14/01/2015

TỪ BI VÀ TRÍ TUỆ



   Như chúng ta đã biết, đạo Phật là đạo giác ngộ. Đức Phật ngồi thiền định dưới cội bồ đề mà được giác ngộ. Ngài đi giáo hóa khắp nơi để truyền đạo giác ngộ nầy. Nhưng sao chúng ta không gọi là đạo giác ngộ mà gọi là đạo Phật. Phật nguyên tiếng Phạn là Buddha, Bud là giác, dha là người. Người giác ngộ đi truyền bá đạo giác ngộ. Nhưng nếu giải nghĩa chữ Phật là giác ngộ thì sợ người ta hiểu lầm. Bởi người làm ăn bất chính không lương thiện, khi có ai nhắc nhở dạy bảo, họ bỏ điều bất chính trở thành người lương thiện thì người ta sẽ nói anh ấy đã giác ngộ rồi. Giác ngộ đó chỉ có nghĩa bỏ cái xấu, cái dở để thành người tốt thôi. Nếu hiểu đạo Phật theo nghĩa giác ngộ như vậy thì đánh giá quá thấp đạo Phật, làm giá trị đạo Phật không có siêu thoát. Bởi vậy trong nhà Phật để nguyên từ Phật.


   Nói Phật chắc quí vị sẽ có nghi. Tại sao bây giờ chúng ta nói đức Phật mà hồi xưa ông bà tổ tiên chúng ta lại nói là Bụt. Như vậy nói Phật trúng hay nói Bụt trúng. Chữ Bụt do chúng ta thấy đạo Phật được trực tiếp truyền vào Việt Nam từ những vị sư Ấn Độ. Ngày xưa ở miền Bắc, vùng Luy Lâu rất phồn thịnh, các sư người Ấn theo người Trung Quốc đi buôn đến đó truyền bá. Các ngài trực tiếp dạy người dân biết đạo Phật, và Đức Phật được gọi là Bụt. Bụt nguyên là Bud, đọc trại đi một tí gọi thành Bụt. Đọc Bụt nghe gần hơn, còn đọc Phật nghe xa quá.



   Vậy đạo Phật có mặt trên đất nước Việt Nam gốc từ người Ấn truyền sang, chứ không phải từ Trung Hoa. Tại sao bây giờ chúng ta đọc là Phật? Ở Trung Hoa từ đời Tống đến đời Minh có in những tạng kinh, dịch từ chữ Phạn, chữ Pali ra chữ Hán, rồi tặng cho Việt Nam. Đời Trần được tặng cho một tạng kinh và sau nầy chúng ta cũng có thỉnh thêm những tạng kinh từ Trung Hoa. Chữ Buddha người Trung Hoa dịch gồm một bên chữ Nhân, một bên chữ Phất. Như vậy Phật là phát sinh từ chữ Hán mà ta đọc theo âm Việt Nam là Phật hay Phật đà.



   Nói đến đạo Phật là nói đến sự giác ngộ viên mãn tột cùng, chớ không phải sự giác ngộ thông thường của thế gian, vì e người ta hiểu lầm nên để nguyên âm là Phật, chớ không nói là giác ngộ.



   Giờ đây chúng ta học Phật phải nói những từ gần thời hiện tại cho dễ hiểu như giác ngộ, trí tuệ để dễ thâm nhập hơn. Vì vậy, chúng ta phải hiểu tường tận gốc của đạo Phật là giác ngộ viên mãn, cho nên lúc nào học Phật ta cũng phải thuộc lòng Phật là tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Cho nên nói đến Phật là nói đến sự giác ngộ viên mãn, tức giác ngộ tròn đầy không thiếu khuyết một gốc cạnh nào.



   Chúng ta học Phật, tu Phật là tu theo đạo giác ngộ. Mà đạo giác ngộ thì dĩ nhiên là trí tuệ là căn bản không thể nào thiếu được. Người tu theo Phật dù xuất gia hay tại gia cũng phải mở sáng con mắt trí tuệ. Chúng ta hãy xét lại xem từ ngày phát tâm tu theo đạo Phật đến giờ đã mở sáng được trí tuệ nhiều hay ít? Có người khi nghe nói đến trí tuệ dường như sợ nên thường hay xưng ngu tăng hay phàm tăng như để nói lên sự khiêm nhường, họ ít nói đến sự giác ngộ. Mà chưa giác ngộ thì chưa phải tu theo đạo Phật. Ở đây, tôi không nói đến giác ngộ mà chỉ nói trí tuệ. Bởi vì trí tuệ mở màn cho giác ngộ cứu kính.



   Chúng ta nhớ lại lời Phật dạy, người tu phải tự giác và giác tha. Tự giác là mở sáng trí tuệ của mình. Giác tha là đem trí tuệ đó đánh thức, cảnh tỉnh mọi người cùng giác ngộ. Tự giác là việc của mình. Giác tha là giúp cho người. Giúp  cho người là lòng từ bi. Cho nên có giác ngộ rồi mới có từ bi. Chưa giác ngộ mà nói từ bi chỉ từ bi gượng thôi. Nếu là một vị Tăng đã thấy bổn phận mình phải truyền bá chánh pháp, phải thực hành hạnh từ bi mà không chịu tu, không thức tỉnh, không chịu giác ngộ thì chẳng biết sẽ thực hành từ bi bằng cách nào? Chẳng lẽ chúng ta đi đắp đất, cuốc đường hay hốt rác cho thiên hạ. Từ bi như vậy người phàm tục cũng làm được mà. Vậy từ bi trong đạo Phật là thế nào? Tôi sẽ nói rõ hơn về vấn đề nầy ở phần sau.



   Bây giờ trở lại phần trí tuệ. Trí tuệ mà Phật dạy cho Tăng Ni là ba môn huệ học: Văn huệ, Tư huệ và Tư huệ.



   Văn huệ là như thế nào
   Chúng ta đến với đạo, tự mình làm sao giác được, phải nhờ những người đi trước như bậc thầy, các hàng tôn túc đã tu, đã học, đã mở được đôi phần trí tuệ hướng dẫn, chỉ dạy cho chúng ta từ từ mở con mắt trí tuệ. Nhờ lắng nghe những lời chỉ dẫn, giảng dạy ấy mà chúng ta mở được con mắt trí tuệ của mình là văn huệ. Người tu cất thất ở riêng, không học hành gì hết chắc chắn sẽ không có văn huệ. Không có văn huệ mà tu chỉ là tu mù. Những người tu nầy khi chỉ dạy cho kẻ khác thì cũng dạy một cách mù quáng mà thôi. Trong kinh Phật nói: “Một người mù dẫn một đám mù, người mù đi trước sụp hầm, những kẻ mù theo sau cũng té xuống hầm luôn”. Người học Phật mà thiếu văn huệ không thể được.



   Trong kinh A Hàm Phật dạy: người cư sĩ đến chùa đầu tiên phải gặp Tăng Ni. Gặp Tăng Ni để thưa hỏi Phật pháp chớ không phải cúng cầu an cầu siêu, như vậy là văn huệ. Sau khi nghe chư Tăng Ni dạy Phật pháp rồi phải suy gẫm lời thầy dạy có đúng với kinh Phật không, có đúng với lẽ thật chân lý không? Nếu đúng mới tin, còn dạy sai lầm thì không tin. Cho nên tư huệ hết sức thiết yếu. Sau khi suy tư nghiệm thấy đúng kinh Phật, đúng chân lý mới tu. Phật dạy cư sĩ còn như vậy huống là tu sĩ xuất gia mà lại thiếu văn, tư, tu. Thế mà có nhiều tu sĩ cứ tự tu không cần học với ai cả thì thật sự hết sức sai lầm.



   Tư huệ
   Phật dạy chúng ta nghe rồi phải suy gẫm đó chính là tư duy, phải là chánh tư duy. Nếu nghe dạy chúng ta tin mà không hiểu, thì đó chưa phải là chánh. Cần phải suy gẫm cho đúng, hiểu cho đúng mới gọi là chánh.



   Hồi xưa lúc còn làm Tăng sinh, tôi cũng học như quí vị. Những gì tôi không hiểu thì tôi hay nghi, nghi thì phải tra tìm. Những năm sơ đẳng, tôi học lý nhân quả luân hồi kỹ lắm, nhưng khi đọc cổ sử Ấn Độ tôi thấy lý nghiệp báo luân hồi không phải mới có từ thời Đức Phật, mà đã có từ thời Áo nghĩa thư của Ấn Độ, tức là trước Phật cả mấy trăm năm. Biết được vậy tôi rất buồn, tôi nghĩ Phật đã giác ngộ rồi sao không lựa cái gì mới mà lấy lại cái cũ của người ta đem ra dạy mình. Có lần tôi đọc cuốn sách có một số học giả phê bình rằng: “Đạo Phật ăn cắp lỳ nghiệp báo của Áo nghĩa thư ra làm của mình”. Tôi đọc đến đó tôi thấy xót quá, khó chịu quá, Đức Phật của mình sao lôi thôi vậy, ăn cắp của người đem làm của mình thì thật là buồn. Lâu nay chúng ta tin rằng đức Phật giác ngộ viên mãn thì cái gì của Phật dạy đều từ trí tuệ giác ngộ của ngài lưu xuất. Thế sao lại ăn cắp của người ta đêm làm của mình, tôi không bằng lòng như vậy.



   Khi lên trung đẳng rồi cao đẳng tôi đã tra hết các bộ kinh A Hàm trong Hán tạng. Khi đọc một lần chưa thấm, đọc hai lần, rồi ba lần, tôi có nguồn an ủi. Trong một bài kinh, đức Phật dạy: “Khi ngài chứng được Thiên nhãn minh rồi, nhìn lại thấy chúng sanh bị nghiệp dẫn luân hồi sanh tử giống như người đứng trên lầu cao nhìn xuống ngã tư đường, thấy kẻ đi đường nầy người đi đường kia một cách rõ ràng không nghi”. Như vậy, sở dĩ Phật nói luân hồi nhân quả hay nghiệp dẫn luân hồi là Ngài thấy rõ ràng chớ không phải ăn cắp như người ta nói xấu.



   Rồi lần lần tôi lại thấy ra, trong Áo nghĩa thư có nói về nghiệp báo luân hồi nhưng chưa phân tích rõ ràng. Nên khi Bà la môn kế thừa tinh thần của Áo nghĩa thư mới đặt ra bốn giai cấp, trong đó Bà la môn sanh ra từ đầu của Phạm Thiên nên được kính trọng nhất. Còn các giai cấp khác được sanh ra từ ngực, từ bụng, từ bàn chân. Sự phân chia giai cấp nầy khiến người dân càng khổ, đó là điều thứ nhất.



   Điều thứ hai họ nói nghiệp báo luân hồi nhưng phải nhờ các vị Bà la môn cầu cúng thì mới hết nghiệp hết tội hoặc phải mở những hội tế đàn nào trâu, dê cúng cho thật nhiều thì mới hết tội. Cả hai điều nầy  đều bị Phật bác hết. Về mặt giai cấp Phật dạy: “Không có giai cấp khi mọi người máu cùng đỏ và nước mắt cùng mặn như nhau”, nên mọi người đều bình đẳng. Cúng đàn để cầu phước Phật cũng bác. 



   Trong một bài kinh có kể: Hôm nọ Phật ở trong rừng với đệ tử, một số thầy Bà la môn đến hỏi Phật:Thưa ngài Cù Đàm, đệ tử Ngài chết ngài cầu cho họ sanh về cõi lành được không? Phật không trả lời mà chỉ hỏi lại: Đệ tử các ông chết các ông cầu cho họ sanh về cõi lành được không? Các vị Bà la môn nói: Được. 



   Lúc đó Phật nói thí dụ: Như một cái giếng sâu có người ôm cục đá bỏ xuống giếng rồi nhờ các ngài cầu cho nó nổi đừng chìm được không? Các vị Bà la môn lắc đầu. Phật hỏi tiếp: Có người cầm chai dầu đổ xuống giếng rồi nhờ các ngài cầu cho dầu chìm xuống đáy giếng được không? Các vị Bà la môn cũng lắc đầu. Phật nói: Cũng vậy, người làm việc lành sẽ sanh giống như dầu nhẹ nổi lên, dầu các vị có ác ý cầu cho xuống địa ngục nó cũng không xuống. Ngược lại người làm dữ họ phải đi xuống giống như đá, dầu các vị có thiện cảm chắp tay cầu nguyện cũng không nổi được. 



   Vậy Đức Phật chấp nhận cầu nguyện hay chấp nhận nghiệp? Nghiệp lành, nghiệp dữ đưa mình lên hoặc lôi mình xuống, chớ không phải cầu nguyện mà được lên hoặc xuống. Vậy, Đức Phật thấy rõ về nghiệp, cho nên Ngài biết manh mối nào đưa chúng ta đi tới cõi lành, manh mối nào đưa chúng ta tới cõi dữ.



   Trong nhà Phật dạy chúng ta tu có ngũ thừa là Nhân thừa, Thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa Bồ tát thừa. Nhân thừa là sanh trở lại làm người. Phật dạy tu giữ năm giới. Năm giới nếu giữ toàn vẹn bảo đảm người đó đời nầy làm người, đời sau trở lại làm người. Tu thập thiện, sau khi mạng chung sẽ sanh lên cõi trời. Như vậy, mỗi một nhân đưa đến một quả, Phật thấy tường tận rõ ràng. Còn Áo nghĩa thư của Bà la môn giáo nói nghiệp báo không phân biệt rành rõ, chưa biết cái gì là nhân, cái gì là quả nên chưa thấu đáo. Như vậy Phật nói nghiệp, nói luân hồi là Ngài thấy tường tận chớ không phải Ngài ăn cắp của người làm của mình. Khi tôi thấy rõ vậy, thì không còn nghi, không còn mặc cảm nữa.



   Ông Galillé vào thế kỷ thứ 18 phát minh ra trái đất quay chung quanh mặt trời. Ai nói sao ông vẫn nhất định là trái đất quay chung quanh mặt trời chớ không phải mặt trời quay chung quanh trái đất. Từ thế kỷ 18 tới bây giờ có nhiều nhà nổi danh nhưng không ai bác bỏ thuyết của ông cả. Bởi vì người trước phát minh đúng thì người sau cũng lấy cái đó làm chuẩn, rồi tùy thấy thêm cái gì thì càng tốt hơn. Thí dụ ngày nay, các nhà thiên văn suy gẫm trái đất quay như vậy, khi nó bị khuất thì có nhật thực, nguyệt thực nên họ ghi ra. Như vậy bổ túc thêm cho đầy đủ, chứ không phải cái trước đúng mà người sau dám sửa. Cái gì là chân lý rồi người sau cũng phải thừa nhận.



   Đức Phật rất khoa học, từ thời Áo nghĩa thư đã có thuyết nghiệp, luân hồi. Sau ngài tu thấy điều đó đúng nên cũng thừa nhận. Nhưng khác hơn là Ngài vạch rõ từng phần, từng chi tiết, thế nào là nhân, thế nào là quả. Ngài phân tích rành cho chúng ta. Đó là tinh thần khoa học chứ không phải học lóm. Từ đó về sau tôi mới hài lòng đức Phật không phải dở như người ta nói.



   Nói về lý nghiệp báo luân hồi, sau khi suy tư kỹ càng rồi tôi thấy đó là một chân lý không chối cãi được, ai có nói gì cũng không lay chuyển được tôi. Đó là một sự thật. Tại sao tôi tin như vậy. Bởi vì kinh nghiệm từ những việc bên ngoài cho tới bản thân mình tôi thấy rõ như vậy.



   Luân hồi là gì? Luân là bánh xe, hồi là xoay tròn. Bánh xe xoay tròn lên xuống lên xuống cứ đảo đi lộn lại hoài. Đối với ngoại vật chúng ta đặt câu hỏi trái đất có xoay tròn không? Trái đất cứ xoay tròn, xoay tròn, vậy nên trái đất luân hồi. Đến con người, chúng ta thấy máu từ tim chạy ra các mạch rồi từ các mạch trở về tim, cứ như vậy đảo đi lộn lại hoài, đó là luân hồi. Rõ ràng con người đang luân hồi, quả đất đang luân hồi, vậy chết có luân hồi không? Tôi nói hai phần:



   1.-Vật chất: Thân chúng ta gồm bốn đại tức bốn chất đất, nước, gió, lửa hợp thành.
   - Những gì là đất? Tóc, lông, gân, móng ,da, thịt, gân, răng, xương… những thứ cứng là đất. Những gì là nước? Mồ hôi, máu mũ.. tức  chất ướt là nước. 
   - Những gì là gió? Hơi thở ra vào là gió. 
   - Những gì là lửa? Hơi ấm trong người là lửa, cầm hai tay chà một hồi nóng lên, đó là phát ra lửa. 
   Đất nước gió lửa sẵn trong con người chúng ta, khi chết bốn thứ đó đi đâu? Nhẹ nhất là hơi thở, lúc sống hít vô trả ra, khi trả ra mà không hít lại là chết. Vậy chúng ta trả ra chớ không phải hết, không phải mất. Thứ hai là hơi ấm trong người, chúng ta chết rồi nó cũng tan vào hư không, theo luồng hơi ấm trong nắng, trong lửa, trở về với lửa. Đến đất, nước khi chết thân nầy nứt nẻ nước tuôn ra, rồi tới đất rã. Nước theo mạch chảy đi khắp nơi không mất. Như vậy tứ đại mất đi chỉ mất cái giả tướng duyên hợp chớ bản chất nó có mất đâu.



   2.-Tinh thần: Tứ đại không mất thì tinh thần có mất được không? Tinh thần đi theo nghiệp duyên của nó. Ví dụ: nước từ thể lỏng đổ vào trong nồi nấu, nước sôi bốc hơi rồi cạn. Nước cạn người ta nói hết nước, nhưng thật ra nước bốc thành hơi bay lên gặp lạnh đọng lại thành nước rơi trở xuống. Hoặc lấy một ly nước để trong tủ lạnh thì nó sẽ đặc thành thể cứng. Như vậy nước không mất mà có thể chuyển biến từ thể lỏng thành hơi hoặc thể rắn. Nước để chỗ nhiệt độ vừa chừng, không nóng quá, không lạnh quá thì nước còn hoài. 



   Cũng vậy, người tu có duyên lành nhiều, nghiệp lành nhiều khi nhắm mắt sẽ đưa tới cõi lành tức lên, ngược lại nghiệp dữ nhiều sẽ đưa tới chỗ dữ tức xuống. Còn nếu tư cách con người  tốt vị lai trở lại làm người như nước giữ quân bình không lạnh nóng thì ở thể lỏng hoài.
  Phật dạy nhân thừa là do giữ đúng năm giới nên đời nầy làm người đời sau cũng được làm người, như nước y nguyên nhiệt độ đừng cao, đừng thấp thì bao nhiêu nước còn nguyên bấy nhiêu. Đó là một lẽ thực không nghi ngờ gì. 



   Chúng ta khi ra đời còn trẻ đáng lẽ ham danh lợi tài sắc thế gian, nhưng tại sao lại ham tu. Như vậy, do trong con người của chúng ta nghiệp từ quá khứ còn lưu lại. Như tôi khi chưa đi tu, mỗi lần qua chùa nghe tiếng chuông thấy xôn xao trong lòng quá. Cái gì làm cho mình bất an, nếu không phải là chủng tử trước kia? Mỗi khi chúng ta ra đời, nghiệp từ quá khứ còn lưu lại trong con người hiện tại chớ không phải mất. 



   Nếu chúng ta nhìn vào một lớp học thì biết rõ sự sai biệt, người giỏi về văn, người giỏi về toán v.v… thầy cô dạy như nhau nhưng điểm riêng biệt lại khác. Cái đó ở đâu ra? Chẳng qua chủng tử từ quá khứ còn lưu lại nơi mỗi người, nên không ai giống ai. Nếu nói do thầy cô dạy mới biết, thì tại sao không biết như nhau mà lại có sự sai lệch. Rõ ràng do chủng tử từ quá khứ chớ không phải ngẩu nhiên. Như những vị thần đồng chưa học đã biết đâu do ai dạy. Đó là chủng tử quá khứ còn nguyên vẹn chưa mất nên ra đời nhớ lại liền. Vậy luân hồi là một lẽ thật, không phải là một nghi vấn nữa. 



   Khi học Phật tôi có suy tư chớ không phải nghe bao nhiêu biết bấy nhiêu thôi, phải tìm phải gẫm cho tới nơi tới chốn, như vậy, chúng ta mới đủ lòng tin Phật. Do đó tư huệ là một điều hết sức thiết yếu.



    Tu huệ
   Tư chí lý rồi đến tu rất dễ, không còn nghi ngờ gì nữa. Ba vấn đề văn, tư, tu đều là trí tuệ. Trí tuệ từ thầy ban cho, trí tuệ do mình suy gẫm, trí tuệ do mình cố gắng thực hành, cho nên ba tuệ học ấy không thể thiếu được. Nhà phật nói trí tuệ có hai phần: một là hữu sư trí, tức trí học nơi thầy như văn, tư, tu. Hai là vô sư trí tức trí sẵn có của mình, không do học. Đó là tam vô lậu học, tức ba môn học giải thoát: giới, định, tuệ. Giới là đức hạnh, định là thiền định, tuệ là trí tuệ. Nhờ giữ giới nên thiền định không bị xao xuyến. Vì vậy, giới trước rồi định sau. Nhờ thiền định nên vô sư trí phát sinh là tuệ. Tại sao thiền định được trí vô sư? Khi thiền không nghĩ gì cả nên được định, được định nên trí sáng giác ngộ, đó là cái trí không thầy.



   Trong kinh có kể lại: đức Phật sau khi thành Phật rồi: Ngài tuyên bố ta học đạo không thầy. Bởi vì bốn mươi chín ngày đêm ngồi dưới cội bồ đề Ngài không học với ai cả, mà nhờ định được giác ngộ nên nói Ngài học đạo không có thầy, Phật viên mãn giác ngộ trí vô sư, ngày nay chúng ta tu muốn giải thoát sanh tử cũng phải đi tới trí vô sư đó, nên nói giới, định, tuệ là ba pháp môn tu được giải thoát. Chữ vô lậu là không còn rơi, không còn rớt lại tam giới nên gọi là giải thoát sanh tử. Như vậy người học Phật phải đủ trí tuệ, từ hữu sư trí rồi tiến tới vô sư trí. Hữu sư trí là nhờ học, vô sư trí là nhờ tu. Đó là hai phần hết sức rõ ràng.



   Điều hệ trọng thứ hai là từ bi. Bởi vì chúng ta không có quyền nghĩ mình tu để hưởng an lạc một mình. Tại sao? Đức Phật ngày xưa đi khất thực là vì sao? Khất thực là gieo duyên với chúng sanh. Tôi nói là lãnh nợ của chúng sanh. Nếu chúng ta tu mà đối với mọi người không có liên hệ, không trao qua đổi lại thì không có gì dính dáng. Mà không có dính dáng thì giáo hóa họ không được, nên Phật dạy tu sĩ phải nhận của đàn na cúng dường. Có những thí dụ rất nghèo cúng dường nhưng chúng ta cũng phải nhận. Nhận để chi? Để người đó gởi mình, mình nhận nợ. Nên từ gieo duyên là nói cho đẹp, thật ra chúng ta nhận nợ. Có nợ thì mới gặp lại để đền trả.



   Trả nợ có hai cách: nếu chúng ta không tu, không đủ phước đức thì phải mang lông đội sừng để trả nợ. Nếu chúng ta tu hành có phước đức thì trả bằng cách làm thầy. Bây giờ tôi cũng đang trả nợ đó. Bởi vì chúng ta có duyên có nợ với nhau nên mới gặp nhau, còn không duyên không nợ thì không gặp. Gặp để chúng ta giáo hóa, chúng ta chỉ dạy người có duyên với mình. Vì vậy người tu đều phải phát tâm từ bi nhận tất cả những gì của Phật tử gởi gắm. Không phải nhận vì ích kỷ, mà nhận để có duyên  hay có chút nợ nần với nhau, hầu giáo hóa giúp đỡ trên đường đạo.



   Người tu do Phật tử ủng hộ, nếu hiểu đạo rồi lo tu giải thoát, cho về cực lạc, bỏ mọi người ở lại ra sao thì ra, chúng ta có hơi nhẫn tâm không? Mình tu giải thoát nhập Niết bàn không bao giờ trở lại nữa, những người cúng cho mình thấy chúng ta nhập Niết bàn, bỏ họ bơ vơ khốn khổ, thật tội nghiệp cho họ.



   Vì vậy, với tinh thần Phật giáo đại thừa, người tu không thể nhập Niết bàn liền, mà phải đi đi lại lại trong cõi thế gian nầy để giáo hóa, để trả nợ. Đến chừng nào những thí chủ của chúng ta hiểu đạo tu tập được mới yên. Thí dụ: như trong tứ quả Thanh văn, chúng ta quả thứ ba A na hàm thì ít ra đệ tử chúng ta cũng được quả thứ nhất là Tu đà hoàn. Nếu mình tới Bồ tát thập trụ thì đệ tử cũng tới thập tín mới được. Còn nếu chỉ lo cho mình bỏ họ lại, khi tu thiên hạ nuôi, dến thành tựu chúng ta lại hưởng một mình. Như vậy có buồn không? Giả sử tôi là Phật tử tôi cũng không chấp nhận điều đó nữa. Quí thầy ăn gian quá đâu được.



   Vậy có nhiều người tha thiết tu một đời nầy đi về cực lạc cho rồi, ở đây khổ quá. Về bên đó vui có một mình, bỏ người ta ở đây khổ ai mà đành lòng. Thôi thì cùng ở với nhau nhưng ở trong sự tỉnh giác chớ không phải ở trong sự mê mờ, nhớ như vậy.



   Tinh thần từ bi của đạo Phật dạy chúng ta phải làm sao đem lại cho mọi người ánh sáng đạo lý, để cho họ biết được lẽ chân thật, không tạo những điều đau khổ, luôn luôn tiến tới chỗ an vui.



   Lòng từ bi chúng ta không thể nói suông mà phải thể hiện cụ thể. Muốn thể hiện lòng từ bi chúng ta phải thực hành hạnh bố thí: bố thí tài, bố thí pháp, bố thí vô úy. Phải đem của cải hoặc đem chánh pháp mình hiểu hoặc đem sự tốt lành cao quí an ủi người đau khổ, đó mới thể hiện lòng từ bi.



   Bố thí tài phần lớn dành cho cư sĩ, Phật tử vì họ làm ra tiền. Họ mới có điều kiện giúp đỡ người nghèo khổ. Còn các ông sư có làm ra xu con nào! Nếu có chăng cũng ăn mày của đàn na thí chủ chớ đâu phải tự mình có tiền lương mỗi tháng. Hàng Phật tử cũng có người làm ra tiền của, có người nghèo cháy da, vậy làm sao bố thí? Nên Phật dạy tài thí có hai phần ngoại tài và nội tài. Người Phật tử muốn thể hiện lòng từ bi mà không có tiền bạc giúp cho người nghèo đói thì đem công sức của mình ra giúp.



   Người có tiền tới chùa cúng, người không tiền vào chùa làm công quả. Người có tiền cho tiền, người không tiền ra công ủy lạo, khuân vác cũng là bố thí. Không nên hiểu có tiền mới bố thí được là lầm. Đem của bố thí là ngoại tài, đem công bố thí là nội tài, như vậy có ai không làm được hạnh bố thí đâu.



   Bố thí pháp là phần của Tăng Ni. Tăng Ni tu thấy được cái hay, cái cao quí của Phật pháp, rồi đem cái sự hiểu biết đó ban rải cho Phật tử cùng biết cùng nghe. Đem pháp mình đã tu học được chỉ dạy cho người khác gọi là bố thí pháp.



   Bố thí tài, bố thí pháp cái nào quí hơn? Bố thí tài chỉ giúp người bớt khổ trong giai đoạn hiện tại. Còn bố thí pháp thì chẳng những giúp người hết khổ trong hiện tại mà mãi về sau cũng không còn khổ nữa, đó là điểm sâu xa.



   Ví dụ: chú đạp xích lô có một vợ hai con, mỗi ngày đạp xe kiếm được hai ba chục ngàn nuôi vợ con. Nhưng nếu chiều vô quán nhậu hết thì vợ con đói khổ. Người hàng xóm thấy thương, đem ít lít gạo lại cho, đó là bố thí tài. Rồi mai chú đạp xe có tiền cũng nhậu hết như vậy thì sao, cho đến chừng nào mới đủ, chừng nào gia đình mới ấm no. 



   Bây giờ có một thầy, một cô nào đó sáng suốt tới khuyên chú, nói với chú uống rượu có hại gì, bệnh hoạn ra sao, rồi vì uống rượu  mà không đủ tiền nuôi vợ con, làm vợ con đói khổ. Chú nghe hiểu thức tỉnh bỏ rượu. Như vậy, chúng ta chỉ nói chuyện một giờ, nửa giờ mà chú thức tỉnh bỏ rượu. Từ đó làm được bao nhiêu tiền chú đem về nuôi vợ con. Như vậy bố thí pháp có cạn hết không. Chỉ dùng những lời nói những lý lẽ chân thật khuyên người, khi người tỉnh ngộ rồi gia đình hết khổ.



   Còn nếu cho tiền, cho cơm hàng ngày thì họ chỉ hết khổ tạm rồi mai mốt sẽ khổ nữa. Như vậy cái nào hơn. Có kẻ cho rằng tu Phật tiêu cực quá, nhất là Tăng Ni không chịu làm phước, làm việc xã hội, cứ đi nói pháp hoài. Những người tích cực làm việc nầy, việc kia giúp cho đồng bào rất dễ thấy, còn người cứ lo đi nói pháp xem như không có lợi. Nhưng thật tình việc nầy lợi rất lớn. Nên trong hai thứ bố thí: bố thí tài và bố thí pháp thì bố thí pháp là hơn.



   Bố thí pháp là đem lòng từ bi của mình chỉ dạy nhắc nhở mọi người biết tu, chỉ dạy nhiều chừng nào tốt chừng nấy. Giả sử tôi có mười ngàn đồng muốn đem bố thí, nếu mỗi người tôi cho một ngàn đồng, thì cho mười người là hết. Còn tôi bố thí pháp thì quí vị lại một trăm người tôi cũng bố thí trọn, mà một ngàn người tôi cũng bố thí trọn, không có hết. Vậy bố thí pháp là cái bất tận. Chúng ta học đạo phải học cái bất tận, còn những việc có chừng mực, có giới hạn chúng ta làm một phần nhỏ thôi, gốc là phải bố thí pháp.



   Muốn bố thí pháp thì chúng ta phải có học, có tu và có lòng từ bi. Vì vậy, từ bi đi sau trí tuệ. Hai việc đó không tách rời nhau.



   Bố thí vô úy thì sao? Vô úy là không sợ. Chúng ta mang tới cho người ta niềm an ổn không sợ hãi. Không sợ nầy có nhiều thứ: người sợ ma, người sợ rắn, người sợ cọp… đủ thứ sợ. Thí dụ: đối với người sợ ma, chúng ta muốn cho họ khỏi sợ phải giải thích cho họ hiểu ma không đáng sợ. Vì Phật dạy trong lục đạo luân hồi: địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, người, a tu la, trời thì ngạ quỉ là loài quỉ đói đứng thứ hai, người cao hơn ngạ quỉ hai cấp. Mình cao hơn nó mà lại sợ nó thì vô lý quá. Chẳng lẽ ông tỉnh trưởng lại sợ người dân, người lại sợ ma thì thật ngu khờ. Giải thích cho người biết và hết sợ đó là bố thí vô úy. Như có người sợ chết, chúng ta phải giảng giải cho họ hiểu chết là một lẽ đương nhiên thôi, ai rồi cũng phải chết. Phật chết, Bồ tát chết, chư Thánh tăng chết, phàm tăng, phàm ni chết, cư sĩ chết. Đó là chuyện thường, phải chi có người không chết thì mình sợ, ai cũng chết hết thì có chi mà sợ. Đó là bố thí vô úy. Như vậy, bố thí trùm cả bố thí pháp và bố thí vô úy luôn.



   Người tu nếu thiếu hai phần trí tuệ và từ bi thì không xứng đáng là người tu. Vậy mà có nhiều người tha thiết vào thất tu suốt đời, tu tới chết. Nghĩ thế là không có từ bi, không có từ bi mà dám nhận nợ của thí chủ, như vậy có ăn gian không. Đó là điều không hợp lý. Nhập thất tu để sáng đạo là được rồi, nhưng rồi cũng phải đi giáo hóa chớ không được đóng cửa suốt đời.



   Hồi xưa học luật thấy Tỳ kheo không nên đi dép da vì làm tổn thương lòng từ bi. Nhưng khi thấy Bồ tát Văn Thù cởi sư tử, Bồ tát Phổ Hiền cởi voi v.v… tôi sinh ra thắc mắc. Tại sao các Ngài không đứng trên cụm mây thôi được rồi, lại cởi sư tử, cởi voi như vậy các Ngài có từ bi không? Sau khi tra cứu hiểu ra rồi tôi mới thấy có lý. Vì Đức Phật Thích Ca là vị giáo chủ cõi Ta bà, mà dân cõi Ta bà nầy thì can cường, nan điều, nan phục. Chúng sanh ở đây cứng đầu, cứng cổ lắm. Muốn điều phục được phải có trí tuệ vượt bực, nên vị Bồ tát phụ tá thứ nhất cho Đức Phật là Văn Thù. Văn Thù tượng trưng cho căn bản trí. Ngài ngồi trên lưng sư tử để biểu trưng rằng chỉ có trí tuệ mới hàng phục được ma quân, chỉ có trí tuệ mới giáo hóa được chúng sanh can cường khó điều phục nầy.
   Đó là ý nghĩa hết sức thâm trầm. Song vì chúng sanh cõi nầy cứng đầu quá, dùng trí tuệ dạy họ, rồi ít bửa cũng trở lại y cũ phải làm sao đây? Vì vậy, phải có đại nguyện, đại hạnh cho nên bên trái của đức Phật vị Bồ tát thứ hai là Phổ Hiền cởi voi. Vì hạnh lớn mạnh nên tượng trưng cho voi. Voi sáu ngà nghĩa là đem pháp lục độ giáo hóa chúng sanh không biết mệt mỏi. Như vậy, các hình tượng ấy mang ý nghĩa đức Phật vào cõi Ta bà giáo hóa phải có đủ trí tuệ vượt bực, hạnh nguyện to lớn mới giáo hóa được. Nếu không sẽ dễ thối chuyển, dễ chán lắm.



   Đức Phật A Di Đà thì bên phải có Bồ tát Quán Thế Âm, bên trái có Bồ tát Đại Thế Chí. Đức Phật Di Đà, cõi Cực lạc ở cõi tịnh, ở cõi vui. Muốn sang Ta bà là chỗ uế trược độ chúng sanh thì phải có lòng từ bi tràn trề nên tượng trưng cho Bồ tát Quán Thế Âm. Nhưng vì chúng sanh khó độ nên chúng ta thấy vẽ tượng đức Phật A Di Đà ở trên mây duổi tay xuống, còn chúng sanh đang trồi hụp dưới biển mà không chịu trồi đầu lên đưa tay cho Phật vớt, cứ hụp lặn ở dưới hoài. Vì vậy, muốn không thối tâm phải có đại chí tức là chí cứng rắn vững vàng. Dù cho nó khó, nó mê, nó đắm say ngũ dục cũng ráng chờ vớt nó lên. Nếu không có chí lớn thì chán lắm.



   Thí dụ: trong hoàn cảnh xã hội của chúng ta, có người khá giả thấy những đứa trẻ bụi đời lang thang ở góc phố nầy, góc chợ kia muốn gom lại nuôi dạy. Từ một người giàu có, bây giờ cất trại về ở với mấy thằng nhỏ khó dạy như vậy thì phải hi sanh sự an ổn của mình, chấp nhận cảnh khổ. Do đó, phải có lòng từ bi trước, lòng từ bi thật rộng lớn mới làm được việc đó. Mấy đứa nhỏ đem về dạy có dễ đâu. Nhiều khi nó muốn thoi lại mình nữa. Nó là bụi đời mình thương muốn dạy dỗ nó, nhưng nó lại không biết gì, không mang ơn mà còn cự cãi lại với mình. Nếu không có ý chí vững bền sắt đá thì không thể nào làm được. 



   Cũng vậy, Phật tử từ cõi tịnh đến muốn độ chúng sanh cõi uế nầy phải có lòng từ bi, phải có ý chí mạnh mẽ mới độ được. Chúng ta muốn dùng tâm từ bi của mình để giáo hóa chúng sanh khó điều phục đó thì phải có ý chí kiên cường như Bồ tát Đại Thế Chí mới được.



   Tôi nói điều đó có liên hệ với Tăng Ni bây giờ. Liên hệ ra sao? Bởi vì Tăng Ni hiện nay thích học xong, chạy về thành phố học lên cao cấp, rồi đại học. Đại học đạo xong, muốn ra học đại học đời nữa, rồi bay đi Ấn độ, Đài Loan học Tiến sĩ. Khi đó ở thôn quê nhiều Phật tử có chùa mà bị hoại vì không thầy, không cô để hướng dẫn dạy dỗ. Mình cứ lo chạy lên, không ai nghĩ đến người ngóng chờ mình, đang trông chờ mình. Nên tôi nhắc Tăng Ni phải có tâm biết thương những người chờ đợi mình, trông ngóng mình. Học rồi đem sự hiểu biết chánh pháp đó giáo hóa lại những người quanh mình thì dầu không có bằng Tiến sĩ mà giáo hóa được năm trăm, bảy trăm người thì phước đức cũng lớn lắm. Do đó, quí vị thấy trách nhiệm chúng ta không phải đơn giản, không phải lo cho mình có địa vị cao, có chức tước lớn là hay, mà phải làm sao thực tế đời mình đem lợi ích thiết thực cho Phật tử, cho mọi người. Đó mới là giá trị thực, đáng quí.



   Mong tất cả Tăng Ni ở đây hãy nhớ lấy điều nầy mà đem hết tâm nguyện phụng sự chúng sanh để đền ơn chư Phật.



***
Hòa thượng THÍCH THANH TỪ

NHỮNG QUAN NIỆM SAI LẦM VỀ HỒI GIÁO



Rất nhiều người có cái nhìn sai lầm về Hồi giáo. Tất cả những tội ác của IS gây ra hay các tổ chức Hồi giáo cực đoan đã làm (chẳng biết nó có đúng không khi mà toàn báo Tây đưa tin) khiến mọi người sợ hãi và căm phẫn. Liệu đạo Hồi có phải là đạo chỉ biết giết chóc và tàn bạo hay không? 
Bài biên khảo của Nguyễn Hoàng Nam. Xin trân trọng giới thiệu!

QUAN NIỆM SAI LẦM 1: NGƯỜI HỒI GIÁO LÀ NHỮNG KẺ BẠO LỰC, KHỦNG BỐ VÀ/HOẶC NHỮNG KẺ CỰC ĐOAN.

Đây là quan niệm sai lầm lớn nhất về Đạo Hồi, hiển nhiên đó là kết quả mang lại từ việc các phương tiện truyền thông đưa tin về Đạo Hồi một cách rập khuôn và báng bổ như: Một tay súng tấn công một nhà thờ Hồi giáo nhân danh Đạo Do Thái, một du kích Công giáo IRA nổ bom ở một khu đô thị, hay những công dân chính thống Serbia hiếp dâm và giết những người dân thường Hồi giáo vô tội,v.v … Những hành vi đó không thể rập khuôn hoàn toàn một đức tin. Không bao giờ được quy đó là những hành vi tôn giáo của những kẻ phạm tội. Tuy nhiên, bao nhiêu lần chúng ta đã nghe nói đến từ “Hồi giáo, Hồi giáo chính thống, v.v….” gắn với bạo lực.

Chính trị trong cái gọi là “Quốc gia Hồi giáo” có thể hoặc không có bất kỳ cơ sở Hồi giáo nào. Thường thì những kẻ độc tài và chính trị gia sẽ sử dụng tên Hồi giáo cho những mục đích riêng của mình. Chúng ta nên đi sâu tìm hiểu nguồn gốc của Đạo Hồi và phân biệt sự thực về những điều dạy của Hồi Giáo với những gì được phác họa qua các phương tiện thông tin đại chúng. Hồi giáo theo nghĩa đen có nghĩa là “trình lên Chúa” và bắt nguồn từ một từ gốc có nghĩa là “hòa bình”.

Đạo Hồi có thể có vẻ kỳ cục hay thậm chí là cực đoan trong thế giới hiện đại. Có lẽ là bởi vì tôn giáo không chi phối cuộc sống hàng ngày ở phương Tây, trong khi đó Đạo Hồi được coi là một “lối sống” của người Hồi giáo và không có sự phân chia giữa thế tục và thiêng liêng trong cuộc sống của họ. Cũng giống như Thiên Chúa giáo, Hồi Giáo cho phép tranh chiến để tự vệ, bảo vệ tín ngưỡng, hay để dành cho những người bị cưỡng bức phải rời bỏ nơi ăn chốn ở của mình. Hồi Giáo đặt ra luật chiến đấu rất nghiêm ngặt bao gồm sự cấm đoán không được hại đến thường dân và phá hủy mùa màng, cây cối và vật nuôi.

Kinh Koran: ĐẠO HỒI CẤM GIẾT NGƯỜI VÔ TỘI

“Vì cớ Thượng đế, hãy tranh chiến nghịch cùng những kẻ nghịch cùng các ngươi, nhưng chớ vi phạm những giới hạn đã định. Thượng đế chẳng hề thương yêu kẻ vi phạm” (Koran 2:190)

“Nếu kẻ thù chịu hòa thì hãy giải hòa với chúng. Và phó thác cho Thượng đế bởi vì Ngài là Đấng hằng Nghe và hằng Biết mọi việc”(Koran 8:61)

Vì vậy, chiến tranh theo kinh Koran là phương tiện cuối cùng và phải chịu chiếu theo những điều kiện khắt khe của thánh luật. Chữ“Jihad” (thường bị hiểu lầm là “Thánh chiến”) thực sự có nghĩa là“tranh chiến”, và tín hữu Hồi Giáo tin rằng có hai loại jihad. Bên cạnh jihad là sự tranh chiến với kẻ thù nghịch.

Loại jihad thứ hai là sự tranh chiến nội tâm mà tín hữu Hồi Giáo phải đương đầu với những dục vọng bản ngã để có thể đạt đến sự bình an trong tâm hồn.

QUAN NIỆM SAI LẦM 2: HỒI GIÁO ĐÀN ÁP PHỤ NỮ.

Hình ảnh người phụ nữ Hồi giáo điển hình đeo mạng che mặt và bị buộc phải ở nhà và không được phép lái xe là điều quá phổ biến trong tư tưởng của hầu hết các dân tộc. Mặc dù một số quốc gia Hồi giáo có thể có những luật lệ đàn áp phụ nữ, nhưng điều này không nên được xem là bắt nguồn từ Đạo Hồi. Nhiều quốc gia trong số này không bị chi phối bởi bất kỳ loại Shari’ah (Luật Hồi giáo) nào và họ có những quan điểm văn hóa của riêng họ về vấn đề bình đẳng giới.

Mặt khác Hồi giáo quy định những vai trò khác nhau giữa đàn ông và phụ nữ và sự bình đẳng giữa hai phái được nêu trong Kinh Koran và ví dụ của nhà Tiên tri (Phúc lành và Bằng an cho Người). Hồi giáo xem phụ nữ dù độc thân hay đã có gia đình là một cá nhân tự mình có đủ thẩm quyền, kể cả quyền được lưu giữ và cho đi tài sản và lợi tức của mình. Thông thường thì chú rể tặng cô dâu của hồi môn để nàng làm của riêng cho mình. Cô dâu thường vẫn giữ họ của mình hơn là lấy họ chồng. Cả nam lẫn nữ giới thường phải ăn mặc một cách khiêm nhường và tề chỉnh. Lối ăn mặc truyền thống của phụ nữ tại một số quốc gia Hồi Giáo thường là theo phong tục của địa phương. Sứ giả của Thượng đế (Phúc lành và Bằng an cho Người) nói rằng:
“Người hoàn hảo nhất về đức tin giữa các tín hữu là người có phong thái đẹp nhất và đối xử tử tế nhất đối với người vợ của mình”

Bạo lực đối với phụ nữ dưới bất kỳ hình thức nào và việc ngăn cấm phụ nữ theo đuổi ý chí của họ về một mục đích nào đó là điều không được phép. Một cuộc hôn nhân Hồi giáo là một thỏa thuận pháp lý đơn giản, trong đó hai bên được tự do đưa ra các điều kiện.

Các tập quán về hôn nhân theo đó cũng khác nhau ở từng quốc gia. Ly hôn không phải là phổ biến, mặc dù đó là điều được chấp nhận như một giải pháp cuối cùng. Theo Hồi giáo, một cô gái Hồi giáo không bị ép buộc phải kết hôn: cha mẹ của cô gái đơn giải chỉ gợi ý cho cô gái những chàng trai trẻ mà họ nghĩ có thể phù hợp với cô.

QUAN NIỆM SAI LẦM 3: NGƯỜI HỒI GIÁO TÔN THỜ MỘT THẦN LINH KHÁC

Allah đơn giản là một từ Ả rập chỉ tên của Thượng đế. Allah đối với người Hồi giáo là đấng tối cao nhân danh Thượng đế, là một từ Ả rập giàu ý nghĩa, biểu thị Thượng đế là một và duy nhất và không hề có người bạn đường. Nó thực chất giống như từ trong tiếng Do Thái dùng để nói về Thiên Chúa (eloh), giống như từ Chúa Giê-su trong tiếng Ả rập khi cầu nguyện trước Chúa. Thiên Chúa có tên giống hệt nhau trong đạo Do Thái, Cơ đốc giáo, và Hồi giáo.; Allah là tên Thiên Chúa mà người Hồi giáo, Cơ đốc giáo và Do Thái thờ phụng. Người Hồi giáo tin rằng chủ quyền của thánh Allah được công nhận trong việc thờ phụng và trong lời nguyện tuân theo những lời dạy và mệnh lệnh của Người, được truyền tải thông qua những sứ giả của Người và những vị tiên tri được phái đi khắp nơi và ở những thời điểm khác nhau trong suốt lịch sử.

Tuy nhiên, lưu lý rằng Thiên Chúa trong Hồi giáo là Một và Duy nhất. Ngài, Đấng tối cao, không hề mệt mỏi, không có con cái như Chúa Giê-su hay có những người bạn đường, Ngài cũng không có những quy kết thuộc về con người như những tôn giáo khác.

QUAN NIỆM SAI LẦM 4: HỒI GIÁO ĐƯỢC TRUYỀN BÁ BẰNG GƯƠM VÀ KHÔNG DUNG NẠP CÁC TÍN NGƯỠNG KHÁC.

Nhiều nghiên cứu xã hội, sách giáo khoa cho học sinh miêu tả hình ảnh một kỵ sỹ Ả rập một tay mang thanh gươm và một tay mang theo cuốn Kinh Koran để chinh phục và ép buộc những người theo tôn giáo khác phải thay đổi. Tuy nhiên điều này không phản ánh một bức chân dung lịch sử một cách chính xác. Hồi giáo luôn luôn thể hiện sự tôn trọng và sự tự do tín ngưỡng đối với tất cả các tôn giáo. Kinh Koran dạy rằng:

“Thượng đế không cấm các ngươi đối xử tử tế và công bằng với những ai không giao chiến với các người và trục xuất các người ra khỏi nhà cửa của các người vì vấn đề tôn giáo bởi vì quả thật Thượng đế yêu thương những người công bằng.” (60:8)

Tự do tôn giáo được thừa nhận trong Kinh Koran: “Không có việc cưỡng bách tín ngưỡng trong lĩnh vực tôn giáo". Chắc chắn Chân lý và Lẽ phải bao giờ cũng khác biệt với điều ngụy tạo và sự sai lạc (2:256) Nhà truyền giáo đạo Cơ đốc, T.W. Arnold phát biểu trong nghiên cứu của ông về việc truyền bá Đạo Hồi: “.. mọi cố gắng để ép buộc người dân không theo Đạo Hồi phải chấp nhận Đạo Hồi hay sự sắp đặt đàn áp có hế thống nhằm mục đích dập tắt Thiên Chúa giáo, chúng tôi không hề nghe thấy. Nếu các vua Hồi được chọn để kế tục hành động, có lẽ họ đã quét sạch Thiên Chúa giáo một cách dễ dàng như Ferdinand và Isabella loại bỏ Hồi giáo ra khỏi Tây Ban Nha, hay vua Louis XIV đã từ bỏ Đạo Tin Lành …”

Luật Hồi giáo có chức năng bảo vệ tình trạng đặc quyền của các dân tộc thiểu số, và đó là lý do tại sao những nơi thờ phượng không thuộc Đạo Hồi phát triển mạnh khắp thế giới Hồi giáo. Lịch sử đã minh chứng rất nhiều ví dụ về sự dung nạp của Đạo Hồi đối với các tôn giáo khác: khi vua Hồi Omar tham gia Jerusalem năm 634, Hồi giáo đã cho phép tự do thờ phượng đối với tất cả cộng đồng tôn giáo trong thành phố. Công bố với dân chúng rằng cuộc sống và tài sản của họ được an toàn, và những nơi thờ phượng của họ sẽ không bao giờ bị lấy đi, ông ta đã yêu cầu tộc trưởng người Thiên chúa giáo, ông Sophronius, cùng ông ta tới thăm tất cả những nơi linh thiêng. Luật Hồi giáo cũng cho phép những dân tộc thiểu số không theo Đạo Hồi được thiết lập tòa án riêng để thực hiện luật gia đình do chính họ thiết lập. Cuộc sống và tài sản của tất cả các công dân trên đất nước Hồi giáo được xem là thiêng liêng cho dù người đó có là người Hồi giáo hay không.

Hồi giáo không nói đến sự phân biệt chủng tộc, Kinh Koran chỉ nói về quyền bình đẳng của con người và làm thế nào để tất cả các dân tộc đều bình đẳng trước Thượng đế.

“Hỡi nhân loại! TA đã tạo hóa các người từ một người nam và một người nữ và làm cho các người thành quốc gia và bộ lạc để các người nhận biết lẫn nhau như anh em. Quả thật, dưới cái Nhìn của Thượng đế, người vinh dự nhất là người ngay chính và sợ Thượng đế nhất trong các người. Quả thật, Thượng đế Biết hết, Rất Am tường mọi việc” (49:13)

QUAN NIỆM SAI LẦM 5: TẤT CẢ CÁC TÍN ĐỒ HỒI GIÁO ĐỀU LÀ NGƯỜI Ả RẬP

Dân số Hồi giáo trên thế giới là khoảng 1,2 tỷ người. Trên thế giới cứ 5 người thì có 1 người là người Hồi giáo. Họ thuộc nhiều chủng tộc, quốc tịch, và nền văn hóa từ khắp nơi trên thế giới-từ Philippines tới Nigeria – họ có chung một niềm tin vào Hồi Giáo. Chỉ có khoảng 18% sống trong thế giới Ả Rập và cộng đồng Hồi giáo lớn nhất là ở Indonesia. Hầu hết người Hồi giáo sinh sống ở phía đông của Pakistan. 30% số người Hồi giáo sống ở tiểu lục địa Ấn Độ, 20% ở Châu Phi hạ Sahara, 17% ở Đông Nam Á, 18% ở thế giới Ả Rập, và 10% ở Liên Xô và Trung Quốc. Thổ Nhĩ Kỳ, Iran và Afghanistan chiếm 10% trong số phi Ả Rập Trung Đông. Mặc dù có những dân tộc thiểu số Hồi giáo ở hầu hết các châu lục, bao gồm cả châu Mỹ Latinh và châu Úc, nhưng phần lớn tập trung ở Nga và các bang mới độc lập, Ấn Độ và Trung Phi. Có khoảng 6.000.000 người Hồi giáo sống tại Hoa Kỳ.

QUAN NIỆM SAI LẦM 7: TẤT CẢ ĐÀN ÔNG HỒI GIÁO ĐƯỢC LẤY BỐN VỢ

Tôn giáo của Đạo Hồi đã được công khai đối với tất cả các xã hội và ở mọi thời điểm và do đó chứa đựng những yêu cầu xã hội rất khác nhau. Những trường hợp lấy một người vợ khác là có thể nhưng phải được cấp phép, theo Kinh Koran, chỉ với điều kiện người chồng là người cực kỳ công bằng. Không có người phụ nữ nào bị ép buộc kết hôn theo cách này nếu họ không muốn, và họ cũng có quyền loại trừ trường hợp này trong hợp đồng hôn nhân của họ.

Chế độ đa thê là không bắt buộc, và cũng không khuyến khích, nhưng được phép. Hình ảnh “những lãnh tụ Hồi giáo với những hậu cung” là không phù hợp với đạo Hồi, vì một người đàn ông chỉ được phép lấy tối đa bốn vợ chỉ khi anh ta có thể thực hiện đầy đủ các điều kiện nghiêm ngặt việc đối xử với mỗi người vợ một cách công bằng và cung cấp cho mỗi người vợ có chỗ ở riêng biệt, v.v…. Sự cho phép thực hiện chế độ đa thê không liên quan đến sự thỏa mãn đam mê đơn thuần, nó liên quan đến lòng từ bi đối với những góa phụ và trẻ mồ côi. Chính kinh Koran đã giới hạn và đặt ra những điều kiện về việc thực hiện chế độ đa thê của những người Ả Rập, những người đã có đến mười người vợ hoặc nhiều hơn và coi họ như “tài sản” của mình.

Nói một cách trung thực và chính xác, chính Hồi giáo đã quy định, hạn chế và làm cho điều luật này nhân văn hơn, và đề ra quyền và quan hệ bình đẳng cho tất cả các bà vợ. Có nghĩa là, những quy định theo kinh Koran không khuyến khích chế độ đa thê tuy sự tồn tại của chế độ này là cần thiết. Hiển nhiên là luật lệ chung của Đạo Hồi là chế độ hôn nhân một vợ một chồng chứ không phải chế độ đa thê. Chỉ có một tỷ lệ rất nhỏ những người Hồi giáo trên thế giới thực hiện chế độ đa thê. Tuy nhiên, việc cho phép thực hiện chế độ đa thê hạn chế chỉ phù hợp với quan điểm thực tế của đạo Hồi về bản chất của đàn ông và phụ nữ và về những nhu cầu xã hội khác nhau, những vấn đề và các biến thể văn hóa khác nhau.

Vấn đề là, ngoài tính linh hoạt vốn có của Đạo Hồi, đó cũng là cách giải quyết thẳng thắn và đơn giản của đạo Hồi trong việc giải quyết các vấn đề thực tế. Thay vì đòi hỏi phải tuân thủ những yêu cầu giả tạo và hời hợt, đạo Hồi nghiên cứu sâu hơn vào các vấn đề của cá nhân và xã hội, và đưa ra các giải pháp xác thực và trong sạch, những giải pháp có ích lợi hơn rất nhiều so với trường hợp nếu chúng ta lờ đi. Không nghi ngờ gì rằng việc người vợ thứ hai được kết hôn hợp pháp và được đối xử tốt sẽ là một giải pháp tốt hơn việc một người tình nhân không có bất kỳ quyền lợi hợp pháp hay trong tình trạng không ổn định.

QUAN NIỆM SAI LẦM 8: NGƯỜI HỒI GIÁO LÀ MỘT DÂN TỘC MAN RỢ VÀ LẠC HẬU

Trong số những lý do về sự lan truyền nhanh chóng và thanh bình của Đạo Hồi là sự đơn giản của giáo lý Hồi giáo kêu gọi lòng tin vào một Thượng đế duy nhất đáng tôn thờ. Nó cũng liên tục chỉ dẫn con người cách sử dụng sức mạnh của sự tinh thông và óc quan sát. Chỉ trong một vài năm, những nền văn minh vĩ đại và trường đại học đã phát triển, vì theo nhà Tiên tri (Phúc lành và Bằng an cho Người), “mưu cầu tri thức là một nghĩa vụ đối với mỗi người nam và người nữ Hồi giáo”

Sự tổng hợp các quan điểm phương Đông và phương Tây và sự tổng hợp của ý tưởng cũ và mới, đã đem lại những tiến bộ to lớn trong y học, toán học, vật lý, thiên văn học, địa lý, kiến trúc, nghệ thuật, văn học và lịch sử. Nhiều hệ thống quan trọng như đại số, các chữ số Ả rập, và đồng thời khái niệm về số không (một khái niệm quan trọng đối với sự tiến bộ của ngành toán học), được truyền tới trung cổ Châu Âu từ Đạo Hồi. Các dụng cụ tinh vi được dung để thực hiện các cuộc hành trình dài đi châu Âu đã được phát triển, bao gồm các dụng cụ đo tinh tú, thước góc và những bản đồ định vị tốt.

QUAN NIỆM SAI LẦM 9: MÔHAMET LÀ NGƯỜI SÁNG LẬP ĐẠO HỒI VÀ NHỮNG TÍN ĐỒ HỒI GIÁO THỜ PHỤNG ÔNG.

Môhamet (Phúc lành và Bằng an cho Người) sinh năm 570 tại Mecca. Cha ông từ trần trước khi ông ra đời và mẹ ông cũng mất ít lâu sau đó, ông được người bác thuộc bộ tộc Quraysh cao quý nuôi dưỡng. Lớn lên, ông có tiếng là người trung thực và hào hiệp. Các sử gia miêu tả ông là một người điềm tĩnh và trầm tư. Môhamet (Phúc lành và Bằng an cho Người) mang bản chất tôn giáo sâu sắc, và đã từ lâu ghét sự suy đồi của xã hội của mình.

Ông thường có vẻ trầm tư mặc tưởng, và hay vào động Hira gần Mecca tham thiền. Ở tuổi gần 40, trong một buổi thiền, Môhamet (Phúc lành và Bằng an cho Người) nhận được một sứ điệp từ Thượng đế thông qua Tổng thiên sứ Gabriel. Sứ điệp này trong 23 năm liên tục được biết đến như là cuốn Kinh Koran. Ngay khi ông bắt đầu rao giảng những lời ông nghe được từ thiên sứ Garbiel, và thuyết giáo về lẽ phải mà Thượng đế đã tiết lộ cho ông, ông và nhóm tín đồ của mình đã phải chịu hình khắc cay đắng và đến năm 622 Thượng đế đã ra lệnh cho họ lánh nạn.

Phong trào những người “di cư” Hijra, những người rời Mecca đến Medina, đánh dấu sự khởi đầu của kỷ nguyên Hồi Giáo. Vài năm sau đó, nhà tiên tri Mohammet và những tín đồ của ông đã trở về Mecca, tha thứ cho những kẻ thù địch và thiết lập nên Đạo Hồi. Trước khi nhà Tiên tri chết ở tuổi 63, bộ phận lớn của Ả Rập là người Hồi giáo, và trong vòng một thế kỷ sau khi ông mất, Hồi giáo đã lan rộng ra Tây Ban Nha ở phía Tây và lan xa sang phía Đông như Trung Quốc. Ông qua đời với ít hơn 5 tài sản đề tên của mình.

Mặc dù Môhamet (Phúc lành và Bằng an cho Người) được chọn để rao giảng những sứ điệp, ông không được xem là “người sáng lập”ra Đạo Hồi, vì những tín đồ Hồi giáo coi Đạo Hồi là chỉ dẫn thiêng liêng được phái xuống tất cả các dân tộc trước đó. Các tín đồ Hồi giáo tin rằng tất cả các nhà tiên tri như Adam, Noah, Moses, Giê-su, v.v… tất cả đều được phái xuống trần thế để giảng lời mặc khải thiêng liêng cho dân tộc của mình. Mỗi nhà tiên tri được phái xuống dân tộc của họ, nhưng Môhamet (Phúc lành và Bằng an cho Người) được phái xuống tới toàn nhân loại. Môhamet là sử giả cuối cùng và sau cùng được phái đi để truyền tải thông điệp của Đạo Hồi.

Các tín đồ Hồi giáo tôn sùng và kính trọng Ngài (Phúc lành và Bằng an cho Người) vì tất cả những điều ông đã trải qua và sự dâng hiến của ông, nhưng họ không thờ phụng ông. “Hỡi Tiên tri! Thật sự,TA đã cử phái Ngươi làm một nhân chứng, một người mang tin mừng và một người báo trước, và làm một người gọi mời nhân loại đến với Thượng đế theo sự chấp nhận của Ngài; và như một ngọn đuốc phát ra ánh sáng soi đường”(33:45-6)

QUAN NIỆM SAI LẦM 10: NGƯỜI HỒI GIÁO KHÔNG TIN VÀO CHÚA GIÊ-SU HAY BẤT KỲ NHÀ TIÊN TRI NÀO KHÁC

Các tín đồ Hồi giáo tôn sùng và kính trọng Chúa Giê-su, cầu xin Thượng đế ban ân phước và sự bình an cho Ngài, và chờ đợi sự trở lại của Chúa Giê-su lúc Phán Quyết cuối cùng. Họ xem ông là một trong số những sứ giả vĩ đại nhất của Thượng đế đối với nhân loại. Một người Hồi giáo không bao giờ nhắc đến tên của ông một cách đơn giản là “Giê-su” mà luôn kèm theo sau đó cụm từ ‘cầu xin Thượng đế ban ân phước và sự bình an cho Ngài’ (viết tắt là (u) sau đây “upon him be peace’).Kinh Koran khẳng định đức mẹ đồng trinh của Ngài (một chương của kinh Koran có tiêu đề “Maria”) và Maria được coi là người phụ nữ tinh khiết nhất trong mọi tạo vật. Kinh Koran mô tả Lễ Truyền tin như sau:

“Hãy nhớ!” khi các Thiên thần bảo, “Thượng đế đã chọn Nàng, và tẩy sạch Nàng và chọn Nàng (để phụng sự Ngài) hơn những phụ nữ khác trong thiên hạ. Hỡi Maria, Quả thật, Thượng đế báo cho Nàng tin mừng về một Lời phán từ Ngài: Tên của Người là Messiah, (Giê-su), con trai của Maria, (Người) sẽ được vinh danh ở đời này và Đời sau; và sẽ thuộc thành phần của những người ở kế cận Thượng đế. Người sẽ nói với dân chúng lúc còn ấu thơ và lúc trưởng thành và sẽ là một người lương thiện.” Maria thưa: “Lạy Đấng yêu thương của bề tôi! Làm sao bề tôi sẽ có con trong lúc không một người đàn ông nào chạm đến mình của bề tôi?” Thượng đế phán: “Sự việc sẽ xảy ra đúng như thế; Thượng đế tạo hóa bất cứ vật gì Ngài muốn. Khi Ngài quyết định một việc, Ngài chỉ phán: “Hãy Thành!” Thì nó sẽ thành như thế” (Koran 3:42-47)

Chúa Giê-su được sinh ra thông qua sức mạnh kỳ diệu, đã sinh ra Adam (u) mà không cần có cha: “Thực sự, trường hợp của Giê-su giống trường hợp của Adam, Thượng đế tạo Người từ đất bụi, rồi phán cho Người: “Hãy Thành!” và Người thành như thế". (3:59) Với sứ mệnh một nhà tiên tri, Chúa Giê-su (u) đã thực hiện nhiều điều thần diệu. Kinh Koran cho thấy ngài đã nói rằng: "Ta đến với các ngươi với một Dấu hiệu từ Đấng tạo hóa của các ngươi: Ta sẽ lấy đất sét nắn thành hình một con chim cho các ngươi, tiếp đó Ta sẽ hà hơi vào nó, thế là nó sẽ trở thành một con chim thật sự theo Phép của Thượng đế. Và Ta sẽ chữa lành những người mù bẩm sinh và chữa lành những người mang bệnh cùi và Ta làm cho người chết sống lại theo Phép của Thượng đế.” (3:49) Không phải Môhamet (Phúc lành và Bằng an cho Người) cũng không phải Giê-su (u) được tạo ra để thay đổi giáo lý cơ bản của thuyết Thượng đế Duy nhất do những nhà tiên tri trước đó phái xuống, mà để khẳng định và làm mới giáo lý đó.

Trong Kinh Koran đã thuật lại lời của Chúa Giê-su (u): “Để xác nhận lại những điều mặc khải đã được ban xuống trước Ta và giải tỏa một số những giới cấm đã ràng buộc các ngươi trước đây; Và Ta đến gặp các ngươi với một Bằng chứng từ Đấng tạo hóa của các ngươi, bởi thế hãy thành tâm sợ Thượng đế và tuân theo Ta".(3:50) Nhà tiên tri Môhamet (Phúc lành và Bằng an cho Người) nói:“Những ai tin rằng không có thiên chúa nào ngoài Thượng đế, duy nhất không có đồng đẳng, rằng Môhamet (Phúc lành và Bằng an cho Người) là sứ giả của Người, rằng Giê-su là bầy tôi trung thành và sứ giả của Thượng đế, lời của Ngài đã truyền thổi vào Maria và một linh hồn phát ra từ Ngài, và rằng Thiên đường và Địa ngục là có thực, sẽ được Thượng đế đón nhận nơi cực lạc.” (Truyện Thánh Môhamet và tín đồ của ông)

25 địa điểm tuyệt đẹp trên thế giới

1. Hang băng ở Iceland
b2ap3_thumbnail_skaftafell.jpg
2. Đảo Bora Bora, France
b2ap3_thumbnail_05-bora-bora.jpg
3. Vườn quốc gia hồ Plitvice, Croatia
b2ap3_thumbnail_02-plitvice-lake-national-park.jpg
4. Cánh đồng hoa Oài hương ở Provence, France
b2ap3_thumbnail_04-lavender-field.JPG
5. Vườn Quốc gia, Slovenia
b2ap3_thumbnail_08-triglav-national-park.jpg
6. Đường đi dưới vòm cây ở Ballynoe, Bắc Ireland
b2ap3_thumbnail_09-tree-tunnel.jpg
7. Cánh đồng hoa ở Keukenhof , Hà Lan
b2ap3_thumbnail_10-keukenhof.jpg
8. Hồ Misurina, Italy
b2ap3_thumbnail_11-lake-misurina.jpg
9. Nhà thờ Thánh Basil's Cathedral trên Quảng trường Đỏ Moscow, Nga
b2ap3_thumbnail_St-Basils-Cathedral-Moscow-Russia-1920x2560.jpg
10. Hang động bên bở biển Benagil Sea Cave ở Algarve, Bồ Đào Nha
b2ap3_thumbnail_cavernas-incriveis-7.jpg
11. Thị trấn Santorini, Hy lạp
b2ap3_thumbnail_santorini-greece.jpg
12. Hồ muối ở Salar de Uyuni, Bolivia
b2ap3_thumbnail_salar-de-uyuni.jpg
13. Hồ trong hang ở Ik Kil Cenote, Mexico
b2ap3_thumbnail_mexico-cenote.jpg
14. Hang động đá cẩm thạch Marble, Chile
b2ap3_thumbnail_marble-caves-patagonia-chile-6.jpg
15. Sông băng trong hang động Alaska, Mỹ
b2ap3_thumbnail_mendenhall.jpg
16. Hẻm núi Antelope Canyon,  Tây Nam nước Mỹ 
b2ap3_thumbnail_lower_antelope_canyon_478.jpg
17. Con đường qua rừng trúc ở Sagano, Nhật Bản
b2ap3_thumbnail_sagano.jpg
18. Đường hầm dưới vòm hoa ở Wisteria , Nhật Bản
b2ap3_thumbnail_wisteria.jpg
19. Trang trại trồng hoa ở Tomita trên đảo Hokkaido, Nhật Bản
b2ap3_thumbnail_farm-tomita.jpg
20. Bãi biển và bầu trời sao ở Vaadhoo, Maldives
b2ap3_thumbnail_vaadhoo.jpg
21. Bãi biển cát trắng ở vịnh Whitehaven, Australia
b2ap3_thumbnail_Whitehaven-Beach-Australia.jpg

22. Hồ nước muối đỏ ở Hillier, Australia

b2ap3_thumbnail_lake-hillier.jpg
23. Những con đom đóm trong động Waitomo, New Zealand
b2ap3_thumbnail_glowworm.jpg
24. Bờ biển đá ngầm san hô ở Great, Australia
b2ap3_thumbnail_Great-Barrier-Reef-Travel-Diving-Snorkeling-World-Natural-Heritage-Australia1-1920x2560.jpg
25. Quán rượu Green Dragon, New Zealand
b2ap3_thumbnail_hobbit-bar.jpg
TuanLong sưu tầm và lược dịch

12/01/2015

Lục tự đại minh Thần chú


[​IMG]

Kinh Quán Âm của Tây Tạng lai miêu tả:
Chữ OMÏ ( ) có màu trắng, biểu thị cho Thiên Giới.
Chữ MA ( ) có màu xanh, biểu thị cho Tu La đạo.
Chữ NÏI ( ) có màu vàng, biểu thị cho Nhân Gian giới.
Chữ PAD ( ) có màu xanh lục, biểu thị cho Súc Sinh đạo.
Chữ ME ( ) có màu hồng, biểu thị cho Ngạ Quỷ đạo.
Chữ HÙMÏ ( ) có màu đen huyền, biểu thị cho Địa Ngục đạo.
Kinh này lại cho rằng: “Chẳng phải dùng miệng xướng lên Minh Chú này thì mới có công đức. Nếu kẻ nào đeo chú này trên thân, hoặc cột vào tay, hoặc chôn trong da thịt thì cũng tạo được nhân chủng giải thoát khỏi sinh tử”.
Do kết hợp ý tưởng này với giáo lý Tịnh Độ, nhân dân Tây Tạng thường hướng về Đức Liên Hoa Thủ Bồ Tát (Padma Pànïi Bodhisatva) xưng tụng câu chú “OMÏ – MA NI – PÊ MÊ – HUNG” (tức OMÏ MANÏI PADME HÙMÏ) để cầu nguyện ngày sau được vãng sinh về thế giới Cực Lạc (‘Sukha vàti) ở phương Tây do Đức Phật A Di Đà (Amitàbha buddha) làm giáo chủ.

Các vị Đạo sư Tây Tạng đã minh họa Lục Tự Đại Minh Chú như sau:
OMÏ ( ) màu trắng, âm vận thể hiện Thánh Đức của Quán Thế Âm Bồ Tát được phát ra từ Thần lực du hý tự tại. OMÏ là tướng thể của Thiền định viên mãn, hằng diệt trừ tính kiêu ngạo, nhất là tính tự cao của cõi Trời, vì đó là cội nguồn phát sinh phiền não sa đọa (rơi xuống các cõi thấp hơn). OMÏ tiêu trừ kiêu ngạo và nghiệp phiền não. OMÏ đồng với hình tướng và công năng uy lực của vua trời Đế Thích (Indra), vị Thánh của hàng Trời. OMÏ thể hiện cho Bình Đẳng Tính Trí (Samanta jnõàna) hướng dẫn chúng sinh vượt qua phương Nam vào thế giới Chúng Bảo Trang Nghiêm của Đức Phật Bảo Sinh (Ratna Sambhava).
MA ( ) màu xanh lục, âm vận tiêu biểu cho công hạnh, phát sinh từ năng lực Thần thông Từ Bi vô ngại của Quán Thế Âm Bồ Tát, thị hiện trước tất cả chúng sinh. MA là tính thể của Nhẫn Nhục Ba La Mật, có công năng tiêu trừ tính ganh ghét đố kỵ đặc biệt đang ngự trị cõi A Tu La (Asura). MA đồng hóa với Tướng và Dụng của Ngài Dũng Hiền (Vìra Bhadra hay Vemacitra ), vị Thánh trong hàng A Tu La. MA thể hiện cho ánh sáng của Thành Sở Tác Trí (Krïtya musïtïhàna jnõàna) hướng dẫn chúng sinh vượt qua phương Bắc vào thế giới Thanh Tịnh Diệu Hạnh Thành Tựu của Đức Phật Bất Không Thành Tựu (Amogha siddhi).
NÏI ( ) màu vàng, âm vận biểu hiện cho Trí Tuệ bao hàm Thân, Khẩu, Ý, Đức và Hạnh. NÏI hoán chuyển bản tính vượt qua Thế gian luân hồi khổ não. NÏI biểu hiện cho năng lực Thần thông Du Hý rộng lớn bao trùm tất cả, tùy duyên thị hiện của Đức Đại Bi Quán Thế Âm. NÏI là tính thể của Trì Giới Ba La Mật, hay diệt trừ sự si mê, là nguyên nhân đưa đến sự sinh già bệnh chết của loài người. NÏI đồng với hình tướng và công hạnh của Đức Thích Ca Mâu Ni (‘Sàkya Munïi) hóa thân của những vị Thánh trong loài người. NÏI thể hiện ánh sáng Trí Tuệ Thần thông diệu dụng, dẫn dắt chúng sinh vào thế giới Thanh Tịnh Viên Mãn của Đức Phật Thứ Sáu là Ngài Chấp Kim Cương (Vajra dhàra – Trì Kim Cương).
PAD ( ) màu xanh da trời, âm vận tiêu biểu cho bản thân (THÂN) , thể hiện Thần thông du hý bình đẳng vô tận của Đức Đại Bi Quán Thế Âm. PAD là tính thể của Tinh Tiến Ba La Mật có công năng diệt trừ sự vô minh, là nguyên nhân đưa đến các sự khổ đau của cõi Súc sinh. PAD đồng với hình tướng và công hạnh của Ngài Sư Tử Dũng Mãnh (Simïha Ugra hay Dhruva simïha ), vị Thánh trong cõi Súc sinh. PAD là ánh sáng Pháp giới Thể Tính Trí (Dharma dhàtu parakrïti jnõàna) hướng dẫn 06 loài chúng sinh đi vào Thế Giới Trung Ương Mật Nghiêm của Đức Phật Tỳ Lô Giá Na (Vairocana).
ME ( ) màu đỏ, âm vận của ngôn ngữ (KHẨU) biểu hiện cho năng lực Thần thông an lạc vô tận của Đức Đại Bi Quán Thế Âm ban bố cho tất cả chúng sinh. ME là tính thể của Bố Thí Ba La Mật có công năng tẩy trừ tính tham lam, tham dục, keo kiệt là nguồn gốc sinh ra sự khổ não đói khát của loài Ngạ Quỷ. ME đồng hóa với sắc thân và công hạnh của Tiêu Diện Đại Sĩ (Diệm Khẩu – Jvala Mukha ) vị Thánh trong cõi Ngạ Quỷ. ME là ứng hiện của ánh sáng Diệu Quán Sát Trí (Pratyave Ksïana jnõàna) hướng dẫn chúng sinh vượt qua phương Tây đi vào Thế giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà (Amitàbha).
HÙMÏ ( ) màu đen, âm vận của ý, biểu hiện cho năng lực Thần thông du hý của Tâm Từ vô tận mà Đức Quán Thế Âm đã nhìn tất cả chúng sinh như con một của Ngài. HÙMÏ là tính thể của Trí Tuệ Ba La Mật, có công năng tiêu trừ tính giận dữ và thù hận là nguyên nhân đưa đến quả báo phải chịu cực hình khổ não ở cõi Địa ngục. HÙMÏ đồng với sắc tướng và công hạnh của Đức Diêm La Pháp Vương (Yama dharma Ràjà hay Dharmaràja ), vị Thánh cứu tinh cho chúng sinh trong cõi Địa ngục. HÙMÏ là ứng hiện của ánh sáng Đại Viên Kính Trí (Adar’sa jnõàna) hướng dẫn chúng sinh vượt qua phương Đông đi vào Thế giới Diệu Lạc của Đức Phật Bất Động (Aksïobhya).
Ngoài ra, các danh sư Tây Tạng còn cho biết rằng 06 chữ này có rất nhiều nghĩa lý nhiệm màu bí mật, không ai có thể hiểu biết hết được. Tuy nhiên, do câu chú này quá thông dụng lại có công năng vô cùng màu nhiệm nên được nhiều nhà Luận giải giải thích theo sự hiểu biết của riêng mình. Tựu trung đối với giáo đồ Phật giáoTây Tạng thì Lục Tự Đại Minh Chú đã trở thành câu chú tiêu biểu cho Tâm Đại Bi và sự ân sủng của tất cả chư Phật Bồ tát, nhất là ân sũng của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát nhằm cứu độ muôn loài thoát khỏi mọi ách nạn khổ đau, đồng thời nhân dân Tây Tạng rất tin tưởng rằng Bồ Tát Quán Thế Âm là một vị Phật của lòng Bi mẫn, là vị Thần hộ mệnh bậc nhất của dân tộc (Chenresi – Thần Hộ mệnh của Núi Tuyết).
Ngày nay, khắp mọi nơi ở Tây Tạng: trong những điệp khúc cầu nguyện, trên những hòn đá ở những đỉnh núi cao, trên những bia đá, trên những lá cờ, trên vật khí chuyển pháp luân, trên đôi môi của dân chúng … đều có thể nhận thấy sự hiện hữu của Minh Chú này.