Nước muốn Giàu Mạnh thì Phải có lương thực dồi dào (dân không đói), Hàng hóa dư thừa (dân không thất nghiệp - có thu nhập - Quốc gia có thuế) và quân nắm chặt tay súng.
14/05/2021
28/04/2021
18 đời vua Hùng
Lý
giải tại sao 18 đời Vua Hùng lại kéo dài những 2622 năm. Vậy Việt Nam ta đã có gần 5.000 năm lịch sử ư ?
Nguyên nhân của việc này chính là do cách gọi.
Gọi
không đúng dẫn đến hiểu sai. Lẽ ra phải gọi là 18 chi thời Vua Hùng, không phải
là 18 đời. Mỗi chi có nhiều đời vua, vì vậy thời Hùng Vương mới kéo dài trên
2600 năm.
Ví
dụ, chi Khôn: Hùng Chiêu Vương. Chi này có 5 đời vua đều xưng là Hùng Chiêu
Vương, ở ngôi 200 năm, từ năm Canh Tuất ( 1631 TCN) đến Kỷ Tỵ (1432 TCN).
Có
một chi tiết đặc biệt nữa là Kinh Dương Vương sinh năm 2919 trước công nguyên,
lên ngôi lúc 41 tuổi, vào năm 2818 TCN, nghĩa là gần 3.000 năm TCN. Như vậy đến
nay nước ta có gần 5.000 năm lịch sử, không phải 4.000 năm như vẫn nghe.
Xin gửi tới các bạn bài báo "Tìm hiểu 18 chi đời Hùng Vương" của tác giả Nguyễn Duy Chiến Thắng, đăng trên tờ Tin Tức (VNTTX) tháng 2/2000
Nội
dung chính của bài báo như sau:
Nhà
sử học Biệt lam Trần Huy Bá cùng các cộng sự đã sưu tầm các truyền thuyết và
thư tịch cổ về các Ngọc phả của các xã quanh vùng có đền thờ Vua Hùng, lưu giữ
tại Vụ Bảo tồn, Bảo tàng Bộ VHTT (số hiệu HT.AE9). Các tài liệu không chép là
18 đời Vua Hùng mà ghi là 18 chi. Mỗi chi gồm nhiều đời vua. Các đời vua trong
một chi cùng lấy hiệu của vua đầu chi.
1. Chi Càn
Kinh
Dương Vương, huý Lộc Tục, sinh năm Nhâm Ngọ (2919 trước Công nguyên), lên ngôi
năm 41 tuổi, không rõ truyền mấy đời vua, ở ngôi tất cả 86 năm, từ năm Nhâm Tuất
(2879 TCN) đến năm Đinh Hợi (2794 TCN). So ngang với thời đại Tam Hoàng (?)
2. Chi Khảm
Lạc
Long Quân, huý Sùng Lãm tức Hùng Hiển Vương, sinh năm Bính Thìn (2825 TCN), lên
ngôi năm 33 tuổi, không rõ truyền mấy đời vua. Chi này ở ngôi tất cả 269 năm đều
xưng là Hùng Hiển Vương, từ năm Mậu Tý (2793 TCN) đến năm Bính Thìn (2525 TCN).
Ngang với Trưng Quốc vào thời Hoàng Đế (Ngũ đế).
3. Chi Cấn
Hùng
Quốc Vương, huý Hùng Lân, sinh năm Canh Ngọ (2570 TCN), lên ngôi năm 18 tuổi,
không rõ truyền mấy đời vua, đều xưng là Hùng Quốc Vương. Chi này ở ngôi tất cả
271 năm, từ năm Định Tỵ (2524 TCN) đến năm Bính Tuất ( 2253 TCN). Ngang với TQ
vào thời Đế Thuấn, Hữu Ngu.
4. Chi Chấn
Hùng
Hoa Vương, huý Bửu Lang, không rõ năm sinh, lên ngôi năm Đinh Hợi (2254 TCN),
không rõ truyền mấy đời vua, đều xưng là Hùng Hoa Vương. Chi này ở ngôi 336
năm, từ năm Đinh Hợi (2254 TCN) đến năm Mậu Thìn (1918 TCN). Ngang với TQ vào
thời Đế Quỳnh nhà Hạ
5. Chi Tốn
Hùng
Hi Vương, huý Bảo Lang, sinh năm Tân Mùi (2030 TCN), lên ngôi khi 59 tuổi. Chi
này không rõ có mấy đời vua, đều xưng là Hùng Hi Vương, ở ngôi tất cả 200 năm,
từ năm Kỷ Tỵ (1912 TCN) đến năm Mậu Tý (1713 TCN). Ngang với TQ vào thời Lý Quý
(Kiệt) nhà Hạ.
6. Chi Ly
Hùng
Hồn Vương, huý Long Tiên Lang, sinh năm Tân Dậu ( 1740 TCN), lên ngôi năm 29 tuổi.
Chi này truyền hai đời vua, ở ngôi tất cả 81 năm, đều xưng Hùng Hồn Vương, từ
năm Kỷ Sửu (1712 TCN) đến Kỷ Dậu (1632 TCN). Ngang với TQ thời Ốc Đinh nhà
Thương.
7. Chi Khôn
Hùng
Chiêu Vương, huý Quốc Lang, sinh năm Quý Tỵ (1768 TCN), lên ngôi năm 18 tuổi.
Chi này có 5 đời vua đều xưng là Hùng Chiêu Vương, ở ngôi 200 năm, từ năm Canh
Tuất ( 1631 TCN) đến Kỷ Tỵ (1432 TCN). Ngang với TQ thời Tổ Ất nhà Thương.
8. Chi Đoài
Hùng
Vĩ Vương, huý Vân Lang, sinh năm Nhâm Thìn (1469 TCN), lên ngôi năm 39 tuổi.
Chi Đoài có 5 5 đời vua, đều xưng là Hùng Vĩ Vương, ở ngôi 100 năm, từ năm Canh
Ngọ (1431 TCN) đến năm Kỷ Dậu (1332 TCN). Ngang với TQ thời Nam Canh nhà Thương.
9. Chi Giáp
Hùng
Định Vương, huý Chân Nhân Lang, sinh năm Bính Dần (1375 TCN), lên ngôi năm 45
tuổi. Chi được truyền 3 đời vua, đều xưng là Hùng Định Vương, ở ngôi 80 năm, từ
năm Canh Tuất (1331 TCN) đến Kỷ Tỵ (1252 TCN). Ngang với TQ thời Tiểu Ất nhà Ân.
10. Chi Ất
Hùng
Uy Vương, huý Hoàng Long Lang, sinh năm Giáp Ngọ (1287 TCN), lên ngôi năm 37 tuổi.
Chi có 3 đời vua, đều xưng là Hùng Uy Vương, ở ngôi 90 năm, từ năm Canh Ngọ
(1252 TCN) đến Kỷ Hợi (1162 TCN). Ngang với TQ thời Tổ Giáp nhà Ân.
11. Chi Bính
Hùng
Trinh Vương, huý Hưng Đức Lang, sinh năm Canh Tuất (1211 TCN), lên ngôi năm 51
tuổi. Chi có 4 đời vua, đều xưng là Hùng Trinh Vương, ở ngôi tất cả 107 năm, từ
năm Canh Tý (1161 TCN) đến Bính Tuất (1055 TCN). Ngang với TQ thời Thành Vương
nhà Tây Chu.
12. Chi Đinh
Hùng
Vũ Vương, huý Đức Hiền Lang, sinh năm Bính Thân (1105), lên ngôi năm 52 tuổi.
Chi được truyền 3 đời vua, đều xưng là Hùng Vũ Vương, ở ngôi 96 năm, từ năm
Đinh Hợi (1054 TCN) đến Nhâm Tuất (969 TCN). Ngang với TQ tời Mục Vương nhà Tây
Chu.
13. Chi Mậu
Hùng
Việt Vương, huý Tuấn Lang, sinh năm Kỷ Hợi (982 TCN), lên ngôi năm 23 tuổi,
truyền được 5 đời vua, đều xưng là Hùng Việt Vương. Chi này ở ngôi 105 năm, từ
năm Quý Hợi (958 TCN) đến năm Đinh Mùi (854 TCN). Ngang với TQ thờin Bình Vương
nhà Tây Chu.
14. Chi Kỷ
Hùng
Anh Vương, huý Viên Lang, sinh năm Đinh Mão (894 TCN), lên ngôi năm 42 tuổi,
truyền được 4 đời vua, đều xưng là Hùng Anh Vương. Chi này ở ngôi 99 năm, từ
năm Mậu Thân (853 TCN) đến Bính Tuất (755 TCN). Ngang với TQ thời Bình Vương
nhà Đông Chu.
15. Chi Canh
Hùng
Triệu Vương, huý Cảnh Chiêu Lang, sinh năm Quý Sửu (748 TCN), lên ngôi năm 35
tuổi. Chi này có 3 đời vua, đều xưng Hùng Triệu Vương, ở ngôi 94 năm, từ năm Định
Hợi (754 TCN) đến Canh Dần (661 TCN). Ngang với TQ thời Huệ Vương nhà Đông Chu.
16. Chi Tân
Hùng
Tạo Vương (thần phả ở xã Tiên Lát, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang), huý Đức
Quan Lang, sinh năm Kỷ Tỵ (172 TCN), lên ngôi năm 53 tuổi. Chi có 3 đời vua, đều
xưng là Hùng Tạo Vương, ở ngôi 92 năm, từ năm Tân Dậu (860 TCN) đến Nhâm Thìn
(569 TCN). Ngang với TQ thời Linh Vương nhà Đông Chu.
17. Chi Nhâm
Hùng
Nghị Vương, huý Bảo Quân Lang, sinh năm Ất Dậu (576 TCN), lên ngôi năm 9 tuổi.
Chi Nhâm có 4 đời vua, đều xưng là Hùng Nghị Vương, ở ngôi tất cả 160 năm, từ
năm Quý Tỵ (568 TCN) đến Nhâm Thân (409 TCN). Ngang với TQ thời Uy Liệt Vương
nhà Đông Chu.
18. Chi Quý
Hùng
Duệ Vương, huý Huệ Vương, sinh năm Canh Thân (421 TCN), lên ngôi năm 14 tuổi.
Chi này không rõ có mấy đời vua (có lẽ 3 đời), ở ngôi tất cả 150 năm, từ năm
Quý Dậu (408 TCN) đến Quý Mão (258 TCN). Ngang với đời Uy Liệt Vương và đời
Noãn Vương nhà Đông Chu, TQ.
Giải
thích như trên là rõ ràng và thuyết phục hơn những luận giải khác.
Hàng năm chúng ta đều tổ chức quốc giỗ long trọng,
thế nhưng có lẽ không nhiều người hiểu và lý giải được tại sao thời vua Hùng
kéo dài trên 2600 năm mà chỉ có 18 "đời" vua. Thiết nghĩ, các nhà sử
học, truyền thông cũng như lãnh đạo các cấp cần làm rõ và phổ biến rộng rãi cho
người dân biết.
Trân trọng.
26/04/2021
Ngẫm.
Bao đời nay chẳng có mấy trung thần được cái kết tốt đẹp. Trung thần là dùng để giết. Danh thần, dũng tướng chết oan nhiều lắm vì chết cũng là do đấu tranh, kém trí hơn người thì chết. Đấu tranh chính trị cũng giống như trên chiến trường, thua trận là chết.
20/04/2021
Lưu manh
"Lưu
manh" là từ dùng để chỉ những người có hành vi lừa đảo, không
trung thực hoặc sống ngoài vòng pháp luật. Người "lưu manh" thường thực hiện những hành vi xấu xa, gian dối,
không tuân thủ các quy tắc xã hội và gây phiền hà, thiệt hại cho người khác. Từ
này thường được dùng để miêu tả những người có tính cách xảo quyệt, sẵn sàng
bất chấp tất cả để đạt được mục đích cá nhân mà không quan tâm đến hậu quả đối
với người khác.
Tuy nhiên,
"lưu manh" không chỉ đơn
thuần là những kẻ lười lao động, chuyên sống bằng trộm cắp và lừa đảo. Hiện
nay, còn xuất hiện các dạng "lưu
manh trí thức" hay "lưu
manh quan quyền" những người sử dụng trí tuệ hoặc quyền lực của mình
để thực hiện các hành vi bất chính.
Theo quan
điểm của tôi, "lưu manh" là
những kẻ có phẩm chất dữ dằn (côn đồ), không làm việc chính đáng, mà dựa vào thế
lực (vũ lực, quan hệ, chức quyền...) để làm bậy, hoặc sử dụng sự xảo trá, lừa
đảo nhằm hại người - lợi mình. "Lưu
manh" là những kẻ coi thường chính nghĩa, thực hiện những hành động
phi pháp và xấu xa chỉ để đạt được mục đích cá nhân.
Tiếng trống chùa xứ quê xưa
Trần Hữu Hiệp
Xóm tôi nằm ở ngã ba sông. Bên này sông là 2 cái nhà
thờ Công giáo và đạo Tin Lành. Bên kia sông là ngôi chùa Khmer, còn cạnh nhà
tôi là một ngôi chùa Phật.
Nghe ông tôi kể, ngôi chùa cổ này đã có từ thời cố
tôi còn nhỏ. Nhiều thiết chế tôn giáo quần cư trong một xóm nhỏ, kể cũng lạ. Có
lẽ người dân xứ tôi từ xưa đã mở lòng tiếp nhận đủ thứ đạo, miễn là cái đạo đó
khuyên con người làm điều tốt, việc thiện.
Âm thanh quen thuộc đi vào ký ức tuổi thơ tôi là tiếng
trống chùa tùng tùng vang lên điểm lúc sang canh giữa đêm khuya, thỉnh thoảng
hòa với tiếng chuông nhà thờ ngân nga.
Thời trước, dân xứ tôi không nhà nào có cái đồng hồ
xem giờ. Tiếng trống chùa chính là đồng hồ báo thức của cả xóm để thức dậy nấu
cơm khuya đi ruộng. Bọn trẻ chúng tôi, thì lấy đó làm giờ báo thức để dậy học
bài. Má tôi bảo, học trò phải dậy sớm học bài khi bụng còn đói, học như ăn cơm,
nuốt chữ mới mau thuộc, nhớ dai.
Kinh nghiệm học bài của người không biết chữ như má
tôi vậy mà hiệu nghiệm. Anh em tôi ai cũng học giỏi. Tiếc vì nhà nghèo, đông
anh em mà các chị tôi đều phải bỏ học nửa chừng để các em trai được học hành
đàng hoàng, ra trường huyện, lên trường tỉnh, rồi đi Sài Gòn, để sau này có những
năm tháng du học xứ người.
Song, tôi vẫn không quên những buổi học bài sớm nhờ
tiếng trống chùa điểm canh khuya.
Đường về quê tôi giờ đã khác xưa. Xóm nghèo nay là
xã nông thôn mới. Mái chùa cổ kính và cái nhà thờ ngày trước, nay được nhiều phật
tử và họ đạo trùng tu khang trang hơn nhiều. Ngã ba sông xưa giờ vẫn con nước lớn,
ròng mỗi bữa. Nhưng trẻ con ngày nay, thì nhiều đứa có máy di động đời mới, có
định giờ nhắc lịch hẹn, chẳng còn đứa nào phải nhờ tiếng trống chùa điểm canh,
nên chắc cũng không còn trẻ con dậy sớm học bài.
Ông từ giữ chùa, đánh trống làm công quả ngày xưa
cũng đã mất, không biết giờ còn ai đánh trống điểm canh như trước hay không?
Dù vật đổi sao dời, nhưng cái âm thanh nhà quê từ
mái chùa xưa vẫn theo tôi suốt quãng đường dài.
19/04/2021
Chồng cũ
Bình Nguyễn
Chia tay
rồi, mỗi người đi một ngã
Mình trở
thành... Người lạ đã từng yêu
Em và
con làm bầu bạn sớm chiều
Anh rẽ
bước, cưới thêm người vợ mới
Chuyện
riêng anh, em không hề nhắc tới
Cũng
không hề nghĩ ngợi, đắn đo chi
Ly hôn
xong, em còn có là gì
Quyền
làm vợ đã mất đi từ đó!
Nhưng
sâu thẳm trong lòng, em hiểu rõ
Tim sẵn
dành một góc nhỏ riêng anh
Dù tình
kia như làn khói mong manh
Nhưng
hiện hữu trong lòng em mãi mãi!
Chia tay
rồi, vài lần anh ghé lại
Ôm chầm
con, anh hôn mãi không thôi
Em
thoáng buồn vì ý nghĩ xa xôi
Nếu ngày
đó chữ... "tôi" đừng hiện hữu
Giá như
mình biết mở lòng lượng thứ
Giá như
mình biết gìn giữ tình yêu
Thì con
mình sẽ vui biết bao nhiêu
Vì trọn
vẹn tình thương cha lẫn mẹ
Em bây
giờ đã qua thời son trẻ
Đã bước
chân bên sườn dốc cuộc đời
Nhan sắc
giờ đâu bướm lả ong lơi
Đã qua
rồi cái thời khoe xuân sắc!
Chia tay
anh, cha mẹ em mãi nhắc
Tuổi còn
son thôi... bước nữa đi con
Mãi một
mình rồi buồn tủi, héo hon
Em cười
trừ: "Mẹ, cha ơi chớ vội!"
Nhìn con
mình sao mà em thấy tội
Lấy
chồng rồi, con mình sẽ ra sao?!
Với
người ta, có huyết thống đâu nào
Biết
người ta có mở lòng đón nhận?!
Là vợ
chồng tránh được đâu buồn, giận
Sợ người
ta trút giận hết vào con
Thương
con mà em đánh mất tuổi son
Giờ nhìn
lại, cuộc đời bên sườn dốc!
Có nhiều
đêm âm thầm em bật khóc
Nhìn con
mà thấy dáng vóc của anh
Người
dẫu xa, dù duyên đã không thành
Sợi
thương nhớ vẫn mong manh hiện hữu...
* * *
Ghé thăm
con bao nhiêu là cũng đủ
Anh về
đi, kẻo vợ lại ngóng trông
Em hiểu
mà cái cảm giác chờ chồng
Luôn bất
an trong lòng đầy lo sợ!
Hãy yêu
thương, quan tâm nhiều đến vợ
Đừng làm
cho cô ấy phải tổn thương
Em vì
con mà đi tiếp quãng đường
Về đi
anh!... Chồng của em... hồi đó...
07/04/2021
01/04/2021
28/03/2021
23/03/2021
Ngẫm sự thấy sự
Ngẫm sự thấy sự:
Làm Tiểu nhân phải Gian, làm Quân tử càng phải Gian hơn thì mới có thể đứng vững gót chân.
Đây là đạo Quản trị.
Vì thế có Âm mưu cũng cần phải có Dương mưu mới thành đại sự.
22/03/2021
Quan - Thương nhất thể
Quan - Thương nhất thể
- Thương gia không có người đỡ đầu đâu có phát.
- Quan lại không có tiền đâu có lên.
Mỹ nhân - Địa vị - Thanh danh đâu có rẻ nên Tiền tài - Lợi ích làm môi giới rồi.
20/03/2021
Lòng người
“Giang đầu vị thị phong ba ác,
biệt hữu nhân gian hành lộ nan”
SÁU CỬA VÀO ĐỘNG THIẾU THẤT
Bồ-đề Đạt-Ma - Trúc Thiên dịch
1969
CHƯƠNG THỨ NĂM: NGỘ TÍNH LUẬN
Phàm là đạo, phải lấy sự tịch
diệt làm thể, còn tu lấy sự lìa tướng làm tông.
Nên kinh nói: Tịch
diệt là Bồ đề.
Diệt hết hình tướng đó:
Là Phật, nghĩa là giác.
Người có giác tâm, được đạo Bồ
đề, nên gọi là Phật.
Kinh nói: lìa tất cả mọi hình
tướng tức gọi là chư Phật.
Nên biết tướng là có tướng mà không
tướng, không thể thấy bằng mắt, chỉ biết được bằng trí.
Ai nghe pháp ấy chợt
phát lòng tin, là người ấy đang nương pháp đại thừa siêu
lên ba cõi.
*
Ba cõi ấy là tham, sân, si vậy.
Chuyển ngược tham, sân, si làm giới, định,
huệ tức gọi siêu lên ba cõi.
Tuy nhiên, tham, sân, si chẳng có thực
tính, chỉ bằng vào chúng sinh mà đặt tên. Nếu có thể soi
ngược trở lại thì sẽ thấy rõ:
Tính của tham, sân, si tức là tính
Phật.
Ngoài tham, sân, si tuyệt
nhiên không có tính Phật nào khác.
Kinh nói: Từ vô thủy đến nay, chư
Phật luôn luôn cư xử ở nơi ba độc, nuôi lớn trong bạch
pháp, mà thành tựu ở quả Thế tôn.
Ba độc ấy là
tham, sân,si vậy.
Nói đại thừa tối thượng
thừa là nói chổ sở hành của hàng Bồ Tát.
Không gì là chẳng thừa, mà cũng không gì
gọi được là thừa, suốt ngày thừa mà chưa hề thừa, đó là Phật thừa.
Kinh nói: Lấy vô thừa làm
Phật thừa vậy.
*
Nếu người biết sáu căn vốn không
thực, năm uẩn chỉ giả danh, không thể dựa vào đâu cầu
cạnh gì được, người ấy quả thông suốt lời Phật.
Kinh nói: Hang ổ của năm uẩn là
tên gọi của thiền viện.
Chiếu sáng bên trong mà mở thông suốt,
tức là cửa đại thừa.
Chẳng nhớ tưởng một pháp nào mới gọi
là thiền định.
Ví hiểu rõ lời ấy thì đứng, đi,
nằm, ngồi thảy đều thiền định cả.
*
Biết tâm vốn không, đó gọi là thấy
Phật.
Tại sao vậy?
Vì mười phương chư Phật đều nhân
vì vô tâm chẳng thấy ở tâm, đó là thấy Phật.
Xả tâm không nuối tiếc gọi là
đại bố thí.
Lìa hết động và định gọi là đại tọa
thiền.
Tại sao vậy?
Kẻ phàm mỗi mỗi đều hướng về động.
Hàng tiểu thừa mỗi mỗi đều hướng
về định.
Vượt lên cái lầm hiếu
động của phàm phu và hiếu định ngồi
thiền của tiểu thừa mới gọi là đại tọa thiền.
Nếu có được sức lãnh hội ấy thì
chẳng cần lìa mà tướng tướng tự cởi bỏ, chẳng cần trị mà bịnh bịnh tự trừ, ấy
đều là định lực của phép đại thiền.
*
Phàm đem tâm cầu pháp, ấy là mê.
Chẳng đem tâm cầu pháp, ấy là
ngộ.
Chẳng mắc vào chữ nghĩa gọi
là giải thoát.
Chẳng nhiễm sáu trần gọi
là hộ pháp.
Xuất lìa sinh tử gọi là xuất
gia.
Chẳng chịu hậu hữu gọi là được
đạo.
Chẳng nổi vọng tưởng gọi
là Niết bàn.
Chẳng đối xử với vô minh gọi
là trí huệ lớn.
Chỗ không phiền não gọi
là Bát Niết bàn.
Chỗ không tướng gọi là bờ
bên kia.
*
Khi mê thì có bờ bên này.
Khi ngộ thì không bờ bên này.
Tại sao vậy?
- Vì kẻ phàm phu mỗi mỗi
đều xu hướng trụ ở bên này.
- Vì giác được phép tối thượng
thừa thì tâm chẳng trụ bên này cũng chẳng trụ bên kia, nên lìa được cả hai
bờ bên này và bên kia.
Nếu thấy bờ bên kia khác với bờ
này, người ấy tâm chưa có thiền định.
*
Phiền não gọi là chúng sinh.
Tỏ ngộ gọi là Bồ đề.
Đó chẳng phải giống nhau mà cũng chẳng phải
khác nhau, chỉ vì mê ngộ mà cách biệt nhau.
*
Khi mê thì thấy có thế gian cần
thoát ra.
Khi ngộ thì không có thế gian nào
để thoát ra cả.
*
Trong pháp bình đẳng chẳng thấy
phàm khác với thánh.
Kinh nói: Pháp bình
đẳng ấy phàm phu không thể vào, bậc thánh cũng không thể hành
được.
Pháp bình đẳng ấy chỉ có hàng Bồ
tát lớn và chư Phật Như lai mới hành được.
Nếu thấy sống khác với chết, động khác với
tịnh, đó gọi là chẳng bình đẳng.
Chẳng thấy phiền não khác
với Niết bàn, ấy gọi là bình đẳng.
Tại sao vậy?
Vì phiền não với Niết
bàn đều chung đồng một tính không vậy.
*
Do đó, hàng tiểu thừa vọng
dứt phiền não, vọng vào Niết bàn, nên trệ ở Niết bàn.
Hàng Bồ tát, trái lại biết
rõ tính không của phiền não, tức chẳng lìa bỏ cái
không, nên lúc nào cũng ở tại Niết bàn.
*
Phàm nói Niết bàn: Niết là không sinh,
bàn là không tử.
Lìa ngoài sinh tử gọi là Bát
Niết bàn.
Tâm không lại qua tức vào Niết
bàn.
Nên biết Niết bàn tức là tâm
không.
Chư Phật vào Niết bàn, tức vào cõi
không vọng tưởng.
Bồ tát vào đạo tràng, tức vào cõi
không phiền não.
*
Cõi vắng không ấy tức cõi không tham, sân,
si.
Tham là cõi dục.
Sân là cõi sắc.
Si là cõi vô sắc.
Nếu bỗng chốc thoắt sinh tâm, tức đi
vào ba cõi.
Bỗng chốc thoắt diệt tâm, tức ra
ngoài ba cõi. Mới hay ba cõi sinh diệt, muôn pháp có không đều
do một tâm.
*
Hễ nói một tâm tựa hồ như phá vào thế
giới vật chất vô tình của ngói cây gỗ đá.
Nếu biết tâm chỉ là một tiếng
gọi suông, không thực thể, tức biết tâm tự tịch ấy chẳng phải có mà
cũng chẳng phải không.
Tại sao vậy?
Vì phàm phu mỗi mỗi đều
có xu hướng sinh tâm nên gọi là "có".
Hàng tiểu thừa, mỗi mỗi đều có xu
hướng diệt tâm nên gọi là "không".
Hàng Bồ tát và Phật chưa từng sinh
tâm, chưa từng diệt tâm nên gọi là "chẳng phải có tâm, chẳng phải không
tâm".
Tâm chẳng có chẳng không gọi là trung
đạo.
Bởi vậy đem tâm học pháp
thì tâm pháp thảy đều mê.
Chẳng đem tâm học pháp
ắt tâm pháp thảy đều ngộ.
*
Phàm mê là mê ở ngộ.
Còn ngộ là ngộ ở mê.
Bậc chánh kiến hiểu tâm vốn
"không vô" tức vượt lên mê ngộ.
Không có mê ngộ mới gọi
là chính giác chính kiến.
*
Sắc không thể tự là sắc, do tâm nên có
sắc.
Tâm không thể tự là tâm, do sắc nên có
tâm.
Cho nên hai tướng tâm và sắc đều có sinh
diệt.
*
Nói "có" là do ở
"không".
Nói "không" là không do ở
"có".
Đó mới là thấy chân thực.
Phàm thấy thực thì không gì chẳng thấy mà
cũng không gì không chẳng thấy, thấy khắp mười phương vẫn là chưa
từng có thấy.
Tại sao vậy?
Vì không có gì để thấy, vì thấy cái không
thấy, vì thấy cái chẳng phải là thấy.
Cái thấy của kẻ phàm đều là vọng
tưởng.
Nếu tịch diệt không có thấy mới
là thấy thực.
*
Tâm và cảnh đối nhau, thấy phát sinh từ
thế đối đãi ấy.
Nếu trong chẳng khởi tâm thì
ngoài chẳng sinh cảnh.
Cho nên tâm và cảnh có lắng hết cả hai thì
mới gọi là chân kiến.
Và cái hiểu trong lúc ấy mới gọi
là chánh kiến.
*
Chẳng thấy một pháp mới gọi là được
đạo.
Chẳng hiểu một pháp mới gọi là hiểu
pháp.
Tại sao vậy?
Vì thấy cùng chẳng thấy, đều chẳng thấy.
Hiểu cùng chẳng hiểu, đều chẳng hiểu.
Thấy cái chẳng thấy, mới là thấy
thực.
Hiểu cái chẳng hiểu, mói là hiểu
thực.
... Phàm có cái hiểu đều là chẳng
hiểu.
Không có cái hiểu mới là thực hiểu.
Hiểu cùng chẳng hiểu đều chẳng phải
hiểu.
Kinh nói: chẳng xả trí huệ gọi
là ngu si.
Lấy tâm làm không thì hiểu cùng chẳng hiểu
đều là chân cả.
Chấp tâm là có thì hiểu cùng chẳng hiểu
đều là vọng cả.
*
Khi hiểu rồi thì pháp đuổi theo
người.
Khi chưa hiểu thì người đuổi
theopháp.
Nếu pháp đuổi theo người, pháp
hóa thành chẳng phải là pháp.
Nếu người đuổi theo pháp, thì pháp pháp đều
là vọng.
Nếu pháp đuổi theo người thì pháp pháp đều
là chân.
Cho nên bậc thánh:
- Cũng chẳng đem tâm cầu pháp.
- Cũng chẳng đem pháp cầu tâm.
- Cũng chẳng đem tâm cầu tâm.
- Cũng chẳng đem pháp cầu pháp.
Vì thế tâm chẳng sinh pháp, pháp chẳng
sinh tâm, tâm và pháp tịch cả hai nên lúc nào cũng ở trong
định.
*
Tâm của chúng sinh sinh ắt
pháp Phật diệt.
Tâm của chúng sinh diệt ắt pháp
Phật sinh.
Tâm sinh ắt chân pháp diệt.
Tâm diệt ắt chơn pháp sinh.
*
... Khi mê thì (thấy) có tội.
Khi hiểu thì (thấy) không có tội.
Tại sao vậy?
Vì tội tính vốn không.
Khi mê thì không tội thấy có tội.
Nếu hiểu rồi thì đối tội thấy không
tội.
Tại sao vậy?
Kinh nói: Muôn pháp đều không tự tính,
cứ dùng nó đừng ngờ, ngờ tức thành tội.
Tại sao vậy?
Vì tội do nghi ngờ sinh ra.
Nếu thấu suốt được lẽ ấy thì bao
nhiêu tội nghiệp đời trước đều tiêu tan hết.
*
Khi mê thì sáu thức, năm ấm đều
là pháp phiền não sinh tử.
Khi ngộ thì sáu thức, năm ấm đều
là pháp Niết bàn không sinh tử.
Người dốc lòng tu chớ cầu đạo ở
bên ngoài.
Tại sao vậy?
Vì tâm tức là đạo vậy.
*
Khi được tâm rồi, mới hay không
tâm nào có thể được.
Khi được đạo rồi, mới hay không đạo nào có
thể được.
Nếu nói đem tâm ra cầu được đạo, đó gọi
là tà kiến.
*
Khi mê thì Phật có pháp.
Ngộ rồi thì không Phật không
pháp.
Tại sao vậy?
Vì ngộ tức là Phật pháp.
*
... Khi mắt thấy sắc chẳng nhiễm nơi
sắc.
Khi tai nghe tiếng chẳng nhiễm nơi tiếng
đều là giải thoát.
Mắt không dính sắc thì mắt là cửa
thiền.
Tai không dính tiếng thì tai là cửa
thiền.
Nói gom lại hết, thấy được tính của sắc thì
lúc nào cũng là giải thoát.
Thấy tướng của sắc thì lúc nào cũng
là trói buộc.
Không vì phiền não mà trói
buộc, tức gọi giải thoát, ngoài ra không có sự giải
thoát nào khác.
Khéo quán xét sắc thì rõ ràng sắc
chẳng sinh nơi tâm, tâm chẳng sinh nơi sắc, tức sắc và tâm cả hai
đều thanh tịnh.
*
Khi không vọng tưởng thì một tâm
là một cõi Phật.
Khi có vọng tưởng thì một tâm là
một địa ngục.
Chúng sinh xây dựng vọng tưởng,
đem tâm sinh tâm, nên lúc nào cũng ở trong địa ngục
Nếu không đem tâm sinh tâm
thì tâm tâm quay về không, niệm niệm trở về tịnh,
vào đủ nước Phật, đến đủ nước Phật.
Nếu đem tâm sinh tâm thì tâm
tâm chẳng tịnh, niệm niệm hướng động, vào đủ địa ngục, qua
đủ địa ngục.
Nếu một thoáng tâm dấy lên, ắt
có thiện ác hai nghiệp, có thiên đường địa ngục.
Nếu một thoáng tâm không dấy lên,
ắt không thiện ác hai nghiệp, cũng không thiên đường địa
ngục.
*
... Thánh nhân vốn không
tâm, nên trong thì trống rỗng bao la, cùng với hư không chẳng
khác.
Khi tâm được Niết bàn tức thấy
chẳng có Niết bàn.
Tại sao vậy?
Vì tâm là Niết bàn.
Nếu ngoài tâm thấy có Niết bàn, đó là
mắc phải tà kiến.
*
Tất cả phiền não là hột
giống Như lai, vì nhân có phiền não mới có được trí
huệ.
Ta chỉ nên nói phiền não "sinh" Như
lai, không thể nói phiền não "là" Như lai.
Cho nên cần lấy thân tâm làm
ruộng rẫy, phiền não làm hột giống, trí huệ làm mầm mộng,
còn Như lai ví như lúa thóc.
*
Phật ở trong tâm như (trầm) hương ở trong
cây.
Phiền não nếu hết thì Phật theo tâm
ra.
Vỏ mục nếu hết thì hương theo cây ra.
Mới biết ngoài cây không có hương,
ngoài tâm không có Phật.
Nếy ngoài cây có hương, tức là hương ngoài
của cây khác.
Nếu ngoài tâm có Phật, tức là Phật ngoài
của ai khác.
Trong tâm có ba độc, đó gọi
là quốc độ dơ xấu.
Trong tâm không có ba độc,
đó gọi là quốc độ thanh tịnh.
Kinh nói: Nếu khiến cho quốc
độ đục vẩn dơ xấu cứ dẫy đầy lên, rồi chư Phật Thế Tôn sẽ từ
trong đó xuất hiện, điều ấy không đâu có được.
Cái vẩn đục dơ xấu tức là ba
độc vô minh.
Chư Phật Thế Tôn tức là tâm
thanh tịnh giác ngộ.
*
Tất cả sự nói năng, không gì chẳng là pháp
Phật.
Nếu tự mình không có lời nói thì
nói suốt ngày vẫn là đạo.
Nếu tự mình có lời nói thì im
suốt ngày vẫn chẳng là đạo.
Cho nên Như lai lời
nói không nương theo im lặng, im lặng không nương
theo lời nói, lời nói không lìa im lặng, nói và im đều ở
trong tam muội cả.
Nếu biết mà nói thì lời nói cũng
là giải thoát.
Nếu không biết mà im lặng thì im lặng cũng trói
buộc.
Cho nên nói mà lìa
tướng thì lời nói gọi là giải thoát.
Còn im lặng mà dính tướng
thì im lặng là trói buộc.
*
Lìa tâm không Phật.
Lìa Phật không tâm.
Cũng như lìa nước không băng.
Cũng như lìa băng không nước.
Nói "lìa tâm
không Phật" chẳng phải xa lìa tâm, mà khiến đừng chấp
vào hình tướng của tâm.
Kinh nói: "Không thấy tướng gọi là
thấy Phật", tức là lìa hình tướng của tâm.
"Lìa Phật không tâm" là nói
Phật từ tâm ra.Tâm có thể sinh Phật, nên Phật theo tâm sinh,
nhưng Phật chưa hề sinh ra tâm bao giờ.
*
Cũng như cá sinh ở nước, nhưng nước không
thể sinh ở cá.
Cho nên muốn xem cá, cá chưa thấy mà trước
hết đã thấy nước.
Cũng vậy, muốn xem Phật, Phật chưa thấy mà
trước hết đã thấy tâm.
Mới biết cá thấy rồi cần quên nước.
Phật thấy rồi cần quên tâm.
Nếu không quên được tâm thì sẽ vì tâm
mà lầm nữa.
Nếu không quên được nước thì sẽ vì
nước mà mê nữa.
*
Chúng sinh với Bồ đề cũng
như nước với băng.
Vì ba độc nung đốt nên gọi
là chúng sinh.
Vì ba giải thoát gội sạch nên gọi
là Bồ đề.
Vì đóng lạnh trong tiết đông nên gọi là
băng.
Vì tan chảy trong lửa hè nên gọi là
nước.
Nếu bỏ băng, thì không có nước nào
khác.
Nếu bỏ chúng sinh, thì không
có Bồ đề nào khác.
Đủ rõ tính của băng tức là tính của
nước.
Tính của nước tức là tính của băng.
Cũng vậy, tính của chúng sinh tức
là tính của Bồ đề.
Chúng sinh với Bồ đề đều
chung nhau một tính.
Cũng như hai vị thuốc ô đầu và phụ tử đều
chung một gốc, chỉ vì thời tiết mà khác nhau. Cũng vậy, mê
ngộ hai cảnh khác nhau nên có hai tên gọi chúng sinh và Bồ
đề.
Rắn hóa thành rồng vẫn không đổi
vảy.
Phàm biến thành thánh vẫn không
thay mặt.
Mới hay tâm ấy, trong trí
huệ chiếu; thân ấy, ngoài giới luật vững.
*
Chúng sinh độ Phật.
Phật độ chúng sinh.
Vậy gọi là bình đẳng.
Chúng sinh độ Phật: phiền
não nẩy sinh tỏ ngộ.
Phật độ chúng sinh: tỏ ngộ
phá trừ phiền não.
*
... Khi mê thì Phật độ chúng sinh.
Khi ngộ thì chúng sinh độ
Phật.
Tại sao vậy?
Vì Phật không thể tự thành, đều
do chúng sinh độ nên vậy.
*
Chư Phật lấy vô minh làm cha,
lấy tham ái làm mẹ.
Vô mình và tham ái đều là tên gọi
khác của chúng sinh.
Chúng sinh với vô minh cũng
như tay trái với tay mặt, rốt cùng chẳng khác nhau.
*
Khi mê thì ở bờ bên này.
Khi ngộ thì ở bờ bên kia.
Vì biết tâm vốn là không thì chẳng thấy
tướng, ắt lìa cả mê và ngộ.
Mê ngộ đã lìa, ắt không bờ bên
kia.
Như lai không ở bờ bên này, cũng không
ở bờ bên kia, không ở giữa dòng.
Ở giữa dòng: tiểu thừa.
Ở bờ bên này: phàm phu.
Ở bờ bên kia: Bồ tát.
*
Phật có ba thân: hóa
thân, báo thân và pháp thân.
Nếu chúng sinh luôn luôn làm theo
các căn lành:
tức hóa thân hiện.
Tu trí huệ: tức báo
thân hiện.
Giác vô vi: tức pháp
thân hiện.
Bay lướt mười phương, tùy
nghi cứu độ: Phật hoá thân.
Dứt mê hoặc, tu
thiện pháp, thành đạo trên núi Tuyết: Phật báo thân.
Không lời không nói, vắng
lặng thường trụ: Phật pháp thân.
Luận cho cùng lẽ thì một Phật còn chẳng có
huống là ba.
Nói ba thân là dựa theo căn trí
của con người có thượng, trung, hạ.
Người hạ trí bôn chôn vọng cầu phước, vọng
thấy hóa thân Phật.
Người trung trí vọng dứt phiền
não,vọng thấy báo thân Phật.
Người thượng trí vọng chứng Bồ
đề, vọng thấy pháp thân Phật.
Người thượng trí vắng lặng tròn
đầy soi chiếu bên trong, sáng tâm tức Phật, chẳng đợi tâm mà được Phật.
Thế mới biết ba thân cùng muôn
pháp đều không giữ được, không nói được, đó tức là tâm tự nhiên giải
thoát, thành tựu đạo lớn.
Kinh nói: "Phật chẳng nói pháp, chẳng
độ chúng sinh, chẳng chứng Bồ đề" là như vậy.
*
Chúng sinh tạo nghiệp.
Nghiệp tạo chúng sinh.
Đời nay tạo nghiệp.
Đời sau chịu quả báo, thuở
nào thoát khỏi.
Bậc chí nhân ở trong thân này, không tạo
các nghiệp, nên chẳng chịu báo.
Kinh nói: "Các nghiệp chẳng
tạo, tự nhiên được đạo" hà lời nói suông ru!
Người tạo ra nghiệp.
Nghiệp không thể tạo ra người.
Người nếu tạo nghiệp thì nghiệp với người
cùng sinh.
Người nếu không tạo nghiệp thì
nghiệp với người cùng diệt.
Mới biết nghiệp do người tạo, người do
nghiệp sinh.
Nếu người không tạo nghiệp, tức nghiệp
chẳng do người sinh.
Cũng như người có thể nâng đạo, đạo không
thể nâng người.
Kẻ phàm phu ngày nay luôn luôn
tạo nghiệp, lại nói bừa là không có quả báo, há chẳng khó nghe sao?
Luận cho cùng lẽ: tâm trước tạo, tâm sau
báo, đời nào thoát được?
Nếu tâm trước không tạo, tức
tâm sau không báo, vậy còn vọng thấy nghiệp báo được sao?
Kinh nói: Tuy tin cả Phật, lại nói
Phật khổ hạnh, đó là tà kiến.
Tuy tin cả Phật, lại nói Phật bị quả
báo đói ăn lúa ngựa, gươm vàng đâm chân, đó gọi là lòng tin chưa
trọn đủ, là nhất xiển đề.
*
Người hiểu pháp thánh gọi là thánh nhân.
Người hiểu pháp phàm gọi là phàm
phu.
Chỉ cần xả pháp phàm thành pháp thánh,
tức phàm phu thành thánh nhân.
Kẻ ngu trong đời chỉ mong cầu
thánh viễn vong, chẳng tin rằng chính tâm huệ giải là thánh nhân.
Kinh nói: Đối với người vô
trí đừng nói kinh này.
Kinh này là tâm, là pháp vậy.
Người vô trí không tin chính
tâm sáng tỏ được pháp này làm thành bậc thánh. Họ chỉ mảng cầu
xa, học ngoài, mến chuộng hình tượng Phật ngoài trời, cùng ánh
sáng hương sắc đủ thứ, toàn là việc làm đọa tà kiến, mất tâm,
cùn trí.
Kinh nói: Nếu thấy các tướng chẳng phải
tướng, tức thấy Như lai.
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy do
một tâm mà mống dậy.
Nếu trong lắng hết tâm tướng, giống
như hư không, tức tự trong thân tâm xa lìa hết tám vạn bốn
ngàn căn bịnh phiền não. Phàm phu đang sống sợ chết, vừa no
lo đói, thật quá đổi mê hoặc. Cho nên bậc chí nhân chẳng tính việc đã qua,
chẳng lo việc chưa đến, không xáo động việc bây giờ, niệm niệm trở
về đạo.Kệ đêm ngồi tịnh rằng:
Đoan trang CANH MỘT tịnh ngồi tu,
Tịch chiếu tinh thần tợ thái hư.
Muôn kiếp vốn không sinh với diệt,
Học đòi sinh diệt diệt gì ư?
Gẫm xem các pháp trò ma ảo,
Tính vốn là không uổng sức trừ!
Ví biết tâm mình không tướng mạo,
Lặng im chẳng động tự như như.
CANH HAI ngưng thần chuyển minh tịnh,
Chẳng tưởng chẳng nhớ nhân như tính.
Um tùm muôn tượng trở về không,
Chấp có chấp không lại vẫn bệnh.
Các pháp như nhiên chẳng có không,
Phàm phu tưởng quấy bàn tà chánh.
Ví biết gìn lòng lẽ "chẳng hai".
Ai nói tức phàm chẳng phải thánh.
CANH BA tâm tịnh sáng hư không,
Rộng khắp mười phương đâu chẳng thông.
Tường vách núi sông không ngăn ngại,
Bao la vũ trụ tự nơi trong.
Tính của càn không là Phật tính,
Cũng không bổn tính tức hàm dung.
Nào phải riêng đâu chư Phật được,
Hữu tình muôn loại vẫn chung đồng.
CANH TƯ không diệt cũng không sinh,
Rộng ví hư không pháp giới bình.
Không qua không lại không còn mất,
Chẳng có chẳng không chẳng ám minh.
Không vọng thấy gì: Như lai thấy,
Không gọi danh gì: chân Phật danh.
Ai có ngộ qua rồi mới hiểu,
Chúng sinh chưa rõ bởi thong manh.
CANH NĂM bát nhã chiếu vô
biên,
Chẳng khởi một niệm suốt tam thiên.
Muốn thấy chơn như bình đẳng tính,
Khéo chớ sinh tâm trước mắt tiền.
Lẽ ấy diệu huyền không lượng được,
Dụng công đuổi bắt thêm nhọc sức.
Nếu không một niệm tức chân cầu,
Còn có tâm cầu chưa tỉnh thức.