đạo, nói chi đến kiếp sau?"
* — cõi
người còn như thế, nếu sinh lên cõi trời cảnh vui ngũ dục quá nhiệm mầu, lại
còn khó tu hơn nữa! Đó là nói những vị có phúc, còn những người ít phúc sống
một cuộc đời nghèo khổ quá cũng khó tu.
Hoặc tuy
vào hạng trung lưu, nhưng giữa đời này tà đạo dẫy đầy; trong chính pháp bậc
thiện hữu tri thức khó gặp, nẻo đường giải thoát không phải dễ tìm!
Đến như
chúng sinh trong ba ác đạo là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, thì việc tu niệm
thật là khó đến muôn phần, vì các loài ấy ngu tối, thân tâm hằng ở trong cảnh
khổ.
Kiếp
luân hồi có nhiều hiểm nạn như thế, nếu không cầu sinh Tịnh Độ để thoát ly, tất
khó bảo đảm tâm Bồ Đề không bị thối thất.
Tiết 13
Cần Giải Thoát Ngay Trong Hiện Kiếp
* Trong
thời mạt pháp, nếu chỉ tu môn khác không kiêm cầu Tịnh Độ, tất khó giải thoát
ngay trong một đời. Nếu đời này không được giải thoát bị mê trong nẻo luân hồi,
thì tất cả tâm nguyện sẽ thành hư tưởng. Đây là sự kiện thiết yếu thứ hai, mà
hành giả cần lưu ý.
Các hành
giả tu theo những pháp môn khác, duy trọng về tự lực, lập tâm trường cữu, quan
niệm mỗi đời cứ tiến tu, dù đời này không được giải thoát, trong những kiếp sau
cũng sẽ thành đạo.
Nhưng có
một điều cần để ý, là liệu đời sau sẽ được bảo đảm chắc chắn cho ta tiếp tục tu
nữa chăng?
Bởi khi
chưa là bậc đắc đạo, lúc chuyển sinh tất phải hôn mê, dễ quên tâm nguyện tu
hành kiếp trước.
Nơi cảnh
trần duyên tiến đạo thì ít, duyên thối đạo lại nhiều. Biết bao vị xuất gia lúc
chuyển sinh không thể tiến tu, như các sự tích đã lược trần trong chương thứ Nhất.
Kinh
nói: "Bồ Tát còn mê khi cách ấm, Thanh Văn còn muội lúc ra thai."
"Cách
ấm" là trải cách từ ấm thân này sang ấm thân khác. Như thân hiện tại là
tiền ấm, chuyển sinh thân kiếp sau gọi là hậu ấm; trải qua sự xen cách từ thân
trước đến thân sau như thế, bậc Bồ Tát chưa đắc đạo phải bị hôn mê.
Trong
kinh, có nơi khác lại nói: "Hạng phàm thường khi nhập thai, trụ thai và
xuất thai đều hôn mê. Bậc Chuyển Luân Thánh Vương do phúc báo, lúc nhập thai
thì biết, khi trụ thai, xuất thai phải bị hôn mê.
Hàng
Thanh Văn lúc nhập thai, trụ thai đều có thể tỉnh biết, song khi xuất thai lại
hôn mê. Duy có bậc Bồ Tát chứng Vô Sinh Nhẫn, lúc nhập thai, trụ thai và xuất
thai đều tỉnh giác." Đôi khi hạng phàm phu do nghiệp duyên đặc biệt cũng
nhớ được kiếp trước, nhưng đây chỉ là trường hợp ít có trong muôn một. Hoặc đó
là Bồ Tát thị hiện để cho chúng sinh biết có luân hồi, ngoài ra tất cả khi
chuyển sinh đều bị mê muội. Khi đã hôn mê, thì bao nhiêu sự hiểu biết về đạo lý
và những tâm nguyện nơi kiếp trước, đều vì vô minh che lấp khiến cho lãng quên.
Duyệt
qua chỗ kiến văn, bút giả từng nghe có vị thuật lại, lúc trẻ tuổi mỗi khi nằm
mơ thấy mình bay tự do cao vút đi khắp mọi nơi; tuổi càng lớn lại thấy bay thấp
lần lần, sau không còn bay được nữa.
Trong
quyển Phật Học Chỉ Nam, có kể chuyện ông Viên Thủ Đồng, người ở đất Trường Sơn
bên Trung Hoa, lúc bốn năm tuổi, trong đêm tối thấy rõ rệt các vật như ban
ngày. Mấy năm kế, sự thấy mờ giảm lần. Từ mười tuổi trở lên, ông không còn thấy
nữa, chỉ đôi khi nữa đêm thức dậy ngẫu nhiên thấy rõ được trong giây lát.
Khoảng mười bảy tuổi về sau, hai ba năm mới thấy một lần, nhưng chỉ lóe sáng
lên rồi liền tắt mất. Những vị này kiếp trước đều có tu nhưng khi chuyển thế bị
mê đi, kế đó trần nhiễm càng sâu, thần minh càng tiêu giảm.
Có những
vị như vị Thiên Đại Hạt Tử ở Nhật Bản, Ngụy Tịch Phủ ở Trung Hoa, ngồi một nơi
thấy rõ những vật xung quanh cách xa đến mấy mươi dặm. Có nhiều người thấy được
vật dưới đất, sự việc cách tường vách, hoặc đồ để trong túi của quần chúng, mà
thế gian gọi là thiên nhãn, nhưng họ không chịu tu. Bởi thế lần lần sự thấy suy
giảm, kết cuộc cũng như thường nhân.
Lại có
những vị xem sách một lần rồi gấp lại đọc thuộc lòng không sai một chữ, hoặc
văn tài mau lẹ xuống bút thành phú, mở miệng thành thi, nhưng không chịu tu
hành, đôi khi trở lại bài bác đạo Phật.
Cổ đức
bình luận những người sau này, kiếp trước tu Thiền định đến trình độ khá cao,
đã có chỗ sở đắc. Nhưng bởi những vị hành trì theo tông môn chỉ nhận ngay tự
tâm, phá trừ Phật kiến, Pháp kiến, nghĩa là để tâm rỗng không chẳng thấy có
Phật và Pháp; nên khi chưa chứng đạo phải chuyển sinh trở lại, duy bằng cứ vào
sự thông minh của mình, không ưa thích đạo Phật.
Các bậc
xưa còn như thế, người tu hiện tại sở đắc phỏng có là bao?
* Như
lời Phật huyền ký: "Đời mạt pháp người tu thì nhiều nhưng khó có ai đắc
đạo." Mà khi chưa chứng đạo, nếu còn nghiệp lực nhỏ như sợi tơ cũng bị
luân hồi. Dù có một vài vị ngộ đạo, nhưng ngộ chưa phải là chứng, chỉ do sức
định chế phục nghiệp thức khiến cho lắng động lại, nên tạm được khai tâm, lúc
chuyển sinh vẫn còn bị hôn mê không được tự tại. Đến kiếp sau, duyên tiến đạo
thì ít cảnh thối đạo lại nhiều, nguyện giải thoát đã thấy khó bảo toàn chắc
chắn. Về sự ngộ đạo còn bị thối thất, cổ đức đã có ba điều thí dụ:
Điều thứ
nhất: như dùng tảng đá đè lên cỏ dại, cỏ tuy không mọc được nhưng củ nó chưa hư
thúi, nếu gặp duyên khác tảng đá bị lật lên, cỏ vẫn mọc lại như cũ.
Điều thứ
hai: như lóng nước trong chum, bùn tuy lắng xuống nằm yên tận đáy, nhưng khi
chưa gạn lọc ra được, gặp duyên khuấy động, bùn lại nổi lên.
Điều thứ
ba: như đồ gốm tuy nắn thành hình, nhưng chưa trải qua một phen nung lại cho
chắc, gặp mưa xuống tất phải bị tan rã. Trạng huống ngộ đạo khi chuyển sinh dễ
bị thối thất, cũng lại như thế.
Đời mạt
pháp, người tu có mấy ai ngộ đạo? Ngộ đạo không phải là dễ. Như thuở xưa, Hương
Lâm thiền sư dụng tử công phu trong bốn mươi năm mới dung luyện thành một khối.
Ngài Trường Khánh Nhàn ngồi rách mười mấy chiếc bồ đoàn mới được thấy tính bản
lai. Người đời nay, trừ một vài vị Thánh nhân ứng thân thị hiện để làm mô phạm
cho quần chúng, ngoài ra các vị khác tu thiền, chỉ tạm được thân tâm an tỉnh
hoặc thấy thiện cảnh giới là cùng! Dù đã ngộ đạo, khi chuyển sinh vẫn còn có
thể bị chướng nạn như những điều đã kể trên. Đường sinh tử có nhiều nguy hiểm
đáng e ngại với kẻ chưa đắc đạo là thế. Cho nên nếu bảo không sợ sinh tử, đó là
chỉ lối suy tư của người thiển cận mà thôi.
Hơn nữa,
hiện tại chính pháp đã lần lần ẩn diệt, trên thế giới, nơi nào ảnh hưởng duy
vật tràn đến là đạo Phật không còn.
Đã có
nhiều nơi chùa chiền bị hủy phá, kinh sách bị thiêu đốt, tăng ni phải hoàn tục,
hàng thiện tín không được tu. Dù cho ngày kia có được phục hồi, cũng phải bị
biến thể và tiêu hao một phần lớn. Mong chuyển sinh để tiếp tục tu hành với một
nền đạo suy tàn, thiếu bậc cao tăng dìu dắt, lấy đâu làm duyên tốt tiến đạo để
giải thoát trong tương lai? Cho nên muốn bảo đảm tâm Bồ Đề không bị thối thất,
phải tu Tịnh Độ. Dù tu các môn khác cũng nên kiêm niệm Phật phát nguyện vãng sinh
về Cực Lạc.
Đây là
lời khuyến tấn chung của các bậc tiên đức, như các ngài: Liên Trì, Ngẫu Ích,
Kiên Mật, „
Kinh nói
: “Thiện nam tử, tất cả chúng sinh từ vô thủy đến nay điên đảo nhiều lớp. Như người mê bốn hướng, đổi chỗ. Vọng nhận tứ đại làm
tướng của tự thân, sáu trần duyên
bóng làm tướng của tự tâm. Ví như người đau mắt thấy hoa giữa hư không. Cho đến các hoa đốm ấy diệt trong hư không. Không thể nói
quyết rằng có chỗ diệt. Vì sao?
Vì không
chỗ sinh vậy. Tất cả chúng sinh nơi vô sinh vọng thấy có sinh diệt. Cho nên gọi là luân chuyển sinh tử”.
Cứ theo
Kinh này tin biết rằng đạt ngộ chân tâm vốn không sinh tử. Nay biết không sinh
tử mà không thể thoát sinh tử, vì công phu không đến vậy. Cho nên trong Kinh
nói: “Am bà nữ hỏi Văn Thù rằng: Rõ biết sinh là pháp chẳng sinh, vì sao lại bị
sinh tử trôi đi? – Văn Thù đáp: Vì sức kia chưa đầy đủ”.
Sau này
Tiến Sơn chủ hỏi Tu Sơn chủ rằng: “Rõ biết sinh là pháp chẳng sinh, vì sao lại
bị sinh tử trôi đi?
Tu đáp:
Măng trọn thành tre. Như nay khiến làm phên được”.
Thế nên
“Biết” không sinh tử, chẳng như “Thể” không sinh tử.
Thể
không sinh tử chẳng như “Khế” không sinh tử.
Khế
không sinh tử chẳng như “Dụng” không sinh tử.
Người
nay còn chẳng biết không sinh tử, huống là thể không sinh tử, khế không sinh
tử, dụng không sinh tử? Người nhận sinh tử, không tin pháp không sinh tử cũng
vậy…
Hai bài
kệ quan trọng của kinh Hoa Nghiêm là
(Thích
Duy Lực dịch):
Nếu người muốn biết rõ
Tất cả Phật tam thế
Phải quán tính Pháp giới
Tất cả do tâm tạo.
|
Nếu người muốn biết cảnh giới Phật
Ý căn thanh tịnh như hư không
Xa lìa vọng tưởng và chấp thủ
Khiến tâm khắp nơi đều vô ngại
|