31/03/2014


XIII.   VĂN CHƯƠNG
(Trích trong Việt Nam phong tục của Phan Kế Bính)

   Văn chương ta nên chia làm hai thể cách, một thể cách theo lối Tàu và một thể cách riêng theo lối của ta.

THỂ CÁCH THEO LỐl TẦU

1.Câu đối - Câu đối bốn, năm chữ gọi là tiểu đối, bảy chữ gọi là câu đối thơ, tám chữ trở lên gọi là câu đối phú. Câu đối hai vế phải đối nhau cho chọi từng chữ mới là hay, mà chữ cuối cùng, tiếng bằng thường phải đối vối tiếng trắc mới được, ví như trời thì phải đối vối đất, sông thì phải đối vối núi v.v... Câu đốì thường dùng đế mừng phúng nhau, hoặc khắc gỗ mà treo thờ ở nhà và ở nơi đình miếu chùa chiền.

2.Thơ - Thơ chia làm nhiều lối : thơ năm chữ gọi là thơ ngũ ngôn, bảy chữ gọi là thất ngôn. Ngũ ngôn, thất ngôn mỗi bài bốn câu, gọi là thơ tứ tuyệt, mỗi bài tám câu gọi là thơ bát cú. Thất ngôn dùng đến tám câu, ngũ ngôn dùng đến mười sáu câu là thường, còn dài hơn nữa thì gọi là thơ tràng thiên.
   Thơ không cứ gì nhiều ít câu mà không cứ gì điệu bằng trắc, duy chỉ có vần, thì gọi là thơ cổ thể ; thơ chì dùng bốn câu, tám câu, mười sáu câu và phải có điệu bằng trắc, có vần, như bốn câu thì phải ba vần, tám câu thì phải năm vần, mười sáu câu thì phải tám hay chín vần, thì gọi là thơ Đường luật. Đường luật nghĩa là thơ ấy mới tự đời nhà Đường đặt ra, rồi sau cứ tuân đó mà làm luật nhất định cho nhà làm thơ.
   Điệu bằng, trắc, Đường luật chia làm hai thể, một thể bằng, một thể trắc, nay xin lấy cái dấu (-) thế cho tiếng bằng cái dấu (.) thế cho tiếng trắc và dấu ( V ) thế cho tiếng phải vần mà lục ra sau này:
Ngũ ngôn thể bằng:
1) (-)   (-)   (.)   (.)   (V)
2) (.)   (.)   (.)   (-)   (V)
3) (.)   (.)   (-)   (-)   (.)
4) (-)   (-)   (.)   (.)   (V)
5) (-)   (-)   (-)   (.)   (.)
6) (.)   (.)   (.)   (-)   (V)
7) (.)   (.)   (-)   (-)   (.)
8) (-)   (-)   (.)   (.)   (V)
Ngũ ngôn thể trắc:
1) (.)   (.)   (.)   (-)   (V)
2) (-)   (-)   (.)   (.)   (V)
3) (-)   (-)   (-)   (.)   (.)
4) (.)   (.)   (.)   (-)   (V)
5) (.)   (.)   (-)   (-)   (.)
6) (-)   (-)   (.)   (.)   (V)
7) (-)   (-)   (-)   (.)   (.)
8) (.)   (.)   (.)   (-)   (V)
Thất ngôn thể bằng:
1) (-)   (-)   (.)   (.)   (.)   (-)  (V)
2) (.)   (.)   (-)   (-)   (.)   (.)  (V)
3) (.)   (.)   (-)   (-)   (-)   (.)  (.)
4) (-)   (-)   (.)   (.)   (.)   (-)  (V)
5) (-)   (-)   (.)   (.)   (-)   (-)  (.)
6) (.)   (.)   (-)   (-)   (.)   (.)  (V)
7) (.)   (.)   (-)   (-)   (-)   (.)  (.)
8) (-)   (-)   (.)   (.)   (.)   (-)  (V)
Thất ngôn thể trắc:
1) (.)   (.)   (-)   (-)   (.)   (.)  (V)
2) (-)   (-)   (.)   (.)   (.)   (-)  (V)
3) (-)   (-)   (.)   (.)   (-)   (-)  (.)
4) (.)   (.)   (-)   (-)   (.)   (.)  (V)
5) (.)   (.)   (-)   (-)   (-)   (.)  (.)
6) (-)   (-)   (.)   (.)   (.)   (-)  (V)
7) (-   (-)   (.)   (.)   (-)   (-)  (.)
8) (.)   (.)   (-)   (-)   (.)   (.)  (V) 

   Thế nào thì cũng câu thứ nhất, thứ nhì, thứ tư, thứ sáu, thứ tám phải theo vần nhau, mà nếu dùng bốn câu thì chỉ phải ba vần, còn thơ ngũ ngôn muốn dùng mười sáu câu thì phải thêm tám câu nữa, mà cũng theo điệu ấy kéo đi mà thôi. Có khi hai câu đầu bằng, trắc đối nhau ngay cũng được, thì câu đầu không phải vần nữa. Sai vần gọi là lạc vận, không được. Câu tiếp theo đáng bằng bằng đặt trắc trắc, đáng trắc trắc mà đặt bằng bằng, gọi là thất niêm, không được. Trong câu chỉ trừ ra chữ thứ nhất và chữ thứ ba không kể bằng trắc, còn sai bằng trắc chữ nào thì gọi là thất luật, cũng không được. Song chữ thứ nhất ở thơ ngũ ngôn và chữ thứ ba ở thơ thất ngôn đáng trắc trắc mà dùng bằng trắc thì được, chớ đáng bằng bằng mà dùng trắc bằng thì gọi là khổ độc, cũng không được.
   Đó là luật thơ, còn như cách làm thơ thì câu đầu tiên gọi là câu phá đề, nghĩa là mới khai cái ý của đầu bài, ví dụ đầu bài là "cái hoa hồng" thì câu phá đề nói khơi ngay vì đâu mà sinh ra cái hoa, hoặc nhờ có mưa móc nhuần thấm mà hoa tốt. Câu thứ nhì là câu thừa đề hoặc gọi là nhập đề, nghĩa là nói vào đầu bài ví như bài này thì thế nào cũng phải nói lại hai tiếng hoa hồng vào mới được.    Câu thứ ba thứ tư là hai câu thực hoặc là cặp trạng, nghĩa là phải tả cái đầu bài ra, và phải đối nhau. Như hoa hồng thì câu này một vế tả sắc đẹp và một vế tả cái hương thơm để đối nhau, tả thế nào cho rõ ra hương đốì với sắc của hoa hồng mới là khéo. Hai câu thứ năm, thứ sáu gọi là hai câuluận, nghĩa là bàn cho rộng cái ý đầu bài ra, như bài này thì đem những hoa khác vào so sánh, hoặc nói nó làm cái cảnh vui cho tài tử giai nhân, mà cũng phải đối nhau. Hai câu cuối cùng gọi là câuthúc kết, không cần phải đối nhau. Câu này thì kết cái ý đầu bài lại, hoặc khen hoặc chê, tùy ý mình. Đấy là nói qua các cách thức, chớ đến lúc làm thì biến hóa vô cùng không có nhất định được.
   Thơ làm điệu trắc cũng được, điệu trắc thì dùng vần trắc, còn thể bằng trắc thì cũng xoay xở đảo lên đảo xuống như thế mà thôi. 
Thơ ngâm vịnh chơi, hoặc để những nơi chùa chiền thắng cảnh thì hoặc dùng cổ thể, hoặc dùng Đường luật tùy ý mình; thơ ứng thí hoặc chúc tụng vua, hoặc tặng người tôn trưởng dùng vào những việc kính trọng thì thường dùng đường luật, vì dùng luật thì thơ mới nghiêm, chớ dùng cổ thể thì phóng túng thế nào cũng, được.
   Trong các lối văn chương, duy thơ là khó hơn hết, vì ít chữ mà phải nói cho đủ ý tứ, lời lẽ lại phải thanh tao, phải có điệu, phải có vần, và phải điển nhã gọn lời thì mới là hay.

3.Phú - Phú hoặc dùng năm, sáu vần, hoặc bảy tám vần, tùy lúc ra đề bắt lấy vần gì thì phải làm vần ấy và cứ phải theo thứ tự trong vần mà làm, lúc ra để có phóng vận cho mình hoặc không bắt theo thứ tự thì mới được tùy ý mình, muốn làm vần gì trước sau cũng được.
   Phú tùy mình mỗi câu đặt mấy chữ cũng được, nhưng đại để mỗi vần phải có vài bốn câu bốn chữ, gọi là câu tứ tự, hoặc dùng vần liên châu hoặc đối nhau bằng trắc tùy ý, vài bốn câu mỗi vế sáu, bảy chữ hoặc tám, chín chữ đốỉ nhau gọi là câu song qua', một vài câu dài mỗi vế hoặc trên bốn dưới sáu, hoặc trên sáu dưới bốn, hoặc nhiều hơn nhưng cũng chia mỗi vế là hai đoạn, đều gọi là câucách cú, hoặc dùng mỗi vế ba đoạn, thì gọi là câu gối hạc.
   Cách làm phú cũng tựa như cách làm thơ, cũng có khai, có thừa, có tả thực, có nghị luận, có kết. vần đầu mới mở gọi là vần lung, nghĩa là nói cho bao quát cả đầu bài. Vần thứ hai là vần biện nguyện, nói nguyên ủy cái đầu bài; vần thứ ba là vần thích thực, tả cho hết ý nghĩa đầu bài, vần thứ tư thì là vần phụ diễn, suy rộng ý đầu bài ra, rồi từ vần sau trở đi thì nghị luận và kết lại.
   Phú cũng nhiều lối, hoặc từ đầu đến cuối, dùng toàn bốn chữ, hoặc dùng toàn bảy chữ, hoặc theo điệu sở từ, cứ mỗi câu dăm sáu chữ, đệm một chữ hề, hoặc dùng cách lưu thủy như lốì phú Xích Bích cũng được.

4.Kinh nghĩa - Kinh nghĩa là lấy một vài câu chính văn trong kinh truyện ra đầu bài, rồi cứ suy diễn ý đầu bài; thay lời thánh hiền mà nói ra cho rộng và cho đúng với nghĩa kinh truyện thì mới được, cho nên lại gọi là tình nghĩa.
   Kinh nghĩa có hai lối là lối bát cổ và lối tân hành. Lối bát cổ có tám đoạn: bắt đầu một, hai câu mở, gọi là phá đề, kế đến ba, bôn câu nghị luận gọi là thừa đề. Câu phá câu thừa thì còn là lời minh, từ đoạn sau trở đi thì là lời thánh hiền chớ mình không được nghị luận nữa. Đoạn thứ ba gọi là đoạn khởi giảng, thay lời thánh hiền mà nói suy nguyên cái đầu bài; đoạn thứ tư là đoạn khai giảng phải có hai vế đốĩ nhau, nghĩa là nói khai cái ý đầu bài. Đoạn thứ năm chỉ hoàn lại một câu đầu bài, gọi là câu hoàn đề. Đoạn thứ sáu gọi là đoạn trung cổ, thích thực nghĩa đầu bài; đoạn thứ bảy gọi là đoạn hậu cổ, nghị luận thêm cho rộng nghĩa. Hai đoạn này mỗi đoạn cũng phải đặt hai vế đối nhau, dài hơn đoạn khai giảng một chút. Đoạn thứ tám gọi là đoạn kết tỵ, cũng hai vế mỗi vế hai, ba câu, rồi thúc lại một câu nữa là hết bài.
   Lối tân hành đại ý cũng phải đủ chừng ấy phép tắc, duy lối đặt thì không cứ gì mấy đoạn, hoặc nhiều hoặc ít tùy ý mỗi đoạn độ dăm bảy câu đối nhau cũng được.
   Kinh nghĩa là văn ứng thí, chớ chơi bời thì không mấy khi dùng đến.

5.Văn sách - Văn sách là lấy những lời nghị luận hoặc những việc làm của cổ nhân hay là việc đương thời mà hỏi cho học trò đáp lại, xem học trò có nhớ sách, và có kiến thức không. Mỗi một mục văn sách độ dăm sáu đoạn hỏi về việc đời xưa và một vài câu hỏi về việc đương thời, hoặc ra văn sách đạo thì mỗi kinh truyện một câu, và vài câu hỏi vào sử ký, một vài câu kinh. Học trò đáp lại phải lựa cái mẹo của người ra bài, hỏi đâu nói đó. Lắm câu đầu bài hỏi lăng hỏi lứu, hỏi câu nọ nhằng ra câu kia, thì làm bài phải theo thứ tự hoặc đảo lên đảo xuống mà nói gỡ dần dần từng câu một, nếu đáp thiếu ý nào hoặc thừa ý nào cũng không được.
   Việc thi cử trọng nhất là văn sách, vì phải nhờ sách nhiều và phải có cao kiến mới làm được. Văn sách tức là một bài tràng thiên vấn đáp, có thể xem văn sách mà biết ngưòi học thức hay là hư văn, cho nên lối văn sách lại là lối văn chương hữu dụng.
   Văn sách thì có lối riêng. Mới bắt đầu thi hương thì phải có ba chữ: "Đốì sĩ văn (thưa tôi nghe), thi đình thì phải có bốn chữ: "Thần đối, thần văn" (thần xin thưa, thần nghe). Đoạn ấy phải nói lao lung cho hết ý toàn đề, rồi phải tiếp một câu: "Tư thừa sách vấn nhi lược trần chi" (Nay vâng lời sách hỏi mà nói qua sau này), từ đó trở đi mới theo từ câu hỏi mà đáp lại. Đầu câu đáp lại phải dùng hai chữ "Thiết vì" (trộm nói rằng). Nghĩa là nói khiêm rằng mình trộm nghĩ mà thưa, chớ không dám quyết thực như thế. Đến cuối cùng làm xong bài đâu đấy lạì phải viết mấy cầu lề lối, nếu không viết hoặc viết sai một chữ cũng không được. "Mây câu sau này: "Sĩ giã, hạnh phùng thịnh thế, tòng sự văn trường, quản kiến như từ, vị chi khả phủ, nguyện chấp sự kỳ trạch nhi tiến chi. Thần (sĩ) cẩn đốì". (Tôi đây, may gặp đời thịnh, theo việc văn trường, kiến thức hẹp hòi như vậy. chưa biết có phải hay không, xin quan coi việc kén lựa mà tiến tôi lên, tôi kính cẩn thưa) Mấy câu ấy, mỗi khoa thi tùy quan trường đổi đi một vài chữ, học trò cứ theo mà viết.

6.Tứ lục – Lối tứ lục tương tợ như lối phú, duy khác vì không cần phải vần. Đặt câu thì phần nhiều là câu cách cú, hoặc trên bốn dưới sáu hoặc trên sáu dưới bốn, mà bất cứ sáu vói bốn, muốn đặt trên dưới bao nhiêu chữ cũng được.
   Lối tứ lục thường dùng vào những văn chiếu, biểu, chế, sắc. Chiếu là làm thay lời vua mà thi lịnh điều gì, biểu là làm thay lời các quan, hoặc lời thiên hạ mà chúc mừng vua hay là tạ ơn vua, chế sắc cũng là thay lời vua mà phong thưởng cho công thần hoặc cho ai. Thay lời vua thì phải dùng những lời nghiêm trang điển nhã, thay lời mừng vua thì phải dùng những lời khiêm tốn thờ phụng
Lốĩ tứ lục lại dùng làm bài ký, bài hịch, bài tựa cũng được.

7.Luận - Luận là lời mình nghị luận, lấy một câu gì hoặc một việc gì làm đầu bài, rồi cứ suy diễn ý câu ấy mà bàn nói, tùy ý mình muốn khen muốn chê mặc dầu miễn là hợp lẽ thì được.
   Luận cũng phải có học thức thì bàn mới cao và phải có kê cứu văn chương mới có ruột, nếu cứ bàn vông vinh, không có chủ ý gì, sự thực gì thì gọi là văn vu khoát.
   Văn luận tức là một lối văn xuôi, như các lời nghị luận của các báo quán
   Mấy lốì trên này, thơ phú, kinh nghĩa, văn sách, tứ lục, luận là lối ta thường cho học trò học tập mà dùng để thi cử. Còn nhiều lối nữa thì là lúc học đã quán xuyến hoặc làm chơi, hoặc dùng vào việc, mỗi lốì cũng đều có một thể cách riêng nói qua sau này.

8.Tấu Sớ - Là những thư dâng lên vua, hoặc cầu khẩn việc gì, hoặc can ngăn việc gì, hoặc tấu đối việc gì, dùng lối nghị luận chớ không theo như lối biểu.

9.Bài ký sự - Là những lời ký việc thực sự như trong khi đi chơi, hoặc là ghi chép việc gì như lối sử ký, bi ký v.v...

10.Bài tựa - Là bài nói khai mào trên đầu sách, phải xem cho hết ý tứ trong bộ sách mà nói tổng tự dưới lên trên, cho người xem một bài tựa mà đã hiểu đủ ý sách. Tựa cũng có khi dùng để tặng tiến anh em, kể lai lịch cái ý tứ của mình đốì với anh em.

11.Bài hịch - Là một bài kể tội kẻ bạn nghịch hoặc là nước địch quốc để xui giục lòng người cho được khích khuyến. Văn hịch thường dùng theo lốì tứ lục.

12.Văn án - Là một bài kết án cho kẻ có tội, cũng thường dùng theo lối tứ lục.

13.Bài tán - Là một bài tán tụng công đức vua, công đức tổ tiên hoặc mừng quan trên, hoặc ngông thì đề vào ảnh mà mình lại khen mình. Văn tán thường từ đầu đến cuối, dùng toàn bốn chữ, hoặc dùng lối tứ lục hoặc dùng lốì nào cũng được.

14.Bài minh - Là một bài ghi lên trên chỗ ngồi để mình lại khuyên răn mình, hay là để khuyên răn học trò, con cái. Hoặc dùng để ghi chép công đức việc gì, cũng gọi là bài minh. Lối minh cũng thường dùng lốì bốn chữ.

15.Văn tế - Là một bài kể rõ tính nết và công đức của thần thánh hoặc của ngưòi mình tế, dùng theo lốì phú, mà toàn bài thường chỉ một vần, hoặc dùng lối lưu thủy cũng được.

16.Ca khúc - Là những bài hát có khúc, có điệu, có vần. Ca khúc cũng nhiều lối, có lối gọi là điệuTây giang dạ nguyệt, có lối gọi là điệu nhất tiền mai, bộ bộ thiền v.v...

17.Diễn kịch - Là những bài tuồng Tàu, như văn Tây tương, văn Tì bà v.v...

18.Hài đàm - Là những lời nói khôi hài, nói cho ai cũng phải buồn cười, để người ta xem cho được giải trí.

19.Từ hàn - Thư từ gửi cho nhau, những chữ hỏi han thù phụng có riêng một lối, người học giỏi mà không quen viết thơ cũng không viết được.

20.Văn độc - Là những tờ bồi việc quan hoặc lời yết thị, hoặc tờ trát sức, hoặc tờ khai báo, cũng có lối riêng, phải tay thơ lại viết mới quen.

THỂ CÁCH RIÊNG LỐl CỦA TA

1.Thượng lục hạ bát - Gọi là lối Kiều. Lối này cứ câu trên sáu chữ, câu dưới tám chữ, mà vần chữ thứ sáu câu dưới phải tiếp vần với chữ cuối cùng câu trên. Bốn câu ba vần, thành một đoạn nhỏ. Các truyện của ta hay dùng theo lối ấy.

2.Nhị thất lục bát - Gọi là lối Cung oán. Lối này cứ hai câu đầu mỗi câu bảy chữ, mà chữ cuối cùng câu trên phải dùng tiếng trắc, rồi chữ thứ năm câu dưối tiếp theo vần trắc mà hạ xuống tiếng bằng; câu thứ ba sáu chữ, tiếp theo vần bằng, câu thứ tư tám chữ lại tiếp như lối lục bát. Lối này thi bốn câu phải bốn vần, nhưng có khi vần câu đầu không tiếp cũng được, các truyện cũng thường dùng lối này.

3.Biến thể lục bát - Gọi là lối Phạm Công. Lối này cũng dùng trên sáu dưới tám nhưng thường chữ thứ tư câu dưới tiếp với vần chữ cuối câu trên. Lốì này tay văn sĩ không mấy khi dùng, chỉ người nôm na hay dùng.

4.Bài tuồng - Gọi là lổì diễn kịch. Trong lối này có nhiều điệu, mới khởi có mấy câu chúc tụng, gọi là câu giáo đầu; nói chuyện gọi là câu nói. Câu giáo đầu và câu nói, bất cứ dài ngắn, hễ hết ý thì thôi, mỗi câu hoặc bốn chữ, năm, sáu, bảy chữ, tùy đặt thế nào cũng được nhưng cứ chữ cuốĩ câu thứ ba, phải tiếp vần với chữ cuối câu thứ nhì, mà thường câu cuỗì cùng, hạ vần trắc thì xuống mới mạnh. Tướng mới ra đọc một vài câu gọi là câu xướng, tiên mới giáng đọc một vài câu gọi làcâu bạch, xướng và bạch thường dùng lối thơ. Nói dứt lời xuống tiếp theo một câu gọi là câu vãn, câu vãn thường nói tiếp mấy tiếng cuối cùng câu trên rồi xuống một, hai câu lục bát. Nói cho bổ ý câu trên hoặc để thi hành câu nói thì gọi là câu loạn, câu loạn hoặc dùng lối thơ, hoặc dùng lối phú, hoặc hai câu thơ rồi xuống một vài câu bốn hoặc năm chữ hoặc câu lục bát tùy ý. Gặp lúc buồn bã mà đọc mấy câu bi ai sầu thảm gọi là câu nam, gặp lúc khoan khoái mà đọc mấy câu ngân nga thủng thỉnh gọi là câu khách, nam và khách thường dùng lốì thơ. Khi vừa đánh vừa nói gọi làcâu chiến trận, khi vừa đánh vừa chạy gọi là câu tẩu mã, hai câu này cũng hay dùng lối thơ hoặc lối phú. Ngoại các câu dài, còn nhiều các tiếng đệm gọi là câu trợ ngữ, như tiếng: "Dạ dám bẩm, như tôi đây, vậy chớ, nhưng mà v.v...". Đây nói qua mấy câu đại khái, chớ lúc làm văn thì tùy việc mà đặt câu, còn nhiều biến thể, không nói hết được.

5.Bài hát ả đầu - Gọi là lối ca khúc. Ca khúc cũng chia làm nhiều cách điệu nói qua sau này:
a)   Điệu ca trù,
b)   Điệu lưu thủy,
c)   Điệu hành văn
d)   Điệu tứ đại cảnh:
e)   Điệu nam thương',
f)   Điệu nam bình;
g).   Điệu nam ai;
h)   Điệu cổ bản
i)   Điệu kim tiền;
j)    Điệu tam thất;
k)   Điệu vọng phu
l)   Điệu giao duyên.
   Điệu ca trù, câu mới mở thường bốn, năm chữ, rồi tiếp xuống một câu tám chữ, hoặc hai câu đầu độ năm chữ đối nhau ngay cũng được. Kế đến hai câu độ bảy, tám chữ mà tiếp vần với câu trên rồi đưa hai câu thơ ngũ ngôn hoặc thất ngôn một vài câu đi lưu thủy, hoặc hai chữ, hoặc bốn chữ, rồi lại tiếp hai câu bảy, tám chữ, cuối cùng thả một câu độ năm, sáu chữ lửng lơ.
   Điệu này không cứ gì dài vắn, tùy ý mình muốn đặt thế nào cũng được, quý hồ giọng lên giọng xuống, điệu trắc, điệu bằng cho hợp cách thì thôi. Còn như các điệu tứ đại cảnh, nam ai, hành vân, lưu thủy v.v... thì thường mỗi chữ mỗi câu đều phải hợp vào giọng hò, lưu, xế, xang, cống, sự, phàn v.v. nghĩa là phải hợp với bài đàn mới được.
   Mỗi điệu có một thể cách riêng, phải xem các bài hát mới biết được hết các lốì. Song cứ lấy nghĩa mấy chữ tên khúc điệu mà suy ra thì lưu thủy chắc là giọng văn lưu loát như dòng nước chảy, hành vân chắc là giọng văn man mác như đám mây bay, nam ai là những giọng sầu thảm bi thương, nam bình là những giọng khoan thai hòa nhã, vọng phu là giọng người đàn bà ai oán mong chồng, giao duyên là giọng trai gái tự tình ước hẹn v.v. Ngoài các điệu ca khúc trên, lại còn những điệu hát xẩm, hát ru, hát trống quân, hát quan họ, hát đò đưa, nhưng chẳng qua cũng theo điệu lục bát gia giảm một đôi chút mà thôi. Mà trong điệu ca trù có những điệu thuyết nhạc, gởi thơ, thiên thai, xích bích v.v... thì là theo bài Tàu mà đọc riêng một giọng, chớ không phải có lối nào khác nữa.

6.Văn xuôi - Tức là lối nghị luận hoặc là lối ký sự. Lối này không cứ lệ luận nào, nói thế nào cho đủ ý thì thôi.
   Xét các lối văn chương của ta, vừa lối riêng, vừa lốì theo của Tàu, kể ra thì cũng nhiều và cũng đủ cách mà tả hết tính tình của người và tả hết cảnh tượng của tạo hóa, có cách tự nhiên, có cách trang điểm, có cách dùng âm điệu cho dễ rót vào tai người, ấy cũng là đủ lối
   Song hiểm vì trong lối văn chương, phần nhiều là hay dùng cách tiểu xảo, đối chọi nhau từng chữ từng ý mà nhất là thơ hay tìm những tiếng mong manh, những lời bóng bẩy, khi nhỏ nhặt tỉ mỉ, kém khí hùng hào. vả lại hay chuộng lối phù hoa, quý hồ đặt cho đẹp câu, đọc cho sướng tai, mà rút lại thì không có lý tưởng nào là cao lạ.
   Lại còn một cách, nói thật là viển vông huyền huýnh, khiến cho người nghe tưởng là cao kiến lắm, mà kỳ thực thì toàn là lời tưởng tượng, vu khoát, tựa như bức tranh vẽ của ta chỉ thấy nét xanh nét đỏ, vẽ rồng vẽ phượng trông thì choáng mắt, mà té ra không có nét nào thực cả.
   Lại nhất là những điệu ai oán, những khúc bi thương, tiếng bổng tiếng trầm, thánh tha thánh thót, như dế kêu, như ve hát, ta thường cho là hay mà thực thì là một thứ tiếng hèn mọn yếu ớt, không cô động được cái khí mạnh mẽ cho người ta.
   Văn chương của một nước tức là cái tinh thần của một nước, tinh thần có mạnh thì nước mới mạnh, tinh thần mà suy thì nước cũng suy, thiết tưởng văn chương, dầu theo lối nào mặc lòng, quý hồ phải tả cho thực, cho đủ ý mà nói sao cho cảm động được lòng người mới là hay, chớ bất tất phải cầu kỳ từng chữ từng câu, bất tất phải gọt từng tiếng. Văn chương gọt từng tiếng khác nào như ngươi gọt củ thủy tiên, cái lá này bắt cho quăn, cái giò kia hãm cho thấp, trông thì hoa nở đều nhau đẹp đẽ nhưng giá động vào đâu đã gãy, để chưa mấy ngày đã úa, thế là cốt lấy cái khéo nhỏ hhặt, mà làm mất cái khí mạnh của nó, gọi là nhu nhược chí văn chương!
   Kìa xem như các tay đại gia văn chương, giọng văn hùng hào quảng bác, rườm rà như cành to cỗi lớn, mạnh mẽ như nước chảy sóng cồn, có cần gì phải tỉ mỉ chọi từng tiếng, từng chữ, từng câu. Lại ngẫm như nước Tàu những lúc mới thịnh, văn chương bao giờ vẫn quê kệch mà cứng cỏi, đến khi văn chương mềm mỏng êm tai, văn hoa đẹp mắt thì đã lại tới hồi suy nhược rồi. Cho nên lúc đời Nam Bắc triều có người chê văn Tàu rằng: "Sách vở chồng chất, chẳng qua đều là giọng sầu thảm bi ai; hòm trắp đầy truyện, chẳng qua đều là lời phong hoa tuyết nguyệt" ấy là văn lúc suy thế.
Vậy có câu rằng: "Văn chương quan hồ thê vận" nghĩa là văn chương quan hệ với vận mệnh một đời, quả nhiên như thế thực.

6 triệu chứng báo hiệu cơn đau tim

     Đau tim xảy ra khi một trong các động mạch tim bị tắc nghẽn. Đau tim rất nghiêm trọng và có thể dẫn đến tử vong tức thì. Do đó, việc nhận biết trước các dấu hiệu, triệu chứng báo hiệu cơn đau sắp đến là rất quan trọng.

   Tắc nghẽn động mạch tức là nguồn máu cung cấp cho tim bị ngưng lại một phần hoặc hoàn toàn, dẫn đến sự chết của một số cơ tim do thiếu oxi.

1. Cảm thấy đau ngực dữ dội

Cơn đau bắt đầu từ giữa ngực và kèm theo đó là cơn tức ngực. Người bị đau sẽ có cảm giác ngực như bị bóp nghẹt và cơn đau sẽ kéo dài hơn một vài phút. Bên cạnh đó, cơn đau sẽ tăng dần về cường độ và thêm phần dữ dội.

2. Nhịp thở ngắt quãng không lí do

Nhịp thở có thể bị ngắt quãng cùng lúc với cơn đau ngực. Oxy được lưu chuyển trong máu và khi thiếu oxy, trái tim sẽ ngừng bơm máu, dẫn tới hiện tượng thiếu oxy gây ra nhịp thở ngắt quãng.

3. Cơn đau lan rộng

Cơn đau bắt đầu ở một điểm và lan ra khu vực xung quanh. Cơn đau thường lan lên vai trái, xuống mặt trong cánh tay trái và bàn tay trái. Đau cũng có thể lan ra sau lưng hoặc lan lên cằm, cổ tới răng. Người bệnh có thể đau đến mức vã mồ hôi, khó thở, ôm lấy ngực.

4. Dấu hiệu kèm theo

Trước khi lên cơn đau, Bệnh nhân thường có các biểu hiện chóng mặt, buồn nôn, ngất xỉu, vã mồ hôi và hơi thở dồn dập. Những triệu chứng này thường bị hiểu nhầm là do rối loạn tinh thần, và hay bị bỏ qua.

5. Da nhợt nhạt

Đây là kết quả của việc máu không được vận chuyển tới tim. Cơn đau càng kéo dài, da mặt của bệnh nhân càng tái nhợt. Trong trường hợp này, bệnh nhân cần phải được đưa tới bệnh viện ngay lập tức và nhận được sự hỗ trợ từ các nhân viên y tế.

6. Lo lắng không lí do và cảm thấy hoảng loạn

Khi một cơn đau tim sắp xảy ra, bệnh nhân cảm thấy lo lắng và hoảng loạn. Trong nhiều trường hợp, đi kèm với biểu hiện lo lắng là làn da ướt đẫm mồ hôi lạnh.

Khác với một số nhận định, thực tế, cơn đau tim không bắt đầu với biểu hiện đau tức ngực mà có thể cơn đau còn diễn ra không kèm triệu chứng nào cả. Điều này hay đặc biệt xảy ra ở những bệnh nhân mắc tiểu đường. Ở những bệnh nhân không mắc tiểu đường, cơn đau tim có thể xảy ra sau những cơn đau nhẹ và cuối cùng là nhồi máu cơ tim.

Nếu bệnh nhân không được hỗ trợ y tế kịp thời, hậu quả từ cơn đau là rất nghiêm trọng. Do vậy, các dấu hiệu đau nhẹ và triệu chứng bất thường cần được đặc biệt lưu tâm.


Theo EasyGoodHealth

28/03/2014

Những dấu hiệu báo bệnh 
nghiêm trọng khi ngủ dậy

 


Nghiên cứu chứng minh nhiều triệu chứng đặc biệt của bệnh sẽ lộ diện vào buổi sáng sớm, kể cả người mạnh khỏe cũng không ngoại lệ. Hiểu sớm về các triệu chứng biểu lộ bệnh tật này sẽ kịp thời phát hiện ra bệnh nguy hiểm đang tiềm ẩn trong đó.

Mệt vì tỉnh giấc sớm

Nếu 4-5 giờ sáng ngủ mơ rồi tỉnh giấc, thấy mệt mỏi mất sức, khó tiếp tục chìm vào giấc ngủ, sau khi thức dậy tâm trạng không thoải mái và cảm thấy buồn phiền không vui thì đó là hiện tượng mất ngủ vào sáng sớm.

Theo các chuyên gia, mất ngủ sáng sớm hay gặp ở người người rối loạn về tinh thần, nhiều phiền muộn, đặc biệt gặp nhiều ở những người bị trầm cảm. 

Biểu hiện sớm nhất của rối loạn tâm lý ở một số người là mất ngủ vào buổi sáng, kèm theo lo lắng bất an. Nặng sẽ dẫn đến rối loạn tinh thần và có liên quan đến chứng mất trí nhớ. Vì vậy mất ngủ vào sáng sớm không phải là hiện tượng bình thường như bao bạn trẻ nghĩ.

Hoa mắt, chóng mặt

Trong trường hợp bình thường, buổi sáng đầu óc luôn tỉnh táo, thông suốt. Nếu sau khi thức dậy não nặng như chì, không tỉnh táo hoặc có hiện tượng hoa mắt chóng mặt, có thể do chất xương đốt sống cổ tăng sinh, gây chèn ép động mạch cổ, ảnh hưởng đến cung cấp máu cho não.

Ngoài ra, khi độ kết dính trong máu tăng cao thì lưu lượng máu chảy chậm, hàm lượng ô xy trong máu thấp và ảnh hưởng không tốt đến não cung cấp ô xy, máu. Giờ cao điểm của độ kết dính máu thường xuất hiện vào buổi sáng.

Phù thũng

Thông thường, người mạnh khỏe khi thức dậy cũng bị phù thũng nhẹ, nhưng vận động xong, phù thũng sẽ biến mất trong 20 phút. Nếu sau khi thức dậy, phần mặt vẫn bị sưng, đặc biệt là sưng ở mí mắt, điều này thể hiện bệnh thận hoặc bệnh tim. Người có triệu chứng này nên đến bệnh viện kiểm tra tình trạng của thận và tim.

Người đơ cứng  

Người đơ cứng là chỉ sáng sớm sau khi thức đậy cảm thấy khớp, cơ thịt toàn thân đơ cứng, hoạt động bị hạn chế. Sau khi hoạt động, khớp và cơ thịt mới dần dần giãn rộng. Thông thường, nếu toàn thân đơ cứng, khớp hoạt động không linh hoạt, điều này cho biết có thể bệnh phong thấp, viêm khớp, chất xương tăng sinh đang làm phiền vv. Một số người có tiền sử dị ứng như viêm cơ da, vết ban đỏ, da xơ cứng… cũng có hiện tượng người đơ cứng vào sáng sớm.

Đói

Một số người 4,5 giờ sáng tỉnh dậy cảm thấy bụng đói cồn cào đến mức khó chịu, tâm trạng lo lắng, bất an, còn kèm theo mệt mỏi, mất sức. Nếu ăn một thứ gì đó, triệu chứng đói mới giảm đi, tuy nhiên miệng vẫn khát lưỡi vẫn khô, muốn uống nhiều nước, phải ăn sáng đầy đủ xong mới dần dần mất đi. Đây chính là biểu hiện của bệnh tiểu đường.

Nếu đã bị bệnh tiểu đường, sáng sớm lại xuất hiện những triệu chứng này, chứng tỏ cách uống thuốc và liệu lượng thuốc đều không ổn.
Những sai lầm hay mắc phải 
khi uống nước

 
Xem hình
 

Thích uống nước trong chai nhựa, không khát không uống nước, không uống nước vào buổi sáng... là những thói quen không tốt đối với sức khỏe.



1. Thích uống nước trong chai nhựa

Những chiếc chai nhỏ gọn thường được teen chúng mình yêu thích. Nhưng coi chừng nhé, chai nhựa được làm từ polyester có thể gây hại cho cơ thể khi gặp nhiệt độ cao nếu như chúng không được sản xuất đúng theo quy chuẩn. Để đảm bảo an toàn, tốt nhất nên uống nước bằng cốc thủy tinh hoặc những loại bình nước chuyên dụng có đủ chứng nhận về vệ sinh an toàn thực phẩm.

2. Không khát không uống nước

Đa số chúng ta đều uống nước khi thấy khát, thậm chí là khát đến cháy cổ, khi mà lượng nước trong cơ thể đã bị mất đi 1%. Thói quen này không tốt cho sức khỏe chút nào. Nước không phải đơn thuần chỉ là uống để giải khát mà nó còn “can thiệp” vào sự trao đổi chất của cơ thể. Thiếu nước trong thời gian dài có thể dẫn tới tình trạng cơ thể mệt mỏi, kiệt sức và nguy cơ mắc bệnh về tim mạch cao. Do đó, nên uống nước thường xuyên bất kể là khi khát hay không, nhằm giúp cơ thể nạp đủ lượng nước cần thiết.

3. Uống nước ngọt có ga, sinh tố thay nước lọc

Các loại đồ uống này không những không có tác dụng bổ sung lượng nước thiếu hụt cho cơ thể mà còn làm giảm cảm giác thèm ăn, ảnh hưởng đến hệ tiêu hóa và trao đổi chất. Nên nhớ rằng, thức uống này không thể thay thế được cho nước lọc. Bạn có thể thỉnh thoảng uống chúng để thỏa mãn cơn thèm, đó chỉ là đồ uống phụ mà thôi.

Những sai lầm hay mắc phải khi uống nước 2

4. Không uống nước vào buổi sáng

Trải qua một giấc ngủ dài, cơ thể cũng như răng bạn, cần được “vệ sinh” để đào thảo các chất cặn bã ra ngoài và làm tăng dung lượng tuần hoàn máu. Một cốc nước lọc vào mỗi buổi sáng khi vừa thức dậy là bí quyết giúp kéo dài tuổi thọ của người Nhật từ xưa tới nay.

5. Không uống nước ngay khi ăn quá mặn

Ăn quá mặn có thể làm tăng huyết áp, sưng miệng, giảm cảm giác thèm ăn…Nếu thường xuyên ăn mặn hoặc bất ngờ ăn phải món quá mặn, điều cần làm trước tiên là phải uống nước lọc hoặc nước chanh. Không nên uống nước có đường hoặc ăn sữa chua ngay lập tức bởi nó có thể kích thích cảm giác khoang miệng khiến bạn càng thêm khát.

6. Quên uống nước trước khi ngủ

Uống quá nhiều nước trước khi đi ngủ là điều cẩm kị. Tuy nhiên, quên uống nước cũng là điều không nên. Khi ngủ say, nước trong cơ thể vẫn tiến hành quá trình trao đổi chất liên tục, nếu cơ thể thiếu nước quá trình này sẽ bị gián đoạn khiến giấc ngủ không được sâu. Nên uống chút nước trước mỗi giấc ngủ, nó sẽ giúp bạn dễ ngủ và ngủ ngon hơn.

Những thực phẩm 
không nên ăn thường xuyên

Mì chính, mì ăn liền, gan lợn, thịt nướng, dưa muối… là những thực phẩm chúng ta không nên ăn thường xuyên. Những thực phẩm này nếu ăn nhiều không những không có lợi mà còn gây hại cho sức khỏe của bạn.
Mì chính

Việc lạm dụng loại gia vị này có thể làm rối loạn hoạt động của não, mất trí nhớ, gây tổn thương cho gan, thận và cản trở sự tăng trưởng của trẻ em. Tổ chức Y tế Thế giới khuyên rằng, nên hạn chế mì chính chừng nào hay chừng ấy; không nên dùng mì chính cho trẻ dưới 6 tuổi.

Thực tế, nếu dùng quá nhiều hoặc dùng không đúng cách, mì chính có thể gây ra nhiều tác dụng phụ khác nhau. Các tác dụng phụ thường gặp nhất khi tiêu thụ mì chính có thể bao gồm cảm giác nóng rát ở khuôn mặt, cánh tay hoặc ngực; tê bức xạ từ cổ đến tay, ngứa ran ở mặt, cánh tay hoặc cổ, nhức đầu, ngực đau, buồn nôn, tim đập nhanh, buồn ngủ, khó thở và suy yếu. Đặc biệt tình trạng khó thở sẽ trở nên tồi tệ hơn ở những người bị hen....

Mì ăn liền

Mì ăn liền là thực phẩm được chế biến có rất ít giá trị dinh dưỡng. Và nó được coi là đồ ăn vặt. Mỗi bánh mì ăn liền có chứa lượng cao carbohydrate, natri và các chất phụ gia thực phẩm khác, và chứa rất ít yếu tố cần thiết như chất xơ, vitamin, khoáng chất.

Theo khuyến cáo của các chuyên gia dinh dưỡng, bạn có thể mắc bệnh tim mạch, đột qụy, tăng huyết áp, suy giảm chức năng thận, ung thư… nếu tiêu thụ mì ăn liền thường xuyên. Do vậy, người tiêu dùng không nên ăn mì ăn liền vì có hại cho sức khỏe. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng mức tiêu thụ natri cao có liên quan đến một loạt bệnh như cao huyết áp, bệnh tim, đột quỵ và gây tổn thương cho thận.

Gan lợn

Trong cuộc sống hằng ngày, nhiều người rất thích ăn gan lợn vì gan lợn là thực phẩm giàu vitamin A và chất sắt. Tuy nhiên, gan cũng là nơi tập trung các chất cặn bã gây hại sức khỏe. Các ký sinh trùng như sán lá cũng thường trú ngụ ở bộ phận này. Ngoài ra, ở những con lợn bị bệnh, gan sẽ chứa nhiều virut và độc tố gây bệnh.

Theo khuyến cáo của các chuyên gia dinh dưỡng, tuyệt đối không được ăn quá nhiều vì hàm lượng cholesterol trong gan lợn rất cao, có thểgây các bệnh như xơ vữa động mạch và làm bệnh tim nặng hơn, đặc biệt là những người mắc bệnh tăng huyết áp hoặc mạch vành nên hạn chế ăn gan lợn; không ăn gan lợn cùng với vitamin C (gan xào giá đỗ) vì trong giá đỗ có rất nhiều vitamin C, khi xào chung hai loại thực phẩm này, vitamin C trong giá đỗ sẽ bị ôxy hóa hết và món ăn sẽ không còn chất dinh dưỡng.

Thịt nướng

Theo nghiên cứu của các nhà khoa học cho thấy, những người thường xuyên ăn thịt chế biến bằng cách chiên, nướng ở nhiệt độ cao hoặc xông khói có nguy cơ cao bị các bệnh ung thư. Nhiều nghiên cứu đã cho thấy: Khi nướng thịt hoặc cá trên than ở nhiệt độ cao, mỡ nhỏ giọt xuống than hồng sẽ hình thành các phân tử hydrocarbure thơm đa vòng (AHA), đó là những chất gây ung thư. Còn trong lò nướng ở nhiệt độ 80-100độC, chất creatin hay creatinin trong thịt cá sẽ biến đổi thành amin thơm dị vòng. Khi ăn chất này vào gan sẽ biến thành chất độc, đi xuống ruột, gây nguy cơ ung thư đại tràng.

Dứa

Dứa (hay còn gọi là thơm) là một loại trái cây miền nhiệt đới chứa rất nhiều vitamin và khoáng chất vừa có tác dụng rất tốt dể làm đẹp và trị nhiều bệnh như: Tăng sức đề kháng, tăng quá trình phát triển xương, sụn, răng lợi, chữa táo bón, kích thích tiêu hóa…Tuy nhiên nếu không sử dụng dứa một cách khoa học, hợp lý và đúng lượng cần thiết hàng ngày, dứa cũng sẽ là loại thực phẩm gây nguy hiểm đối với sức khỏe của bạn.

Dứa chứa một loại enzyme (men) phân giải protein rất mạnh, giúp cho cơ thể tiêu hóa chất đạm, nhiều hơn là tiêu mỡ. Tuy dứa có nhiều tác dụng, nhưng ăn dứa trước bữa cơm lại dễ bị rát lưỡi và đôi khi dẫn đến dị ứng cấp tốc.

Rau dưa muối

Không nên ăn dưa cà muối xổi vì ngoài những bệnh truyền nhiễm đường tiêu hóa thường gặp (tiêu chảy, lỵ trực khuẩn, tả, thương hàn…), ăn quá nhiều dưa muối xổi còn có nguy cơ mắc ung thư. Bởi các loại nguyên liệu rau củ quả dùng muối dưa thường được bón bằng phân đạm urê nên vẫn còn tồn dư một lượng nitrat đáng kể. Nitric vào dạ dày sẽ kết hợp với các thức ăn thịt, cá, cua, mắm… tạo thành hợp chất nitrosamine, mà nhiều nghiên cứu đã kết luận là chất có khả năng gây ung thư..

Đường và bánh kẹo ngọt

Chất bột đường là nguồn cung cấp năng lượng quan trọng. Tuy nhiên, năng lượng được cung cấp phải tương ứng với hoạt động của cơ thể. Khi dư thừa, một phần gluxít sẽ được dự trữ trong các bắp thịt và gan, phần khác sẽ được chuyển thành axit béo hoặc triglycerit làm gia tăng lượng mỡ trong cơ thể. Do đó, ăn thừa chất đường là một trong những nguyên nhân dẫn đến béo phì, tiểu đường và bệnh tim mạch. Ăn nhiều đường dễ dẫn đến rối loạn chuyển hoá, rối loạn nội tiết và suy dinh dưỡng

Trứng muối

Trứng muối là thực phẩm bổ, dễ ăn nên không chỉ trẻ con mà người lớn cũng rất thích dùng. Tuy nhiên, trong quá trình chế biến, trứng muối có sử dụng xút, vôi muối, chì ô xy hóa để ủ trứng nên không có lợi cho sức khỏe.

Đặc biệt hàm lượng chì nếu thẩm thấu vào cơ thể vượt quá hàm lượng cho phép sẽ gây nên các hiện tượng không tốt cho sức khỏe như: Đau đầu, giảm trí nhớ, ảnh hưởng tới gan, thận... Mặt khác, chì còn ảnh hưởng không tốt tới sự hấp thu canxi.

Công dụng tuyệt vời của trái ớt

Xem hình

   Ớt là một loại quả gia vị phổ biến mà hầu hết mọi người đều biết. Không chỉ giúp bữa ăn thêm ngon miệng, ớt còn có những tác dụng đáng ngạc nhiên mà bạn chưa biết đấy.

1. Chống tiểu đường
   Một công trình nghiên cứu được đăng trên Tạp chí Dinh dưỡng lâm sàng của các nhà khoa học thuộc Trường Đại học Tasmania, Úc vào năm 2011 cho thấy: Thường xuyên ăn ớt có thể giúp cơ thể kiểm soát được nồng độ insulin trong máu, điều này sẽ mang lại lợi ích cho người tiểu đường.
   Theo nghiên cứu này, những người theo chế độ ăn uống có thêm ớt đã giảm được lượng đường trong máu hơn 60% so với những người không ăn. Đây quả là một tin tốt đối với những bệnh nhân tiểu đường.

2. Chống ung thư dạ dày
    Trước đây, nhiều người cho rằng, ăn ớt sẽ làm tăng nguy cơ viêm loét dạ dày. Tuy nhiên, một nghiên cứu kéo dài nhiều năm của Viện Sức khoẻ cộng đồng Mexico đã không phát hiện thấy mối liên hệ này.
Nghiên cứu của các nhà khoa học Mỹ còn cho thấy, chính thành phần capsaicin trong ớt giúp chống lại bệnh ung thư dạ dày. Họ cũng chỉ ra rằng, tỉ lệ mắc bệnh ung thư dạ dày ở Mexico - nơi người dân ăn ớt rất nhiều - rất thấp.

3. Giúp giảm đau
   Chất capsaicin trong ớt còn có tác dụng giảm đau và có liên quan đến thuốc gây tê. Theo các nhà nghiên cứu của Đại học Harvard (Mỹ), capsaicin có thể được sử dụng như cơ quan thụ cảm đau mà không tác động đến dây thần kinh.
   Đó là lời giải thích tại sao nhiều hãng dược phẩm ngày nay dùng ớt chiết xuất lấy thành phần giảm đau để làm thuốc gây mê cho bệnh nhân phẫu thuật, mổ đẻ... Ngoài ra, người ta còn dùng capsaicin để làm kem thoa cho bệnh xương khớp mãn tính, co thắt cơ và đau lưng.

4. Cải thiện hệ tuần hoàn máu
   Hệ tuần hoàn trong cơ thể của chúng ta thường bị tắc do chế độ ăn nhiều mỡ và lối sống ít vận động. Tuy nhiên, thường xuyên ăn ớt sẽ giúp giải độc máu và làm giảm cholesterol, giúp làm sạch mạch máu. Một số người còn dùng trà ớt để phục hồi cho bệnh nhân đau tim.

5. Chống cảm cúm
   Ớt rất tốt cho hệ miễn dịch, chỉ cần ăn một ít ớt hoặc hạt tiêu cũng làm bạn đổ mồ hôi. Điều này giúp bạn làm sạch cơ thể và chống lại cảm cúm. Ngoài ra ớt còn giúp bạn giảm tức ngực và chống lại các bệnh viêm nhiễm ở đường hô hấp.

6. Chống ung thư tuyến tiền liệt
    Một nghiên cứu được xuất bản trên Tạp chí nghiên cứu Ung thư Mỹ kết luận rằng, capsaicin trong ớt ngăn chặn sự phát triển của bệnh ung thư tuyến tiền liệt. Theo tiến sĩ S. Lehmann, tác giả của công trình, để nhận được tác dụng này thì một người đàn ông trung bình mỗi tuần cần ăn khoảng 5 quả ớt.

7. Giúp thư giãn
   Nhiều nghiên cứu cho thấy, ăn ớt còn có tác dụng làm thư thái tinh thần và làm cơ thể dễ chịu.

8. Góp phần chống béo
   Nhiều nghiên cứu đã kết luận rằng, thành phần cay của ớt đã giúp tạo khả năng sinh nhiệt của cơ thể và đốt cháy mỡ cũng như calo. Hơn nữa, nó còn giúp tăng cường trao đổi chất trong cơ thể, tạo cảm giác no, từ đó mà góp phần giảm cân hiệu quả.

9. Giúp ngủ ngon
   Các nhà khoa học Úc đã nhận thấy một nhóm người tình nguyện ngủ dễ dàng hơn khi họ ăn có gia vị ớt. Mỗi ngày 25 người tình nguyện được cho ăn khoảng 30g ớt/người. Kết quả là họ đã ngủ sâu hơn và kéo dài thời gian ngủ trung bình hơn 30% so với người không ăn.

10. Giảm cân
   Qua nghiên cứu, các nhà khoa học đã chứng minh, thành phần chất cay của ớt (chất capsaicin) tạo khả năng sinh nhiệt rất lớn, có tác dụng lan tỏa và đốt cháy các chất béo, đốt cháy nhiều calo hơn ngay sau bữa ăn.
  Ngoài ra, chất này còn giúp làm tăng tỷ lệ trao đổi chất trong cơ thể, tạo cảm giác no và nhờ đó giúp người dùng giảm cân hiệu quả. Khi cơ thể hấp thu chất cay từ ớt, não sẽ tăng cường hoạt động, thúc đẩy sự chuyển tải của hệ thần kinh, làm cho thận tiết ra các dịch thể. Khi thận tiết ra các dịch thể sẽ đốt cháy chất béo, vì vậy có tác dụng giảm béo.

ST

26/03/2014

Bài V. Kỹ thuật khoan lỗ và gia công ren


I. Kỹ thuật khoan lỗ
             1. Khái niệm
             Để tạo nên các bề mặt chìm bên trong vật liệu như lỗ ren, rãnh then, các lỗ định hình, trước tiên người ta phải có một lỗ cơ bản. Để có lỗ cơ bản người ta dùng máy khoan (Hình 5-1)cùng với mũi khoan.
        
                                               Hình 5-1 . Các kiểu máy khoan.

             Tùy theo độ lớn của chi tiết, đặt tính của công việc mà người ta có thể dùng loại máy khoan thích hợp: máy khoan cần, máy khoan đứng, máy khoan bàn, máy khoan cầm tay, khoan quay tay, khoan lắc tay như đã trình bày ở bài 1.
             Mũi khoan được dùng trong gia công nguội là mũi khoan ruột gà , làm bằng thép dụng cụ, thép gió hay bằng hợp kim cứng tùy thuộc vào vật liệu gia công.
             Tùy theo cách gá kẹp mũi khoan trên máy khoan mà mũi khoan có chuôi trụ hoặc chuôi côn.
 +Mũi khoan chuôi trụ có chuôi hình trụ đường kính bằng với kích thước lỗ cần khoan, trên chuôi có ghi các thông số kỹ thuật của mũi khoan như đường kính mũi khoan, vật liệu làm mũi khoan, nhãn mác nhà chế tạo, Mũi khoan chuôi trụ được lắp trên máy thông qua một bộ phận kẹp gọi là cối kẹp mũi khoan . ( Hình 5-2)
           
             Hình 5-2 . Mũi khoan chuôi trụ và cối kẹp mũi khoan.  
                                             
+ Mũi khoan chuôi côn có chuôi hình côn với góc côn được tiêu chuẩn hoá gọi là côn Morse, đoạn hình trụ ở giữa lưỡi cắt và chuôi có ghi các thông số của mũi khoan, mũi khoan có thể được lắp trực tiếp trên máy hoặc thông qua  một hoặc nhiều chi tiết chuyển đổi gọi là áo côn.( Hình 5-3)
        
                          Hình 5-3 . Mũi khoan chuôi côn và các kiểu áo côn.    
                                         
             2. Kỹ thuật
             + Gá đặt chi tiết
             - Gá đặt chi tiết trực tiếp trên bàn máy
             Khi gia công lỗ trên máy khoan cần, máy khoan đứng và máy khoan bàn, chi tiết có thể được đặt trục tiếp trên bàn máy và được kẹp chặt  nhờ các chi tiết kẹp chặt là bu lông, vấu kẹp ( Hình 5-4). Cách gá kẹp này vững chắc nhất, nhưng cần lưu ý thoát mũi khoan không cho cắt vào mặt bàn máy khi khoan lỗ thông bằng cách cho mũi khoan lọt rãnh bàn máy nếu mũi khoan có đường kính nhỏ hơn rãnh bàn máy hoặc kê chi tiết cao lên khỏi mặt bàn máy một khoảng thoát mũi khoan.
                      
                                                  Các dụng cụ gá kẹp thường gặp. 
                                                                                                                                          
    
                                                                                                   a) kẹp đúng            b) kẹp sai
                  Hình 5-4 . Các dụng cụ kẹp và cách gá kẹp chi tiết trực tiếp trên bàn máy khi khoan.    

              - Gá đặt chi tiết thông qua đồ gá
             Tùy theo sản lượng của chi tiết gia công  mà  người ta dùng loại đồ gá thích hợp: đồ gá vạn năng gồm có các loại ê tô hoặc đồ gá chuyên dùng
             Trong thực tế sản xuất người ta thường dùng ê tô để gá kẹp các chi tiết khi khoan, đối với ê tô nguội thì phải lắp chặt trên bàn nguội, ê tô máy phải được lắp chặt trên bàn máy. (Hình 5-6)
 
                                       Hình 5-5 . Các kiểu Ê tô thường dùng trên máy khoan.    
  
                              
                                       a) sai                        b) đúng
                                   Hình 5-6 . Cách gá chi tiết với ê tô khi khoan.  
             - Một số lưu ý trong gá đặt chi tiết khi khoan
             . Đối với các chi tiết có bề dày nhỏ (mõng) để cho quá trình khoan được dễ dàng và không gây biến dạng chi tiết gia công  ta có thể kẹp chi tiết giữa hai tấm gỗ để khoan.
             . Các chi tiết tròn xoay có thể được gá vào rãnh bàn máy hoặc dùnh khố V để không bị xê dịch khi khoan.
             + Mài mũi khoan
             Kết cấu chung của mũi khoan ruột gà gồm có hai rãnh xoắn cách nhau bởi hai me trên có mang hai lưỡi cắt hông, rãnh xoắn tạo nên mặt trước của lưỡi cắt chính của mũi khoan. Phía mặt đầu của mũi khoan được mài côn để tạo mặt sau của lưỡi cắt chính, giao tuyến của hai mặt sau của hai lưỡi cắt ở ngay giữa đỉnh mũi khoan được gọi là lưỡi cắt ngang, lưỡi cắt ngang gây cản trỡ rất nhiều trong khi cắt nhưng nó luôn có bởi vì hai rãnh xoắn không thể tiếp xúc nhau được. ( Hình 5-7)
    
                                  Hình 5-7 . Kết cấu lưỡi cắt của mũi khoan ruột gà.

 Để mài sắc mũi khoan khi nó bị cùn thì người ta chỉ có mài mặt sau của hai lưỡi cắt chính. Sau khi mài mặt đầu mũi khoan có dạng mặt côn (kiểm tra bằng cách xem độ đối xứng của hai lưỡi cắt qua trục của mũi khoan) người ta tiến hành mài mặt sau của các lưỡi cắt để tạo góc sau gọi là mài hớt lưng mặt sau, tùy theo mặt sau là mặt phẳng hay mặt cong mà ta có hai cách mài mặt sau.( Hình 5-8), ( Hình 5-9)
          
                          Hình 5-8 . Kiểm tra độ đối xứng hai lưỡi cắt và các thông số cắt của mũi khoan.

             - Mài hớt lưng mặt phẳng
             - Mài hớt lưng mặt cong

                 
                                       Hình 5-9 . Cách mài mũi khoan trên máy mài hai đá.

             + Chế độ cắt khi khoan
             - Tốc độ cắt
             Tốc độ cắt khi khoan phụ thuộc chính vào vật liệu làm mũi khoan, số vòng quay của mũi khoan được chọn theo công thức sau:
                          N £   
             Trong đó :
             . N : số vòng quay của mũi khoan (vòng/phút)
             . [V] : Vân tốc cắt cho phép của vật liệu làm dao ( mét/phút)
             . D : đường kính mũi khoan (mm) (Hình 5-10)
                               
                                       Hình 5- 10. Đo đường kính mũi khoan bằng Pan me.
            
             * Chú ý : tùy theo vật liệu gia công mà người ta có thể tăng hoặc giảm số vòng quay cho thích hợp:
             . Gia công vật liệu mềm có thể tăng số vòng quay của mũi khoan
             . Gia công vật liệu cứng cần phải giảm bớt số vòng quay của mũi khoan.
             - Lượng tiến dao
             Để lấy hết vật liệu trong lỗ khoan thì sau mỗi vòng quay thì mũi khoan phải tiến thêm một khoảng gọi là tiến dao, lượng tiến dao quyết định năng suất, chất lượng bề mặt lỗ khoan và nó phụ thuộc vào năng suất của máy khoan.
             Tiến dao lớn cho năng suất cao nhưng chất lượng bề mặt lỗ khoan kém và đòi hỏi máy có công suất cao.
             Tiến dao nhỏ cho chất lượng bề mặt lỗ khoan tốt, thích hợp cho máy có công suất nhỏ, nhưng chậm, năng suất kém.
             Thông thường lượng tiến dao bằng tay có thể nhận biết bằng mắt, bằng tai như sau:
             . Khi phoi tạo ra khi khoan lớn, cứng, có tiếng lách tách nho nhỏ do phoi bị biến dạng gây ra  , máy bị mất vận tốc( bị chậm lại) có nghĩa là lượng tiến dao quá lớn.
             . Khi phoi tạo ra khi khoan bị vụn, có tiếng rít từ vị trí cắt phát ra có nghĩa là lượng tiến dao quá nhỏ.
             . Tùy theo hiện tượng kể trên mà ta tăng hoặc giảm lực tiến dao cho hợp lý, chú ý phải giữ cho lượng tiến dao đều suốt quá trình khoan bằng cách nhìn kích thước phoi được tạo ra.           
II. Kỹ thuật gia công ren bằng tay
             1. Khái niệm
             Trong các thiết bị cơ khí thì mối ghép bằng ren rất thông dụng, các chi tiết ghép ren thông dụng như vít, đai ốc được sản xuất hàng loạt với giá thành rất rẽ. Nhưng một số chi tiết ghép ren đặc biệt phải được gia công bằng tay như các lỗ ren trên thân máy.
             Để gia công ren trong lỗ (ren trong) người ta có một dụng cụ cắt được gọi là Ta rô. Ta rô thực ra là một con vít có cắt rãnh thoát phoi và tạo các thông số cắt cho lưỡi cắt. Ta rô tay làm bằng thép gió, phía cuối chuôi được phay vuông để kẹp lên tay quay, trên chuôi có ghi các thông số của ta rô như: Kích thước danh nghĩa của ren, bước ren, vật liệu làm ta rô, nhãn mác của nhà chế tạo. Ta rô có thể có một cây hoặc một bộ gồm hai đến ba cây. Để có thể cắt được người ta phải có tay quay ta rô, tùy theo vị trí lỗ ren mà ta có tay quay thích hợp, nhưng tất cả tay quay ta rô đều phải có ngàm kẹp hình vuông để kẹp lên phần phay vuông của chuôi ta rô. (Hình 5-11)
                                         
                                                    Hình 5-11 . Ta rô và tay quay ta rô.

             Để gia công ren trên trục ( ren ngoài) người ta dùng một dụng cụ cắt được gọi là Bàn ren (Phi-de). Bàn ren thực ra là một con đai ốc được khoan các rãnh thoát phoi và để tạo các thông số cắt cho lưỡi cắt. Bàn ren có hình dáng bên ngoài rất khác nhau, nếu là hình tròn thì bên hông có khoan lỗ để gá bàn ren lên tay quay, bàn ren được làm bằng thép gió, trên bề mặt bàn ren có ghi các thông số của bàn ren như: Kích thước danh nghĩa của ren, bước ren, vật liệu làm bàn ren, nhãn mác của nhà chế tạo. Bàn ren chỉ có một cái duy nhất cho một kích thước ren. Túy theo hình dáng bàn ren mà ta dùng tay quay bàn ren tương ứng.( Hình 5-12)
               
                                    Hình 5-12 . Các kiểu bàn ren và tay quay bàn ren.

             2. Kỹ thuật
             + Gia công trục ren
             - Chuẩn bị: Gia công trục tròn có đường kính theo kích thước danh nghĩa của ren ( thông thường thì đường kính trục nhỏ hơn kích thước danh nghĩa của ren do phần vát đỉnh ren), vát đầu trục để khi bắt đầu cắt ren dễ hơn.
             - Thao tác: ( Hình 5-13)
             . Kẹp chặt trục ( thường để trục ở vị trí thẳng đứng). Lắp bàn ren vào tay quay cho chặt.
             . Tay thuận cầm lấy bàn ren tại ổ kẹp của tay quay đặt vào đầu trục, ấn nhẹ bàn ren xuống đầu trục và quay theo chiều vặn vào của ren cho bàn ren cắt vào trục khoảng 1 – 2 ren.
             . Dùng hai tay nắm lấy hai tay quay của bàn ren để thục hiện công việc cắt ren, quay theo chiều vặn vào khoảng 1 vòng tròn thì trả ngược ra hơn phần mới vừa cắt để bẻ phoi.
                   
                                 Hình 5-13 . Thao tác cắt ren ngoài bằng bàn ren.

             . Sau khi đã cắt xong ren thì quay ngược ra để lấy bàn ren.
             * Chú ý:
             . Phải thường xuyên trả ngược bàn ren để làm bóng mặt ren và không bị cắt ngược (cháy ren)
             . Dể ren thẳng theo trục thì cần chú ý điều chỉnh bàn ren vuông góc với trục.
             + Gia công lỗ ren
             - Chuẩn bị: Khoan lỗ có đường kính thích hợp. Đường kính mũi khoan có thể được tính toán theo lý thuyết hoặc tra theo bảng. Nều vật liệu cứng thì ta có thể cho đường kính lỗ lớn hơn một chút. Vát miện lỗ bằng mũi khoét chuyên dùng hoặc bằng mũi khoan có kích thước lớn hơn.
             - Thao tác: (Hình 5-14)
             . Kẹp chặt chi tiết cần làm ren. Lắp chặt ta rô vào cán ( chú ý đúng thứ tự cậy ta rô trong bộ có nhiều cây)
             . Tay thuận cầm lấy ổ kẹp ta rô đặt ta rô vào lỗ, ấn nhẹ ta rô vào lỗ và quay ta rô theo chiều vặn vào của ren để cho ta rô cắt vào lỗ khoảng 1 – 2 ren.
             . Dùng cả hai tay nắm lấy hai tay quay của ta rô để thực hiện công việc cắt ren, quay theo chiều vặn vào khoảng 90 – 180o thì trả ngược ra hơn phần mới vừa cắt để bẽ phoi.
      
Kiểm tra độ đồng trục của ta rô                                      Các bước cắt ren trong
                                         Hình 5-14 . Thao tác cắt ren trong bằng Ta rô.
            
             . Sau khi cắt xong cây ta rô trước, thay cây kế tiếp cắt lại cho lỗ ren đạt yêu cầu của mối ghép.
             * Chú ý:
             . Nếu lỗ không thông thì cần phải làm sạch và kiểm tra độ sâu của lỗ trước khi làm ren.
             . Khi cắt phải quay tay quay bằng cả hai tay và lực phải đều để không gây gãy ta rô.
             Cắt ren bằng tay là một dạng cắt định hình có nhiều lưỡi cắt đồng thời tham gia cắt nên nhiệt cắt sinh ra rất lớn, cũng như các dụng cụ cắt này có góc sau bằng 0 nên ma sát giữa dụng cụ và chi tiết rất lớn. Do đó việc bôi trơn làm mát là điều hết sức cần thiết. Nhưng cần lưu ý chấy bôi trơn làm mát phải thích hợp cho từng loại vật liệu gia công:
             - Gia công ren trên thép ta có thể dùng dầu, nhớt, ê mun xi đều được.
             - Gia công ren trên đồng và hợp kim của đồng thì dùng ê mun xi.
             - Gia công ren trên Nhôm và hợp kim nhôm thì dùng dầu hỏa.
             - Gia công ren trên gang thì không cho chất bôi trơn làm mát nào.