Trịnh Bách dịch và chú giải
Thuyết của phái Nhất-thiết-hữu-bộ (Sarvastivada) thời cổ cho rằng bài tâm kinh này là do Bồ-tát Quán-thế-âm dậy riêng cho ông Xá Lợi Tử (Sariputra). Trong khi kinh Đại-phẩm Bát nhã thì nói rằng đây là Phật Thích Ca dậy đệ tử Xá Lợi Tử của ngài.
BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA TÂM KINH
● Quán Tự Tại Bồ tát hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa thời
chiếu kiến ngũ uẩn giai không. Độ nhất thiết khổ ách.
Bồ tát Quán Tự Tại sau khi thực hành thâm sâu
pháp Bát-nhã Ba-la-mật-đa đã soi xét lại và nhận thấy rằng ngũ uẩn đều là hư
không (không có thực chất). Cứu giúp mọi khổ ách.
● Xá Lợi tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc. Sắc tức
thị không, không tức thị sắc. Thụ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị.
Con trai của Xá Lợi! Uẩn sắc (thể xác, sắc
tướng) chẳng khác hư không, hư không chẳng khác thể xác. Thể xác chính là hư
không, hư không chính là thể xác. Thụ, tưởng, hành, thức (tức là 4 uẩn danh còn
lại) cũng đều như thế cả (là hư không).
● Xá Lợi tử! Thị chư pháp không tướng:
bất sinh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm…
Con trai của Xá Lợi! Mọi biểu hiện của vật hữu
hình đều là không cả: không sinh không diệt, không ô uế không tinh khiết, không
tăng không giảm…
● Xá Lợi Tử! Thị cố không trung vô
sắc, thụ, tưởng, hành, thức. Vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. Vô sắc, thanh,
hương, vị, xúc pháp. Vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới. Vô vô-minh, diệc vô
vô-minh tận. Nãi chí vô lão, tử; diệc vô lão, tử tận. Vô khổ, tập, diệt, đạo.
Vô trí, vô đắc.
Con trai của Xá Lợi! Trong hư không không có
hình thể, cảm nhận, suy nghĩ, hành vi, tri giác. Không có mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân thể, trí óc. Không mầu sắc, âm thanh, mùi, vị, xúc giác. Không có thị
giác, mà còn không có cả sự ý thức. Không ngu muội mà cũng không hết ngu muội.
Không có sự già, chết mà thậm chí không có cả không già, không chết. Không có
khổ, không có khởi đầu, kết thúc, đường hướng. Không có trí óc, không thành tựu
(đạt niết bàn).
● Xá Lợi tử! Dĩ vô sở đắc cố,
Bồ-đề-tát-đỏa y Bát-nhã Ba-la-mật-đa cố tâm vô quái ngại. Vô quái ngại cố vô
hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng. Cứu cánh niết bàn.
Con trai của Xá Lợi! Bởi cớ không đạt đươc (niết
bàn), chư Bồ-đề-tát-đỏa nương vào pháp Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên tâm các ngài
không còn vướng các chướng ngại. Không có chướng ngại cho nên không có sự sợ
hãi, tránh xa được các mộng tưởng điên đảo. Rốt cuộc đạt được niết bàn.
● Tam thế chư Phật y Bát-nhã
Ba-la-mật-đa cố đắc a-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
Chư Phật tam thế (quá khứ, hiện tại, vị lai) nhờ
nương vào pháp Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà đạt được sự giác ngộ tối thượng.
● Cố tri: Bát-nhã Ba-la-mật-đa thị
đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng
trừ nhất thiết khổ. Chân thực bất hư. Cố thuyến Bát-nhã Ba-la-mật-đa chú.
Tức thuyết chú viết:
Vì thế nên biết rằng: Bát-nhã Ba-la-mật-đa là
đại thần chú, là chú của đại trí tuệ, là chú tối thượng, là chú mà không có chú
nào khác sánh được, có thể tiêu trừ tất cả khổ não. Đây là sự thật chứ không
phải là không tưởng. Vì thế phải nên niệm chú Bát-nhã Ba-la-mật-đa này. Niệm
chú như sau:
Gatê
Gatê, Para Gatê, Para Săng Gatê Bô-đi. Svaha!
(Yết đế yết đế, Ba
la Yết đế, Ba la tăng Yết đế Bồ đề. Tát Bà Ha!)
Đi
rồi đấy, đi rồi đấy, đi được rồi đấy. Chắc chắn đi được đến Giác ngộ rồi đấy.
Cho được như nguyện!
LUẬN
Vật chất là do các nguyên tử chịu tác động của sự rung động (vibrations), hay chuyển động (motions), ở tần số hay vận tốc cao sinh từ trường (electro-magnetism) gây kết dính mà thành. Tất cả các dạng chất rắn, chất lỏng, chất khí; hay các dạng năng lượng như âm thanh, ánh sáng, kể cả ý nghĩ; cũng đều được tạo ra bằng các sóng rung động như thế. Albert Einstein đã khẳng định rằng: “Everything in life is vibration” (mọi thứ trên đời đều là rung động).
Sự tương quan giữa các thể dạng năng lượng rất xúc tích. Thí dụ như nếu tăng tần số rung (vibration frequency) của âm thanh nốt nhạc Do ở tần số rung căn bản của nó là 142/giây lên 8 bát độ (octave), thì âm thanh của nốt nhạc này sẽ trở thành ánh sáng. Hay hiện có vô số kênh truyền hình được phát cùng một lúc trên thế giới quanh ta, nhưng chúng ta chỉ có thể “bắt” được kênh của tần số được mở lên mà thôi. Lúc đó sóng rung điện từ đã trở thành hình ảnh ánh sáng.
Một thí dụ thô thiển nữa là cái chong chóng máy bay. Lúc không hoạt động nó là vật chất hữu hình. Nhưng khi quay nhanh lúc bay thì mắt thường không thấy nó được nữa. Với dao động ở vận tốc cao vật thể đã trở thành vô hình, thành hư không đối với cảm nhận của mắt trần. Thuyết Tương đối của Einstein cũng chứng tỏ sự tương đồng giữa sắc và không qua phương trình E = mc² (năng lượng (không) là khối lượng (sắc) nhân lên với bình phương của tốc độ ánh sáng).
Nhiều thiền sư Tây Tạng, Ấn Độ và các nhà tâm linh học nổi tiếng như Djwal Kull, Mahatma Kuthumi, Giám mục C.W. Leadbeater, bà Helena Blavatsky, v.v, có nhắc đến việc khi luyện Chakra Yoga (hay Kundalini Yoga, tức thiền luân xa hay thiền hỏa hầu) thành công có thể điều chỉnh tần số rung động của vật thể hay bản thân (whole-body vibration) đến mức cơ thể vật lý có thể “tan” trở lại thành dạng nguyên tử (vô hình) một cách có kiểm soát.
Trên thang cộng hưởng SR (Schumann Resonances) thì tần số rung của cõi quả đất là 7.82-8 chu kỳ (7.82-8 hz) mỗi giây đồng hồ. Đấy cũng là tần số rung Alfa chính của não bộ chúng ta khi ở trong trạng thái đại định, an bình tuyệt đối. Tần số rung thông thường của bộ não đang hoạt động khi tỉnh thức là từ 14 đến 40 chu kỳ mỗi giây, tùy thuộc vào tình trạng thư dãn hay khích động. Chỉ khác nhau 1/10 chu kỳ rung động mỗi giây đã gây nhiều khác biệt lắm rồi.
Thường thì chúng ta chỉ cảm nhận và nhìn thấy được mọi vật (pháp tướng) có cùng tần số rung với bản thân trong cõi quả đất này. Có vô số các cõi khác hiện hữu trong “hư vô” quanh chúng ta. Tất cả đều là vật chất, nhưng vì được kết dính, hình thành bằng tần số khác nên người ta không thấy và không cảm thấy được. Cá thể ở cùng một cõi, nghĩa là có cùng tần số rung thì cảm nhận nhau được giống như cách chúng ta cảm nhận được mọi vật có cùng tần số rung trong cõi trần gian của mình. Toàn thể cõi “hư vô” quanh ta thật ra hoàn toàn đặc kín với “thể chất” của hằng hà sa số tần số rung khác nhau. Phật chẳng đã dạy rằng quanh ta có hằng hà sa số cõi hay sao? Và “sắc là không, không là sắc cũng từ đấy mà ra.”
Con người phải có xác thân ngũ uẩn để sống phù hợp với điều kiện cơ học vật lý của cõi trần thế của mình trên quả đất. Các cơ quan cảm nhận vật lý như mắt, mũi, lưỡi, thân, ý (bộ não), hệ thống thần kinh, với chức năng của chúng như suy nghĩ, nghe, nhìn, nếm và các cảm xúc; đều chỉ để nuôi dưỡng, phục vụ cái xác thân ấy. Sau khi chết, xác thân tiêu tan thì các cơ quan ấy cũng tiêu tan. Và các hoạt động của não bộ; cũng như các cảm nhận, cảm xúc đói, no, nóng, lạnh, v.v, của xác thân ngũ uẩn, do các cơ quan này tạo ra, cũng phải tiêu tan theo. Cho nên “trong hư vô không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý (não bộ). Không còn các cảm giác như nghe, ngửi, nếm, xúc giác. Không còn thị giác…”
Trong khi cái xác thân ngũ uẩn phải tiêu tan sau mỗi kiếp, cái gì còn tồn tại là phần linh hồn. Phần linh hồn có nguyên tử thanh nhẹ hơn, và như vậy có tần số rung khác với tần số rung của thể chất chúng ta, cho nên chúng ta không cảm nhận được. Linh hồn trường tồn, vĩnh cửu cho nên không già, không chết, không khởi đầu, không kết thúc như xác thân ngũ uẩn. Trong cõi tâm linh, tức cõi hư vô, không có khối óc nhục thể để suy nghĩ, và ngũ quan phàm trần để nhận cảm xúc. Thay vào đó, tất cả mọi sự, việc ở thế giới tâm linh đều do trực giác (theo lối gọi thông thường) mà có. Lúc ấy không còn suy nghĩ, suy tính gì cả. Tất cả đều do trực giác. Cần ở đâu thì ngay lập tức ở đó, gặp tình huống nào thì do trực giác mà lập tức hiểu ngay tình huống đó, cần gì có ngay ở đấy…
Và ở cõi linh hồn không có sự mong ước thành tựu gì hết, vì tất cả các duyên nợ truyền kiếp đều được tạo ra ở cõi thế gian ngũ uẩn. Muốn trả nợ hay hưởng duyên gì cũng đều phải ở cõi phàm trần ngũ uẩn đó. Cho nên ở cõi hư vô không có các sự suy tính, nhận xét, ước ao như trong thế giới ngũ uẩn của chúng ta.
Phần linh hồn của chúng ta gồm có hồn (atma) và vía (jivatma). Hồn là phần chân ngã toàn thiện, chính giác. Vía là phàm ngã động loạn. Khổng giáo nói rằng sau khi người ta chết đi, thì hồn thăng vu thiên, phách giáng vu địa, tức là hồn lên cõi trời (dương) và vía xuống cõi đất (âm). Hồn và vía đều bất tử. Nhưng hồn, tức chân ngã, là phần mà chúng ta hay gọi nôm na là ông thiện, là lương tâm, luôn có tần số rung thanh cao ổn định, thường trụ bất biến. Trong khi đó phần vía là phần biến đổi theo từng kiếp luân hồi, và chuyển tần số rung của mình cao thấp tùy căn cơ mỗi kiếp. Đáng lý ra vía đầu thai mỗi kiếp để trả nghiệp và để học thêm cho đến lúc trở về được ngôi vị toàn năng (omnipotent – sarvasaktivat) tức là làm được hết, toàn giác (omniscient – sarvavidya, hay sarvajnana) tức biết hết, và toàn thông (omnipresent – sarvavyapin) tức là hiện diện ở khắp mọi nơi, như phần hồn. Nhưng vì ở cõi vô minh nên thường lại gây thêm nghiệp và trầm luân mãi. Phật giáo gọi phần này là a-lại-da thức (alayavijnana).
Trong tác phẩm Mười bức tranh mục đồng chăn trâu (Thập mục ngưu đồ) của Thiền tông, mục đồng (hồn, chân ngã) luôn chăn dắt con trâu (tức là cái vía, cái phàm ngã động loạn), để hướng nó lên cõi an bình, tức là vùng tần số rung động của cõi niết bàn. Trong đời có nhiều khi chúng ta “nghe theo tiếng gọi của lương tâm” là những khoảnh khắc hồn cố gắng chuyển hóa vía đó. Qua các bức tranh thì con trâu từ mầu đen tuyền ở bức tranh đầu trở nên trắng dần lên. Tức là tần số rung của vía, phàm ngã, cải thiện dần. Để cuối cùng con trâu, cái vía, trở thành hoàn toàn trong trắng, thanh khiết. Lúc đó hồn và vía, âm và dương, lưỡng nghi, có cùng tần số rung tuyệt hảo và thành một với nhau, thành cái vòng tròn hư vô ở bức tranh thứ 10 cuối cùng. Đấy là siêu thoát, là thoát luân hồi, là niết bàn… Nghe thì có vẻ là chuyện vô cùng dài lâu. Nhưng thật ra con người ta khi đã lên đến mức sống văn minh, có ít nhiều lương tâm, là đã phải tiến hóa, học hỏi qua vô số kiếp luân hồi rồi. Việc siêu thoát lập tức hay việc đốn ngộ không quá hiếm như chúng ta nghĩ, hay bị làm cho lầm tưởng, xưa nay.
Làm sao để đạt được tần số rung của sự an bình, của niết bàn, đó? Bên cạnh việc sống lành mạnh, thì bài tâm kinh Bát nhã có một đoạn chúng ta nên để ý. Ngôi vị Bồ tát khác với ngôi vị Phật ở chỗ các Bồ tát nguyện chưa đạt niết bàn mà ở lại thế gian để cứu khổ nạn. Thế nhưng vì chăm chỉ niệm chú Bát nhã mà rốt cuộc các ngài cũng đương nhiên đạt niết bàn. Như vậy, điều quan trọng tâm kinh này dậy chúng ta là cứ chăm chỉ niệm chú Bát nhã đi. Rồi dù biết hay không biết, muốn hay không muốn cũng tự nhiên mà đạt niết bàn.
Ngay ở trong đời sống thường ngày chú Bát nhã cũng rất hữu ích. Ngài Đường Tăng trong hành trình vượt vô vàn gian khó đi Tây Trúc thỉnh kinh, nhất là trong giai đoạn vượt sa mạc Gobi, mỗi khi gặp nạn đều niệm bài chú này. Và nhờ đó Ngài được an toàn, vượt qua mọi khổ nạn mà hoàn tất được công trình thỉnh bộ kinh Tam Tạng vỹ đại như vậy ở thời đó.
Dù nghĩa đen của mật chú thường rất giản dị, nhưng ý nghĩa thâm sâu thật sự của các câu mật chú không thể dịch ra nghĩa trong bất cứ ngôn ngữ nào. Ý nghĩa thật sự của các câu mật chú thật ra đều nằm trong sự liên hệ của tần số rung và mật ý trong âm thanh của mỗi chữ trong câu chú, với tần số rung của những thể tối linh tương ứng (Trời, Chúa, Phật, v.v) luôn hiện hữu và bao trùm trong càn khôn vũ trụ, chung quanh và trong chúng ta. Nếu có thể niệm đúng theo nguyên thủy của tiếng Phạn thì tốt hơn, vì tần số rung và mật nghĩa được bao gồm trong mỗi ngữ âm. Thang âm tự nhiên của mỗi cá nhân để niệm chú là thang âm tự nhiên của mình khi nói âm “tôi” hay “yêu” một cách tự nhiên.
Trên thân xác con người, Thiên Môn (tức là luân xa Bách Hội ở chỗ cao nhất trên đỉnh đầu) là nơi liên quan trực tiếp đến các thể tối linh trong vũ trụ. Huyệt Bách Hội cũng là nơi tụ hội của mọi kinh mạch trong thân thể. Vì thế khi niệm chú, nhất là khi đang thiền định, nên ý niệm (niệm bằng ý nghĩ) mọi câu chú ở điểm này. Niệm thong thả bình an. Niệm rõ từng chữ, và các chữ nên nối liền với nhau không cắt đứt. Nếu đầu óc có bị tạp niệm khi tĩnh tâm thì nhẹ nhàng chú tâm trở lại vào câu chú, dần dần sẽ quen. Khi niệm nên để ý đến sự rung độngở Bách Hội, dần dần sẽ cảm thấy rõ. Khi đã quen rồi thì hãy để câu chú tự niệm như thể trong vô thức, và chỉ chú ý vào sự rung động ở đấy thôi. Mọi việc đều tiến triển huyền diệu trong đầu óc tĩnh lặng, và đấy là bước đầu của việc cải thiện tần số rung Alpha của não bộ và rồi của bản thể.
Lúc ý niệm, môi trên nên chạm vào môi dưới; răng cửa hàm trên gắn vào răng cửa hàm dưới; lưỡi co lên đụng vào phần lợi phía trên chân răng hàm trên, mắt nhắm nhưng hướng tầm mắt đến vị trí tự nhiên (như đọc sách) để thư dãn phần đỉnh đầu. Đây là ấn Tịnh Khẩu (Khechari Mudra) để an tâm và để nối các mạch điện từ trường trong bản thể. Ngồi thẳng lưng tốt nhất.
Phần kinh ở trên toàn bài chỉ để giới thiệu, và không quan trọng bằng câu thần chú, cho nên chỉ cần niệm câu chú mà thôi:
Gate Gate, Paragate Parasamgate Bodhi Svaha!
Phiên âm:
Ga-tê Ga-tê, Pa-ra Ga-tê, Pa-ra Săng Ga-tê Bô-đi. (S)va-ha!
***
Nói thêm:
Đoạn đầu của bài tâm kinh Bát nhã bằng Phạn ngữ cũng có thể rõ nghĩa hơn bản Hán văn. Nguyên văn đoạn này trong tiếng Phạn là
“Arya-Avalokitesvara Bodhisattva gambhiram Prajnaparamita caryam caramana vyavalokayati sma panca-skandhas tams ca sva bhava sunyan pasyati sma”.
Arya: cao quý
Avalokitesvara Bodhisattva: Quán-tự-tại Bồ tát
Gambhiram: một cách sâu sắc
Caryam: thực hành, công phu, chịu đựng
Caramana: cuối cùng, sau khi
Vyavalokayati: quan sát tổng thể
Sma: khẳng định, chắc chắn, quả thật
Pancaskandhas: ngũ uẩn
Tam: chúng nó, họ
Ca: cũng là, đều là
Sva: tự thân (of self)
Bhava: trạng thái, phẩm chất, tinh thần
Sunyan: trống không, hư không, không có thực chất (no intrinsic existence)
Pasyati: xem như là, cảm nhận là
Avalokitesvara Bodhisattva: Quán-tự-tại Bồ tát
Gambhiram: một cách sâu sắc
Caryam: thực hành, công phu, chịu đựng
Caramana: cuối cùng, sau khi
Vyavalokayati: quan sát tổng thể
Sma: khẳng định, chắc chắn, quả thật
Pancaskandhas: ngũ uẩn
Tam: chúng nó, họ
Ca: cũng là, đều là
Sva: tự thân (of self)
Bhava: trạng thái, phẩm chất, tinh thần
Sunyan: trống không, hư không, không có thực chất (no intrinsic existence)
Pasyati: xem như là, cảm nhận là
Đoạn này có nghĩa là: “Bồ tát Quán Tự Tại cao quý sau khi thực hành thâm sâu pháp Bát-nhã Ba-la-mật-đa, quan sát lại đã khẳng định rằng: Ngũ uẩn tự chúng đều chắc chắn được xem là thể trạng hư không (không có thực chất, no intrinsic existence)”.
*
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét