13/06/2025

Phật Dược Sư

 


Phật Dược Sư (tiếng Phạn: bhaiṣajyaguru; chữ Hán: 藥師佛; nghĩa là "vị Phật thầy thuốc") là vị Phật đại diện cho sự trọn vẹn của Phật quả ngự cõi phía Đông (là cõi Tịnh Lưu ly).

Phật Dược Sư thường được thờ chung với Phật Thích Ca Mâu Ni A Di Đà, trong đó phật Dược Sư đứng bên trái còn Phật A Di Đà đứng bên phải Phật Thích Ca.  

Các tên gọi khác của Phật Dược Sư là Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật, Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Như Lai, Dược Sư Như Lai , Dược Sư Lưu Ly Như Lai , Đại Y Vương Phật, Vương Thiện Đạo; do bổn nguyện của ngài là "cứu tất cả các bệnh khổ cho các chúng sinh" cho nên còn có tên Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Phật.

Thông Thường có 7 Đức Phật Dược Sư, hoặc 8 Đức Dược Sư (nếu cộng thêm Đức Thích Ca Mâu Ni). Hạnh nguyện của các Ngài rất tương đồng như giúp chúng sinh được cứu khổ ban vui, sinh vào thiện đạo,thân hình đầy đủ các căn, được giàu có, xinh đẹp, thọ mạng dài lâu, tiêu trừ các tội lỗi về phạm giới khuyết giới, tiêu trừ các tội trộm cắp nghèo khó, giúp trừ các bệnh khổ thân, tâm ma quỷ ám hại, được vãng sinh Tịnh Độ.... 

Khi còn đang hành đạo Bồ tát, Ngài đã phát ra 12 nguyện lớn có công năng cứu giúp hết thảy chúng sinh khiến họ được đầy đủ các thiện căn và thành tựu sở nguyện.

1 - Phát hào quang chiếu sáng mọi chúng sinh.

2 - Cho chúng sinh biết đến Nhất thiết trí của mình. 

3 - Cho chúng sinh thực hiện được sở nguyện.

4 - Hướng dẫn chúng sinh đi trên đường Đại thừa. 

5 - Giúp chúng sinh giữ giới hạnh. 

6 - Giúp chữa lành các thứ bệnh do sáu giác quan sinh ra.

7 - Chữa bệnh thuộc về thân tâm cho mọi chúng sinh.

8 - Cho phụ nữ tái sinh trở thành nam giới.

9 - Tránh cho chúng sinh khỏi rơi vào tà kiến và giúp trở về chính đạo. 

10- Giúp cho chúng sinh được sinh vào cõi lành.

11- Đem thức ăn cho người đói khát. 

12- Đem áo quần cho người rét mướt.

Thần chú Dược Sư là một trong những câu thần chú được trì tụng nhiều nhất bởi công năng bất khả tư nghì mà nó đem lại cho hành giả khi trì tụng. Không chỉ có năng lực chữa lành bệnh tự thân hành giả mà còn có công năng chữa bệnh cho người khác. Quan trọng hơn là khả năng tịnh hóa những nghiệp bất thiện trong quá khứ.

Chú Dược Sư tiếng Phạn:

OM Namo bhagawate Bhaishjaya guru vaidurya Prabha rajaya tathagataya arhate samyaksam buddhaya teyatha om bekhajye bekhajye maha bekhajye bekhajye rajaya samudgate svaha.

Chú Dược sư tiếng Hán:

Nam mô Bạc già phạt đế, bệ sái xã lũ rô, bệ lưu ly bát lạt bà, hát ra xà giã, đát đà yết đa gia, a ra hát đế, tam diểu tam bột, đà gia, đát điệt tha.

Án, bệ sái thệ, bệ sái thệ, bệ sái xã, tam một yết đế sa ha.

Trong đó, câu cuối của Đà-la-ni: oṃ bhaiṣajye bhaiṣajye bhaiṣajya-samudgate svāhā (Án, bệ sái thệ, bệ sái thệ, bệ sái xã, tam một yết đế sa ha) được xem như là chân ngôn của Phật Dược Sư. Ngoài ra còn nhiều câu chú khác được sử dụng trong các trường phái khác nhau của Kim Cương thừa.

 

 Đức Phật Dược Sư với tâm đại bi, vị tha vô lượng, bằng mọi phương tiện muốn làm lợi lạc cho chúng sinh muốn thành tựu mọi sở nguyện cho những ai biết đến và thường tôn xưng danh hiệu của Ngài. 

Việc cầu nguyện  đức Phật Dược Sư  có năng lực mãnh liệt và nhanh chóng mang đến khả năng chữa lành bệnh tật, bình an và sự bảo vệ thân, tâm cho người trì tụng.

Đây là lý do tại sao việc hành trì cầu nguyện  đức Phật Dược Sư  mỗi ngày là rất quan trọng, giúp không chỉ thành tựu trong việc tu tập phát triển tâm linh mà mọi sở nguyện đều được thành tựu. 

Việc thực hành trì tụng và thiền định về  đức Phật Dược Sư  cũng như cầu nguyện sự gia hộ của Ngài chính là cứu cánh trong thời mạt pháp đưa chúng sinh tới chỗ an lạc, giải thoát, giác ngộ.

 Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật. 

12/06/2025

Quan điểm của Trung Y về ăn uống

 Từ trang Vạn điều hay

 


Khi nhắc đến Trung y (y học Trung quốc), phần lớn người ta nghĩ ngay đến thang thuốc, kim châm hay châm cứu. Nhưng ít ai biết rằng, các bậc danh y như Hoa Đà, Tôn Tư Mạc, Lý Thời Trân, những cây đại thụ trong y học phương Đông, đều coi trọng một điều tưởng chừng bình thường nhất: Ăn - Uống.

Ăn uống không đơn thuần là nuôi thân, mà là hành trình dưỡng Đạo

Trong tư tưởng Đạo gia, con người là một phần của tiểu vũ trụ, sống hòa điệu với đại vũ trụ. Dưỡng sinh không phải chỉ để trường thọ, mà là phương pháp sống thuận với Đạo. Trong đó, ăn uống giữ vai trò trung tâm: tiếp nhận năng lượng từ thiên nhiên, từ ngũ cốc, rau củ, thực phẩm theo mùa, để nuôi dưỡng khí huyết, điều hòa âm dương.

Tôn Tư Mạc (541–682), bậc Thánh y thời Tùy Đường, từng nói: “Người muốn sống thọ, trước hết phải điều hòa ẩm thực. Ăn uống vô độ, dù có uống thuốc thần tiên cũng vô ích.

Ông khuyên người đời phòng bệnh hơn chữa bệnh. Chính ông tự tay chọn thực phẩm, hái thuốc theo mùa, ăn uống giản dị, ẩn cư nơi núi rừng, sống khỏe mạnh đến hơn trăm tuổi. Với ông, ăn là một hành vi trị bệnh, là tu dưỡng mỗi ngày.

Một lần, có người nghèo tìm ông xin thuốc. Ông không cho toa ngay, chỉ dặn: “Về, mỗi sáng uống một bát cháo gạo lứt, thêm một lát gừng. Ba tháng quay lại.” Sau đó người ấy khỏi bệnh mà không dùng đến một viên thuốc nào.

Không chỉ là ăn uống, Trung y còn coi vận động là yếu tố then chốt hỗ trợ tiêu hóa, điều hòa khí huyết.

Hoa Đà (145–208), vị danh y thời Tam Quốc, không chỉ nổi tiếng với khả năng phẫu thuật mà còn là người sáng tạo ra bài Ngũ Cầm Hí, ông mô phỏng động tác của hổ, hươu, gấu, vượn, chim. Bài tập kết hợp hít thở, vận động nhẹ nhàng giúp khí huyết lưu thông, hỗ trợ tiêu hóa, giải uế khí từ thực phẩm.

Hoa Đà nói: “Người ăn uống có tiết chế, vận động điều hòa, tâm không phiền não, thì sống đến trăm tuổi vẫn chưa già.” Khi có người hỏi về thuốc trường sinh, ông chỉ mỉm cười, chỉ vào bát cơm lứt, chén trà ấm và một bài tập sáng sớm giữa sương mai.

Đến đời Minh, Lý Thời Trân (1518–1593), danh y và là tác giả bộ “Bản Thảo Cương Mục”, tiếp tục khẳng định: “Thức ăn là gốc, thuốc là ngọn. Nếu muốn không bệnh, thì gốc phải vững.”

Trong hơn 1.800 loại dược liệu mà ông ghi chép, rất nhiều là thực phẩm quen thuộc: vỏ quýt khô, củ sen, ý dĩ, đậu đỏ… Ông không chỉ ghi công dụng mà còn hướng dẫn cách nấu, cách phối hợp món ăn theo âm dương ngũ hành.

Ví dụ, người tâm nhiệt nên dùng vị đắng như khổ qua, lá sen để thanh tâm hỏa; người tỳ hư dùng vị ngọt như khoai lang, đậu xanh để bổ trung tiêu; người phổi yếu cần vị cay nhẹ như gừng, hành để phát tán biểu tà. Mỗi món ăn là một phương thuốc mềm mại, đi vào cơ thể không gây phản ứng phụ, mà bồi bổ lâu dài.

Tôn Tư Mạc cũng dạy: “Người ở phương Bắc nên ăn thịt dê, người phương Nam nên ăn cá và rau. Người già ăn mềm, người trẻ ăn cứng. Làm ruộng ăn mặn, làm văn nên ăn thanh.” Điều này không chỉ là dinh dưỡng, mà là sống hợp khí hậu, hợp thể chất, hợp công việc. Đó là trí tuệ ứng dụng.

Cả ba vị danh y sống cách nhau hàng trăm năm, nhưng cùng chung một nhận thức: ăn uống là tu thân, là giữ Đạo.

Họ không tuyệt đối hóa thực phẩm, không cực đoan trong kiêng khem. Họ dạy người đời hiểu rõ thể chất, sống đúng tiết khí, ăn đúng lúc – đúng vị – đúng lượng. Không cần thần dược, không cần đắt đỏ. Một chén cháo, một nắm đậu, một củ gừng, nếu dùng đúng, thì còn hơn cả ngàn viên thuốc.

Trong thời hiện đại, người ta ăn để no, để ngon, để thỏa mãn. Nhưng Trung y nhắc nhở ta rằng: mỗi bữa ăn là một chọn lựa cho sức khỏe tương lai. Là một hành vi đạo đức với chính cơ thể mình.

Dưỡng sinh, xét đến cùng, không nằm trong sách vở cao siêu, mà ở cách ta nâng niu từng bữa cơm thường ngày. Biết ăn, biết sống, chính là biết giữ gìn sinh mệnh, một cách khiêm nhường mà sâu sắc.

 

11/06/2025

Sự khác nhau giữa Phật Thích Ca Mâu Ni và Phật A Di Đà

 


Không ít người thường nhầm tưởng Phật Thích CaPhật A Di Đà đều là một vị Phật, hoặc khi được hỏi đều không biết phân biệt ra sao. Trên thực tế, đây là hai vị Phật tách biệt. Một vị có thật trong lịch sử và một vị xuất hiện trong kinh Phật giáo.

Theo sách sử ghi lại, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là bậc giáo chủ cõi Ta Bà. Ngài từng sống trên trái đất này và đã sáng lập ra Phật Giáo. Cõi Ta Bà là cõi đau khổ, chính là trái đất, nơi con người đang sinh sống.

Ở cõi giới này, Đức Phật Thích Ca giáo hóa chúng sinh, nên người đời tôn xưng Đức Phật Thích Ca là bậc giáo chủ cõi Ta Bà. Ngài là vị Phật lịch sử chứ không phải là một vị Phật huyền thoại.

Còn Phật A Di Đà là vị Phật được tôn thờ trong Phật giáo Đại thừa. Tên của Ngài nghĩa là Vô Lượng Thọ, nghĩa là thọ mệnh vô lượng và Vô Lượng Quang, ánh sáng vô lượng.

Đức Phật A Di Đà là Giáo chủ cõi Cực lạc an vui ở Tây phương. Trong cuộc đời hoằng Đạo của Đức Phật Thích Ca, rải rác trong các Kinh điển, Ngài đã giới thiệu cho tín đồ của mình về Đức Phật A Di Đà và cõi nước Đức Phật A Di Đà đang giáo hóa chúng sinh.

Đức Phật Thích Ca sau khi chứng Thánh quả, Ngài có khả năng vận dụng trí tuệ, thần thông thấy biết sự vận hành của tất cả sự vật, hiện tượng, nhân sinh trong vũ trụ một cách chuẩn xác.

Nhờ khả năng đặc biệt này nên Ngài thấy rõ quá trình tu hành của Đức Phật A Di Đà qua nhiều kiếp. Thấy rõ môi trường sống và đời sống sinh hoạt của chúng sanh ở Tây Phương Cực Lạc do Đức Phật làm giáo chủ. Như vậy, Phật A Di Đà là vị Phật được Đức Phật Thích Ca giới thiệu cho chúng ta.

Theo lời dạy của Phật Thích Ca, con người nếu muốn sau khi chết được tái sinh về cõi Tây Phương Cực Lạc thì trong quá trình sống, làm việc luôn hướng về điều thiện, làm điều thiện, siêng năng niệm Thánh hiệu: Nam Mô A Di Đà Phật, thì khi chết chúng ta sẽ đước tái sinh về cõi Tây Phương Cực Lạc này.

Sau khi tái sinh đến cõi này, chúng ta tiếp tục cùng mọi người tu hành theo sự hướng dẫn của Phật A Di Đà cho đến khi chứng đắc Thánh quả giải thoát.

Hình dáng đặc trưng của Phật A Di Đà

 


Trên đầu Phật A Di Đà có các cụm tóc xoắn ốc, mắt nhìn xuống, miệng thoáng nụ cười cảm thông cứu độ, khoác trên người áo cà sa màu đỏ, tượng trưng cho màu mặt trời lặn phương Tây, áo có thể khoát vuông ở cổ, trước ngực có chữ “vạn”.

Tư thế tay Phật A Di Đà có thể trong tư thế đứng, tay làm ấn giáo hóa, tức là tay mặt đưa ngang vai, chỉ lên, tay trái đưa ngang bụng, chỉ xuống, hai lòng bàn tay hướng về phía trước. Trong mỗi tay, ngón trỏ và ngón cái chạm nhau làm thành vòng tròn.

Phật A Di Đà cũng có thể ngồi kiết già trên tòa sen, tay bắt ấn thiền, tay để ngang bụng, lưng bàn tay phải nằm chồng lên lòng bàn tay trái, hai ngón cái chạm nhau. Trên tay Phật có thể giữ một cái bát, là dấu hiệu cho giáo chủ.

Một dạng khác của ấn thiền ở tượng Phật A Di Đà là các ngón tay giữa, ngón đeo nhẫn và ngón út của hai bàn tay nằm lên nhau, ngón cái và ngón trỏ mỗi tay tạo thành hai vòng tròn chạm nhau. Vì thế, ấn này còn gọi là Ấn thiền A Di Đà.

Phật A Di Đà thường được minh họa cùng hai vị Bồ Tát là Quán Thế Âm bên trái, cầm cành dương và bình nước cam lộ và Đại Thế Chí bên phải, cầm bông sen xanh.

Hình dáng đặc trưng Phật Thích Ca




Tóc Phật Thích Ca có thể búi tó hoặc có các cụm xoắn ốc. Phật Thích Ca mặc áo cà sa hoặc áo choàng qua cổ màu vàng hoặc nâu, nếu có hở ngực thì trước ngực không có chữ “vạn”. Phật có thể ngồi trên tòa sen, nhục kế trên đỉnh đầu, đôi mắt mở ba phần tư.

Thường trong các chùa Phật giáo Bắc tông Đại Thừa đều thờ Ngài Phật Thích Ca ở chính giữa chính điện. Nên gọi Ngài là đấng Trung Tôn. Hình tượng Ngài không nhất thiết phải giống người Ấn Độ, vì theo quan niệm Phật giáo Bắc tông, nhất là Thiền tông cho rằng, mỗi người đều có Phật tức là Phật tính nên người nước nào tạc tượng giống người nước đó. Từ nét mặt cho đến hình tướng. Nên hình tượng thờ trong các chùa không nhất thiết phải giống nhau. Đó là xét trên đại thể, còn các chi tiết tương đối giống nhau.

Các nhân vật đi kèm Phật Thích Ca Mầu Ni có thể được minh họa cùng hai vị tôn giả là Ca Diếp, vẻ mặt già, bên trái và A Nan Đà, vẻ mặt trẻ, bên phải. Đây là hai đại đệ tử của Phật Thích Ca khi ngài còn ở thế gian.

Cũng có nơi thờ tượng Phật Thích Ca ngự trên đài sen là một ý nghĩa tượng trưng siêu thực. Bởi vì hoa sen được biểu thị cho đức tánh thanh tịnh và giải thoát. Hoa sen phát xuất trong lòng vũng bùn nhơ nhớp, mà vẫn tỏa ra mùi hương thanh khiết. Đó là đặc tính không thể tìm được trong các loài hoa khác.

Đức Phật Thích Ca cũng thế, trước kia Ngài cũng là một con người như chúng ta, cũng có gia đình, cũng hưởng giàu sang sung sướng, nhưng con người ấy không bị dục lạc làm ô nhiễm, không bị sợi dây gia đình trói buộc.

Đôi mắt đức Phật Thích Ca đăm chiêu nhìn xuống là biểu thị quán sát nội tâm. Giáo lý Phật dạy là giáo lý nội quan, luôn luôn phản chiếu nội tâm để tự giác tự ngộ. Tâm mình là chủ nhân ông của mọi hành động, mọi nghiệp quả. Ngộ được tự tâm là thấy được nguồn gốc vũ trụ và nhơn sinh.

Vì thế, Phật giáo chủ trương con người làm chủ mọi quả báo an lạc hay đau khổ của mình. Muốn tránh quả khổ đau, cầu quả an lạc, con người phải tự sửa đổi hành vi trong tâm niệm và hành động nơi tự thân mình. Một tâm niệm lành, một hành động tốt sẽ đến cho ta kết quả an vui hạnh phúc.

Chung quanh tượng Phật Thích Ca có những tia hào quang sáng chiếu để tiêu biểu ánh sáng trí tuệ của Phật lúc nào cũng soi sáng thế gian.