31/05/2025

Nghĩa một số từ ghép - nối ít để ý tới hay không hiểu nghĩa trong tiếng Việt ta

 Nhặt nhạnh từ nhiều nguồn

 


Từ thời xa xưa, ngôn ngữ Việt Nam đã rất đa dạng, phong phú. Nhất là những từ ngữ cổ bởi chúng có thể diễn tả sâu sắc nội tâm của con người, diễn tả chi tiết về sự vật, hiện tượng…. Cho đến ngày nay, chúng vẫn tồn tại nhưng lại thường bị mất nghĩa hoặc bị hiểu sai.

Dưới đây là một số từ cổ tưởng chừng vô nghĩa nhưng lại có ý nghĩa rất bất ngờ và thú vị.

Chúng ta vẫn thường nói: “em yêu dấu”, ‘yêu’ thì hiểu rồi, nhưng ‘dấu’ nghĩa là gì?

Dấu’ là một từ cổ, sách Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của giảng: ‘dấu’ nghĩa là ‘yêu mến’. Từ điển Việt-Bồ-La của Alexandre de Rhodes (1651) cũng giải thích ‘dấu’ là một từ cổ để chỉ sự thương yêu. Ông cho ví dụ: Thuốc dấu là ‘bùa để làm cho yêu.

Tục ngữ Việt Nam nói:

- ‘Con vua vua dấu, con chúa chúa yêu’, còn Hồ Xuân Hương trong bài thơ Cái quạt giấy (bài hai) thì viết

- ‘Chúa dấu vua yêu một cái này’.

Có thể thấy, ‘dấu’ và ‘yêu’ là hai từ có ý nghĩa tương đương, ngày xưa dùng hai từ độc lập, nhưng bây giờ ta có thể thấy từ ‘yêu’ vẫn còn được viết hay nói một mình, còn từ ‘dấu’ thì không ai dùng một mình nữa. Giờ đây, thay vì ‘anh yêu em’ mà nói ‘anh dấu em’ thì không khéo lại bị hỏi ‘anh giấu cái gì?’.

Trong từ ‘chợ búa’ thì ‘búa’ có nghĩa là gì?

Búa’ là âm xưa của chữ [], âm Hán Việt hiện đại là của chữ này là ‘phố’, nghĩa là cửa hàng, là nơi buôn bán.

‘Búa’ trong ‘chợ búa’ chắc chắn không liên quan đến cái búa để đốn cây rồi. Tuy còn nhiều ý kiến khác nhau, nhưng ý kiến được xem là vững chắc nhất thì cho rằng ‘búa’ là âm xưa của chữ [], âm Hán Việt hiện đại là của chữ này là ‘phố’, nghĩa là cửa hàng, là nơi buôn bán. Chợ búa nói chung là nơi người ta tụ tập mua bán.

‘Búa’ trong tiếng Việt hiện đại đã dần mất nghĩa và không dùng độc lập, nhưng nếu nói nó vô nghĩa thì không đúng. Tiếng Việt có rất nhiều từ cổ bị mất nghĩa khi đứng một mình, nhưng chúng không vô nghĩa.

Người ta nói ‘gậy gộc’, ‘gậy’ thì hiểu rồi, còn ‘gộc’?

Gộc’ là ‘cây củi có khúc đẩn lớn cũng là ‘đoạn gốc của cây tre, cây vầu’ hay có nghĩa là ‘to lớn’.

‘Gộc’ là từ mà hiện nay đã không còn nghĩa độc lập. Tiếng Hán, ‘gộc’ là chữ này []. Sách ‘Đại Nam quốc âm tự vị’ của Huỳnh Tịnh Của giảng: ‘Gộc’ là ‘cây củi có khúc đẩn(?) mà lớn’ và cho ví dụ ‘ông gộc’ là người già cả hơn hết hoặc làm lớn hơn hết trong một xứ. Cũng có tài liệu giảng ‘gộc’ là ‘đoạn gốc của cây tre, cây vầu’ hay có nghĩa là ‘to lớn’.

Theo đó, gậy gộc nghĩa là những cây gậy lớn, thường dùng để đánh nhau.

Mình hay nói ‘hỏi han’ nhau, ‘hỏi’ thì rõ nghĩa rồi, vậy ‘han’ có nghĩa không?

Tương tự như ‘gậy gộc’, ‘hỏi han’ không phải là từ láy mà là từ ghép đẳng lập, trong đó cả ‘hỏi’ và ‘han’ đều có nghĩa.

‘Han’ nghĩa là ‘hỏi tới’, ‘nói tới’.

Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của giải thích: ‘han’ nghĩa là ‘hỏi tới’, ‘nói tới’. Theo đó, ‘hỏi han’ nghĩa là hỏi một việc gì đó, hỏi tới hay nói tới một việc nào đó.

Truyện Kiều của Nguyễn Du từng dùng ‘han’ như một từ độc lập, không dính đến từ ‘hỏi’, trong câu:

‘Trước xe lơi lả han chào

Vâng lời nàng mới bước vào tận nơi’

(Phần Kiều rơi vào tay Tú Bà và Mã Giám Sinh). ‘Han chào’ chính là chào hỏi.

Khi mình nói về một chuyện gì đó ‘to tát’ thì ‘tát’ có nghĩa là gì?

Tát’ đúng ra phải dùng là ‘tác’.’Tác’ nghĩa là lớn, ta thường gặp qua từ ‘tuổi tác’.  

‘To tát’ không phải là từ láy mà là từ ghép, cả ‘to’ và ‘tát’ đều có nghĩa. Tuy nhiên, ‘tát’ ở đây là một minh chứng cho hiện tượng dùng sai nhiều thì thành đúng trong ngôn ngữ. ‘Tát’ đúng ra phải dùng là ‘tác’.

‘Tác’ nghĩa là lớn, ta thường gặp qua từ ‘tuổi tác’. Khi nói ‘tuổi tác’ thì đã mang nghĩa lớn tuổi, già rồi. Tuy nhiên, ngày nay mình hay nói ‘tuổi tác đã lớn’, cách nói này xét về nguồn gốc thì không đúng, bị lặp từ.

Do trong quá trình sử dụng đã có nhiều biến chuyển, nên ‘tuổi tác’ thường dùng để chỉ tuổi. Thậm chí tuổi còn nhỏ cũng dùng ‘tuổi tác’, ví dụ: ‘Tuổi tác còn nhỏ’, ‘tuổi tác mới có bây lớn’,…

Riêng từ ‘to tác’ để chỉ cái gì đó lớn thì đã dùng thành ‘to tát’. Tuy nhiên, để viết đúng chính tả tiếng Việt hiện đại thì mình vẫn cứ dùng ‘to tát’.

Có câu, ‘cần cù bù thông minh’, ‘cần cù’ là từ láy hay từ ghép? ‘Cù’ có nghĩa gì không?

‘Cần’ là siêng năng chăm chỉ, ‘cù’ là khó nhọc, vất vả.  

‘Cần cù’ là từ ghép, cả ‘cần’ và ‘cù’ đều có nghĩa. Đây là từ gốc Hán, viết là 勤劬. ‘Cần’ là siêng năng chăm chỉ, ‘cù’ là khó nhọc, vất vả.

Chữ ‘cù’ này còn xuất hiện trong từ ‘cù lao’ () chỉ công ơn cha mẹ (thường nói chín chữ cù lao).

Truyện Kiều có câu:

‘Duyên hội ngộ, đức cù lao

Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn’.

Không nên nhầm lẫn từ ‘cù lao’ này với từ ‘cù lao’ chỉ cồn đất/cát nổi lên giữa sông do phù sa bồi lắng.

Bếp núc

– Bếp là nơi nấu ăn;

– Núc là ‘đồ đắp bằng đất thường làm ra ba hòn, có thể bắc nồi nấu ăn’, cho nên có thể hiểu núc chính là ông Táo. (theo Huỳnh Tịnh Của, Đại Nam quốc âm tự vị)

Thêu thùa’ là từ ghép tổ hợp (hay ghép đẳng lập), trong đó cả thêu và thùa đều có nghĩa

 – Thêu là dùng chỉ màu đính lên bề mặt vải làm ra hoa văn;

– Thùa là kết chỉ thêm, làm cho đẹp thêm.

Về cơ bản thì thêu và thùa giống nhau, đều là hành động thêm hoa văn trang trí trên vải vóc cho đẹp. Nhưng thùa đôi khi còn có nghĩa là hành động mạng lại chỗ vải bị rách cho đẹp.

Vải vóc’ là một từ ghép với chữ ‘vóc’ cũng có nghĩa

– Vải là chỉ bông hoặc đồ dệt bằng chỉ bông;

– Vóc là một xấp hàng lụa vừa đủ một quần là sáu thước may.

Ngày nay thì vải không nhất thiết là dệt bằng chỉ bông mà có thể dệt bằng nhiều chất liệu khác. Còn vóc thì ít khi thấy dùng một mình nữa, người ta thường lầm tưởng ‘vải vóc’ là từ láy.

 

 

25/05/2025

Khắc phục thị lực giảm

 Phòng khám nhân dân

 


Nhiều người cho rằng thị lực giảm sút là do “già đi” ???

Thật ra là chưa đúng và đủ.

Đây là bệnh thời đại : liên tục dán mắt vào màn hình thiết bị thông minh, ánh sáng rác hủy hoại thị lực.

Đôi mắt của bạn không hề yếu đi, chúng chỉ đang cầu xin một lối sống TẬP TRUNG.

Sau đây là cách rèn luyện thị lực của bạn trở lại mức 20/20:

Bỏ kính đi—Không đùa đâu

Sự hao mòn liên tục sẽ dẫn đến sự phụ thuộc. Hãy để mắt bạn được điều chỉnh lại.

Chắc chắn phải dùng kính cho khoảng cách xa, nhưng khi ở gần thì sao ? Hãy TỰ NHIÊN.

Và hãy loại bỏ những loại kính áp tròng bằng nhựa có chứa PFAS.

Mặt trời buổi sáng là Năng lượng tốt nhất của thiên nhiên

Võng mạc của bạn phát triển mạnh nhờ tia nắng ban mai.

Ánh sáng mặt trời = dopamine võng mạc = tăng cường thị lực + thiết lập lại nhịp sinh học.

15 phút mỗi ngày, không đeo kính, không đeo kính râm.

Ưu điểm: nó làm giảm cortisol và đánh thức hệ thần kinh của bạn.

Bài tập cho mắt:

Sau đây là thói quen hàng ngày của bạn:

• Vòng tròn theo chiều kim đồng hồ/ngược chiều kim đồng hồ (mỗi vòng 30 giây)

• Vẽ hình số 8 (30 giây)

• Chuyển tiêu điểm: ngón tay đến vật thể ở xa

• Xoa bóp và hít thở sâu

Mắt là cơ. Đã đến lúc phải kéo giãn chúng.

Tầm nhìn toàn cảnh = Tầm nhìn nguyên thủy

Cái nhìn ngày nay ? = dán vào màn hình và tầm nhìn "hộp".

Thay vào đó, hãy nhìn xa hơn. Quét rộng. Hít thở trong khi ngắm đường chân trời, có hoặc không có kính.

Điều này báo hiệu sự an toàn cho não của bạn - và khởi động lại hệ thần kinh (và mắt).

Dầu thầu dầu = Thuốc chữa mắt ban đêm

Thoa dầu thầu dầu hữu cơ, không chứa hexane lên mí mắt của bạn mỗi tối.

Giảm quầng thâm, nuôi dưỡng mô, làm dày lông mi và lông mày. Tôi làm điều này mỗi đêm.

Đêm tối = Sửa chữa võng mạc

Đôi mắt của bạn sẽ phục hồi trong bóng tối.

Rèm che nắng, mặt nạ ngủ, melatonin thật = phục hồi thị lực tối đa chỉ sau một đêm.

Làm mờ hoặc tắt đèn/màn hình sáng sau khi mặt trời lặn.

Hydrat hóa THỰC SỰ

Chất điện giải = cung cấp nước cho tế bào tốt nhất

Mắt khô? Tầm nhìn mệt mỏi? Có khả năng thiếu khoáng chất. Giải độc và bổ sung khoáng chất.

Liệu pháp ánh sáng đỏ = Tái tạo võng mạc

Ánh sáng đỏ 670nm trong 3-10 phút vào buổi sáng sẽ cung cấp năng lượng cho ty thể của mắt bạn.

ATP tăng lên. Sự mờ nhạt dần. Màu đỏ bình minh cũng có tác dụng.

Chỉ cần tránh nhìn chằm chằm như một kẻ mất trí. Phơi sáng chậm là chìa khóa.

Tóm lại, thực hiện tốt các bước sau có thể lấy lại thị lực đã mất:

• Nắng sớm

• Bỏ hẳn kính (hoặc thỉnh thoảng)

• Cá hoang dã, trứng, thịt bò, mật ong rừng, dầu dừa

• Nước điện giải + khoáng chất thiết yếu

• Bài tập mắt 5 phút (hàng ngày)

• Dầu thầu dầu hàng đêm

• Ngủ như trong bóng tối hoàn toàn

• Đèn đỏ 3 lần/tuần

• Thực hành tầm nhìn toàn cảnh