Chương XXV
- …Lúc
đó mình đang ở Quảng Trị. Nhận được tin từ trong này báo ra có một chiến sĩ Giải
phóng lạc trong rừng, đã sống hai năm ở vùng rừng ấy, mình nghĩ ngay đến TK1
nhưng không đoán được cậu nào còn sống. Mình điện ra Hà Nội xin phép và tức tốc
vào đây. Đến nơi, vừa lúc cậu Nghĩa mang thư anh mình lên, rồi tiếp sau là thư
của cậu. Cậu không thể tưởng tượng được mình đã mừng đến mức nào... Nghĩa kể
cho mình nghe về anh mình, về con Thủy. Không ngờ việc liên lạc với TK1, công
việc mà hai năm nay nhiều người đã đổ mồ hôi công sức và cả máu nữa, vẫn chưa
làm nổi, thì người anh mình và đứa cháu lại giúp được một cách hết sức bất ngờ...
Anh Hai Nguyên nói đều đều, nhưng ánh mắt anh
nhìn tôi đầy xúc động. Qua lời anh tôi được biết: Sau TK1, đã có ba toán TK nữa
lên đường. TK2 xuất phát đầu năm 1970, nghĩa là sau gần chín tháng không có tin
tức gì về tổ tôi. Họ đi theo đường tây Trường Sơn, tới ngang vĩ độ của vùng tìm
kiếm mới ngoặt về hướng đông. Hai tháng lần mò trong rừng, họ không vượt qua được
những dãy núi hiểm trở phía đất Lào, đành phải quay lại. Khi về tới một đơn vị
bộ đội vận tải, một người đã chết vì sốt rét ác tính. Sau đó ít tháng, toán TK3
đi từ hướng đông lên, có một thanh niên người dân tộc dẫn đường. Toán này biệt
tăm tích. (Về sau lần theo đường đi của họ đến một quả núi lở thì mất dấu vết.
Có thể họ đã bị chôn vùi trong vụ lở núi. Năm đó mùa mưa tới sớm...) Toán TK4
lên đường đầu năm 1971, theo con đường TK1 đã đi. Ngoài mục đích chính, TK4 còn
có nhiệm vụ tìm kiếm tung tích tổ tôi. Nhưng xe chở họ bị phục kích trên đường
vào khe Trầm, hai đồng chí hy sinh và một bị thương. Lúc này các toán trinh sát
của địch đang ráo riết hoạt động, chuẩn bị cho cuộc hành quân "Lam Sơn
719”.
Anh Hai Nguyên cùng bộ phận chỉ đạo phải gấp
rút thành lập tiếp TK5, dự định hết mùa mưa năm nay sẽ ra đi. Công việc đang tiến
hành khẩn trương thì nhận được tin về tôi. Cùng với các đồng chí ở Quảng Nam,
anh tôi chức một đường dây nóng để đưa tôi về. Đến lúc này tôi mới biết việc
đón tôi xuống Đà Nẵng bằng trực thăng là do Thủy đề xuất...
- …Khi TK2 thất bại trở về, - Anh Hai Nguyên
nói tiếp - tức là một năm sau ngày tổ cậu ra đi, mình đã nghĩ các cậu hy sinh cả
rồi. Cậu còn sống sót và trở về được là một điều kỳ diệu nằm ngoài mọi dự đoán
và chờ đợi.
- Em còn sững là nhờ các anh ấy? - Tôi nói,
không ngăn nổi những giọt nước mắt - Nếu không phải em mà anh Đằng hay anh Hùng
còn sống, các anh ấy đã về được sớm hơn...
- Mình hiểu cậu muốn nói gì, - Anh Hai Nguyên
chớp chớp mắt - nhưng cậu cũng đã làm hết khả năng của mình. Trong công việc
này cũng như mọi công tác khác của Cách mạng, không chiến công nào là của riêng
ai. Những thành viên trong các toán TK đều là những chiến sĩ ưu tú được lựa chọn
từ nhiều đơn vị. Sự hy sinh của họ là tổn thất lớn, là cái giá quá đắt mà ta phải
trả khi tiến hành kế hoạch tìm kiếm...
Trong suốt hai ngày, tôi báo cáo với anh Hai
Nguyên về tất cả những gì mà TK1 đã làm từ khi ra đi cho đến nay. Nói báo cáo
cũng được, mà nói kể lại cũng vậy. Ban ngày chúng tôi ngồi bên chiếc bàn nứa để
anh có thể ghi chép, còn đêm đến thì mắc võng chụm đầu vào cây cột giữa lán nằm
nói chuyện. Cũng như đêm nào ở Bãi Hà, nhưng lúc này chỉ còn hai cánh võng.
Đêm nay tôi kể với anh về bác Thành và hai người
con. Suốt từ đầu tới giờ, anh chỉ nghe chứ chưa nói gì. Khi tôi nói hết những
điều bác Thành dặn trước lúc chia tay thì đêm đã khuya. Bên ngoài trời vẫn mưa
mãi. Thỉnh thoảng lại có ngọn gió rung tán cây làm những giọt nước rụng lộp độp
xuống mái lán lợp bằng nứa. Đống lửa giữa lán cháy bập bùng hắt lên những mảng
sáng tối chập chờn, khiến cho những nếp nhăn trên khuôn mặt anh lúc như giãn
ra, lúc như hằn sâu thêm.
Nghe xong chuyện, anh vẫn nằm im lặng. Hồi lâu
sau mới nghe anh thở dài và nói với tôi:
- Vậy đấy! Chỉ một cái gia đình nho nhỏ của
mình mà đã xẩy ra bao chuyện, huống chi cả đất nước này! Chiến tranh làm cho
nhiều nhà ly tán cả trong tư tưởng, tình cảm! Này... - Anh chợt nhỏm dậy, ngồi
trên võng nhìn tôi chằm chằm - Tớ hỏi thật, cậu yêu con Thủy phải không?
- Em... nhưng sao anh biết?
- Hà! Cứ nghe cách cậu kể chuyện là biết!
- Em... em chưa nói gì với Thủy.
- Cần gì phải nói! Không nhất thiết cứ phải
nói ra thành lời mới là yêu. Về con Thủy thì rõ rồi! Nếu không có tình yêu chắp
cánh, chỉ bay bằng động cơ trực thăng, làm sao nó tới được với cậu giữa rừng
sâu?
- Em cũng hiểu là Thủy yêu em, và Thủy chờ đợi
em nói ra tình cảm của mình. Nhưng em không thể...
- Vì sao? Cậu ngại lý lịch phải không?
- Em không hề lo như vậy. Nếu nói yêu nhau mà
còn so đo tính toán đến một điều gì khác, kể cả lý lịch đi nữa, thì chưa phải
là yêu. Hơn nữa, Thủy là người tốt. Những việc cô ấy làm đã chứng minh điều đó.
Dù lớn lên trong đó, nhưng Thủy vẫn trong sáng trong cách nhìn nhận. Và cô ấy
đã đến với Cách mạng bằng tấm lòng trong sáng của mình.
- Đến với Cách mạng, hay chỉ đến với cậu? Hoặc
để tìm tôi người chú của nó? Cậu không nghĩ rằng đấy là những tình cảm riêng tư
sao?
Nhìn ánh mắt chăm chú của anh, tôi hiểu anh hỏi
cốt để tôi nói ra những suy nghĩ của mình. Vì vậy tôi mạnh dạn nói:
- Những tình cảm lớn cũng bắt đầu từ những
chuyện riêng tư như vậy. Đến với Cách mạng bằng con đường dó là sững thật với
chính mình, và là sự gắn bó bền chắc. Chứ ngay từ đầu mà đã hô khẩu hiệu thì...
- Cậu khá lắm! Nhưng dù sao cũng phải xác minh
thêm. Một cô gái có anh là trung úy phi công ngụy đã từng có chiến tích bắn giết
Quân giải phóng và bị Quân giải phóng bắn chết; bản thân cô ta là phi công trực
thăng, được một đại tá ngụy đỡ đầu, từng đi học sáu tháng ở Mỹ, học lái trực
thăng hay còn học gì nữa? Chưa biết! Chỉ cần mấy nét lý lịch như vậy, liệu có
tin được không? Cậu là lính an ninh cơ mà, còn lạ gì nữa!
- Anh không nghĩ tới những việc cô ấy đã làm
ư?
- Sao lại không? Nhưng cũng phải nghĩ, liệu địch
có âm mưu gì trong chuyện này? Biết cậu ở trên đó với một công tác đặc biệt,
nhân việc cậu gặp gỡ với con Thủy mà bố trí cho nó tạo lòng tin với cậu, với tổ
chức để tính kế về lâu dài... Rất lôgíc, phải không?
- Cách phân tích như vậy là đúng, nhưng đó chỉ
là lối tư duy máy móc.
- Lối tư duy đó sai chỗ nào?
- Không phải sai! Nó vẫn rất cần thiết, nhất
là để ta có cách nhìn nhận khái quát vấn đề. Nhưng đánh giá về một con người mà
chỉ như thế thì chưa đủ...
- Cậu cứ nói tiếp đi!
- Em không biết phải... diễn đạt thế nào...
Nhưng ví như lời nói của một người, nếu viết ra giấy, khi đọc lên có thể khác hẳn
so với khi được nghe chính người đó nói. Lúc đó, ta không chỉ nghe mà còn cảm
nhận được từ ánh mắt, nét mặt, giọng nói..., từ đó đánh giá đúng suy nghĩ và
tình cảm của người nói. Cho nên về Thủy, nếu chỉ đọc trên những nét lý lịch tuy
có thật nhưng khô khan ấy thì có thể nghĩ như vậy. Nhưng em đã tiếp xúc với cô ấy,
em hiểu!
Anh Hai Nguyên nhìn tôi, ánh mắt lấp lánh:
- Mình cũng tin như cậu. Nhưng còn những người
không có điều kiện tiếp xúc? Trong trường hợp đó vẫn phải suy nghĩ theo lôgíc,
vẫn phải kiểm tra lại. Có thể thừa, nhưng không được bỏ qua.
- Để làm gì ạ? Dù sao em cũng đã về đến nơi,
còn Thủy vẫn ở lại trong đó...
- Tất nhiên không phải xác minh cho cậu cưới vợ.
Chưa tới lúc, đúng không? Còn để làm gì, sau cậu sẽ biết!
Tia mắt
hóm hỉnh của anh làm mặt tôi nóng bừng.
Sáng nay anh Hai Nguyên đi công tác, dặn tôi ngồi
nhà viết báo cáo. Tôi biết anh vẫn đang lo những việc có liên quan đến số vàng,
vì hôm trước anh có nói thời gian này anh được lệnh chỉ tập trung vào chuyện
đó.
Tôi viết bản báo cáo chỉ hơn hai trang giấy,
thêm bản sơ đồ nữa vừa chẵn ba trang. Liệu ngắn gọn quá không? Nhìn mấy trang
giấy vừa viết, tôi ngần ngừ hồi lâu. Không, như thế đủ rồi! Những việc chúng
tôi làm được, những điều tôi phải chịu đựng trong hai năm rưỡi qua chỉ là ít ỏi
và nhỏ bé so với những gì mà hàng triệu người khác đã làm trong cùng thời gian,
chỉ là một công việc bình thường trong chiến tranh.
Tối đến, anh Hai Nguyên đọc bản báo cáo và đăm
chiêu suy nghĩ. Mãi chẳng thấy anh nới gì, tôi lo quá! Hẳn có điều gì không ổn.
Đắn đo mãi, tôi mới rụt rè nói:
- Anh... cho em viết lại phần kiểm điểm...
Anh ngẩng lên hỏi:
- Cậu định kiểm điểm thêm về chuyện gì?
- Em... thời gian ở trên ấy, em làm nhiều việc
lộ bí mật nên địch nghi ngờ.
- Cái đó cũng có. Nhưng cậu nên nhớ rằng,
chúng ta phải chấp nhận thực tế khách quan, việc gì phải đến thì sẽ đến. Và kiểm
điểm khác với xưng tội. Không phải cứ nhận hết mọi lỗi về mình là thành khẩn,
là dũng cảm. Nhưng thôi! Giờ cậu kể lại cho mình nghe lần nữa những chi tiết có
liên quan đến John Smith...
Nghe xong, anh Hai Nguyên ngẫm nghĩ một lát rồi
nói với tôi:
- Hồi giao nhiệm vụ cho TK1, mình đã đề cập tới
một nhân viên CIA, chắc cậu còn nhớ? - Thấy tôi gật đầu, anh nói tiếp - Chính
Smith đó! Ta đã có một số tài liệu về hắn. Smith là nhân viên tình báo Mỹ hoạt
động nhiều năm ở Philippin, Hồng Công, Đài Loan, rồi đến Nhật Bản trước khi
sang Việt Nam vào năm 1968. Hiện y đang phụ trách một mảng của kế hoạch hậu chiến,
mà việc này hầu như không liên quan gì đến vùng rừng cậu ở. Nếu kết hợp những
tài liệu tình báo ta nắm được và tin tức của cậu, thì có thể nghĩ rằng việc làm
của Smith mang tính chất cá nhân. Có thể Smith biết về chiếc máy bay chở vàng từ
một nguồn nào đó và lén lút tìm mọi cách để tìm kiếm nó. Nhưng muốn kết luận
chính xác, đòi hỏi phải có thêm thông tin và cần có thời gian. Điều đáng lo nhất
là y và kẻ địch nói chung, còn làm gì trên đó sau khi cậu đi rồi? Ta phải trở lại
càng sớm càng tốt để thu hồi số vàng. Cách cậu giấu như thế là kín đáo, chúng
khó phát hiện ra được. Nhưng nếu ta lên đến nơi, đào vàng lên và rơi vào ổ phục
kích của địch, hậu quả sẽ không gì cứu vãn nổi. Chỉ cần chúng cài sẵn một cái
máy gián điệp kiểu như "cây nhiệt đới”, thì sau khi ta tới chưa đầy một giờ
đồng hồ, địch đã có thể đổ quân xuống.
Tôi băn khoăn:
- Giá em ở lại trên đó, chỉ gửi tin về...
- Không được! Dù tin tưởng ở con Thủy, cũng
không thể viết chi tiết để gửi về. Mà như vậy, ở nhà cũng không tính toán được
kế hoạch cụ thể. Với chừng ấy vàng, đâu chỉ vài toán TK là mang vác về được?
Mình đã đề nghị trên chỉ đạo bên tình báo bám sát John Smith. Còn cậu với mình
ngày mai phải ra Quảng Bình. Ở ngoài đó mới có điều kiện chuẩn bị cho kế hoạch
tiếp theo. Ta sẽ lên trên ấy bằng trực thăng.
- Trực thăng - Tôi kinh ngạc kêu lên.
- Chứ sao! Rất phức tạp để bay được đến nơi và
bay về, nhưng chỉ có cách đó thôi. Cậu nghĩ gì mà thừ người ra vậy? Đang nhớ tới
con Thủy phải không?
Tôi bẽn lẽn thú nhận:
- Anh tài thật! Em đang nghĩ nếu có Thủy, và nếu
ông Tùng còn đương chức, ta có thể tổ chức một chuyến bay như vừa rồi, nhưng lần
này sẽ bay thẳng ra Bắc. Trước đây ông Tùng có gợi ý là để Thủy chở em ra tới một
vùng giáp ranh nào đó.
- Cũng là một kế hoạch hay nhưng muộn rồi. Giá
ta nắm bắt được diễn biến tư tưởng của ông Tùng sớm hơn, sẽ tận dụng được nhiều
cơ hội chứ không chỉ trong chuyện này đâu.
- Chuyện về ông Tùng, em thấy thật lạ!
- Nói như ông anh mình mà cậu đã kể thì đây là
một trường hợp đặc biệt. Nhưng cũng có gì khó hiểu. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước của chúng ta đã khá dài, đủ thời gian để thức tỉnh nhiều con người như ông
Tùng. Dù trước đây có lầm lạc, nhưng nếu còn nhớ tới cội nguồn, còn gắn bó với
quê hương, trước sau gì những con người như vậy cũng nhận biết được đâu là lẽ
phải. Ngay cả một số lính Mỹ tham chiến ở Việt Nam cũng nhận ra điều đó, huống
chi người Việt mình! Cho nên chuyện về ông Tùng không có gì đáng ngạc nhiên.
Trong những chuyện cậu đã kể cho mình, cậu có biết lạ nhất là chuyện gì không?
- Anh muốn nói tới chuyện tổ em chạm súng với
thằng Trà?
- Đó cũng là chuyện lạ, nhưng xẩy ra nhiều rồi!
Nói đâu xa, ngay gia đình cậu Nghĩa đấy thôi! Hai anh em ở hai phía, đụng nhau
là bắn nhau chí tử, cách chi đừng được?
- Thế việc gì ạ?
- Chuyện cậu sống một mình trong rừng mà tình
yêu vẫn đến!
Tôi đỏ mặt:
- Nhưng em đâu cố tình...
Anh Hai Nguyên bật cười:
- Ai lại nói "cố tình yêu” hay "vô
tình yêu” bao giờ! Thực ra, có những việc tưởng ngẫu nhiên nhưng lại là kết quả
của một quá trình lôgíc. Trong chuyện này cũng vậy thôi! Nếu cậu không chôn cất
tử tế thằng Trà cùng mấy đứa chết trên chiếc trực thăng ấy, nếu cậu không rộng
lượng với toán lính con Thủy chở lên, và cả với nó nữa, thì nó đâu có đến với cậu?
Chính lòng nhân ái đã kéo hai đứa lại bàn nhau, hiểu nhau, và sau này gì gì nữa
thì tùy cậu với nó. Còn trước mắt, cậu lo cho mình kế hoạch đổ bộ. Không phải
ngay lúc này đâu. Cứ suy nghĩ, ra tới Quảng Bình viết thành phương án cụ thể.
Nhớ là phải tính toán mọi tình huống có thể gặp, và chi tiết tới từng động tác
của mỗi người từ lúc máy bay hạ xuống, cho đến khi nó bay lên. Những phần khác
có người khác lo, được chứ? Thôi, bây giờ ngủ đi? Mai ta lên đường sớm...
Ra tới Quảng Bình, anh Hai Nguyên đi tiếp ra Hà
Nội, còn tôi phải vào bệnh viện. Chỗ bị đánh bên sườn tuy không còn đau, nhưng
nó phồng lên tím ngắt. Phải mổ để lấy cục máu đông trong đó.
Một tuần sau tôi ra viện. Người đón tôi là đồng
chí thiếu tá hôm nào đã đưa chúng tôi vào khe Trầm. Nhìn anh hồi lâu tôi mới nhận
ra. Không phải vì hôm nay anh không đeo cấp hàm, mà vì trên mặt anh có một vết
sẹo dài mới lên da non chạy từ má tới thái dương. Anh bị thương trên đường đưa
TK4 vào khe Trầm.
Tôi
làm phương án đổ bộ, vẽ sơ đồ và đắp sa bàn bằng đất sét. Mấy hôm sau thì anh
Hai Nguyên vào tới, cho biết trên đồng ý với kế hoạch đổ bộ bằng trực thăng, gọi
tắt là kế hoạch TK. Anh không giải thích, nhưng tôi nghĩ chữ TK lúc này có
nghĩa là “Tổng kết việc tìm kiếm", tức là chỉ một lần nữa thôi, và không
được phép thất bại.
Lực lượng đổ bộ cũng được đưa tới, đó là năm
chiến sĩ trinh sát của bộ đội đặc công. Họ đều trẻ khỏe, người lớn tuổi nhất chỉ
bằng tuổi tôi. Tất cả đều được huấn luyện cẩn thận để tác chiến ở địa bàn rừng
núi và đã trải qua chiến đấu. Tôi là người dẫn đường khi đến địa điểm đổ bộ. Đồng
chí thiếu tá làm trưởng đoàn. Lực lượng hơi ít, nhưng tải trọng máy bay có hạn.
Chúng tôi phải mang theo số vũ khí đủ để chiến đấu trong tình huống đột xuất
cùng với những trang bị cần thiết, và lúc về sẽ còn nặng hơn. Riêng hai phi
công và máy bay chưa vào. Họ đang bay tập ở một vùng rừng núi nào đó có địa
hình và điều kiện bay tương tự.
Cả tổ trú tại một khu nhà ở ngoại vi thị xã Đồng
Hỡi, bốn bề có hàng dương liễu bao quanh. Nơi này trước là cơ sở sản xuất của một
xí nghiệp cơ khí đã bị bom đánh sập gần hết, chỉ còn lại mấy gian phòng đầy vết
mảnh bom. Ở đây cách xa khu dân cư. Chính quyền địa phương được thông báo có một
tốp bộ đội công binh về trú ở đó để chuẩn bị cho công tác rà phá bom mìn.
Một trong những việc phức tạp là đưa máy bay
vào đợi sẵn. Đưa vào đã khó, mà ngụy trang cất giấu một chiếc trực thăng ở cái
vùng đã bị bom đạn san thành bình địa này lại càng khó hơn.
Cuối cùng cũng tìm ra địa điểm: đó là cái sân
rộng trong khu nhà bảo tàng trước đây của tỉnh. Ở đấy có sẵn hàng chục xác máy
bay Mỹ đủ loại được chở về để sau này trưng bày. Chiếc trực thăng được sơn lại
như màu máy bay địch, nằm khuất sau những đống xác máy bay và ngụy trang bằng
các mảnh vỡ của chúng. Lũ trẻ chăn trâu phàn nàn rằng mấy ông già gác bảo tàng
mới đổi về khó tính quá, chẳng đứa nào được bén mảng lại gần leo trèo đùa nghịch
như trước. Nghe nói trong đó vừa rồi bị mất trộm. Nhưng bảo tàng sơ tán lâu rồi,
chỉ còn lại những hiện vật chiến tranh cồng kềnh, có gì đâu mà mất?
Khác hẳn với lũ trẻ, mấy tốp khách quốc tế đến
tham quan đều vui vẻ đứng rất xa nhìn vào vì được thông báo trong một xác máy
bay mới chở về có bom chưa nổ, đang tìm cách tháo gỡ.
Theo kế hoạch, lúc tới nơi máy bay sẽ lượn
vòng quan sát trước khi đáp xuống bãi cỏ mà Thủy đã đỗ trực thăng hôm lên đón
tôi. Sau đó hai chiến sĩ trinh sát mang theo súng máy phòng không lên chiếm
lĩnh vị trí cảnh giới ở ụ đại liên. Tôi và ba người khác nhanh chóng lùng sục
xung quanh để phát hiện địch phục kích cũng như các phương tiện máy móc chúng
cài lại. Bốn người còn lại ngụy trang máy bay và cảnh giới tại chỗ. Khi nào thấy
thật sự an toàn mới đào vàng lên chuyển về máy bay.
Để bảo đảm bí mật, tổ đổ bộ không thể luyện tập
ngoài thực địa, trừ một số bài vận động chiến đấu chỉ thực hiện vào ban đêm, và
cũng rất hạn chế. Vì thế, tôi phải thể hiện thật chi tiết địa hình địa vật nơi
đổ bộ trên sa bàn cho mọi người hình dung được từng động tác cần làm. Dưới sự
hướng dẫn của đồng chí thiếu tá, toàn tổ tuân theo một chế độ luyện tập hết sức
khắt khe, nhất là các bài tập thể lực và vũ thuật mà tôi theo đuổi một cách chật
vật. Ngoài ra, để tránh sự tò mò chú ý của người khác, chúng tôi sinh hoạt và
làm việc như một đơn vị công binh thật sự, kể cả việc tiếp xúc với dân. Yếu tố
bí mật phụ thuộc vào tính tự giác của từng thành viên trong tổ.
Nhưng muốn đổ bộ, trước hết phải bay đến đích.
Đó chính là công việc khó khăn nhất. Đường bay dự tính là: Từ Đồng Hới, chúng
tôi bay qua tây Trường Sơn rồi căn theo một trục đường của tuyến đường 559 bay
về phía nam, tới ngang điểm có cùng vĩ độ với khu vực đổ bộ thì ngoặt sang hướng
đông tìm vùng đồi cỏ. Chẳng dễ dàng chút nào khi bay trên một đường bay xa lạ
mà không có dẫn đường từ mặt đất cũng không được liên lạc bằng vô tuyến. Hơn nữa,
phải bay thật thấp để tránh sự phát hiện của ra đa từ các căn cứ của Mỹ đóng ở
Thái Lan lúc bay bên tây Trường Sơn, và từ Đà Nẵng lúc qua đông Trường Sơn. Lại
còn các máy bay trinh sát của địch hầu như thường trực trên các trọng điểm. Bay
thấp trong điều kiện khí hậu và địa hình phức tạp là mối nguy hiểm không nhỏ. Sự
thành công của kế hoạch táo bạo này phụ thuộc vào công tác chuẩn bị, tài nghệ của
các phi công và yếu tố bất ngờ. Ngoài ra cần có một chút may mắn nữa. Phi công
của ta kinh nghiệm bay trong điều kiện như vậy còn hạn chế. Tôi nhớ tới Thủy và
nghĩ rằng nếu có cô lúc này chắc công việc sẽ thuận lợi hơn.
Để giúp phi công định hướng, tại một số điểm
cao dọc theo đường bay ở tây Trường Sơn, sẽ có đốt lửa hoặc bắn pháo hiệu vào
lúc cần thiết. Một số máy phát vô tuyến cũng được bố trí để phát những tín hiệu
quy ước khi máy bay bay qua. Nhận được tín hiệu, phi công sẽ biết mình đang đến
khu vực nào. Tuy nhiên vô tuyến trên máy bay chỉ được phát sóng trong trường hợp
khẩn cấp và lúc đã về tới vùng trời Quảng Bình. Tại một địa điểm ở phía nam đường
Chín có bố trí xe chở xăng chờ sẵn, nếu cần máy bay sẽ xuống tiếp nhiên liệu.
Chỉ sơ qua mấy nét chính cũng đã hình dung ra
khói lượng công việc đồ sộ mà anh Hai Nguyên và các cán bộ có trách nhiệm phải
lo. Sẽ có hàng trăm người tham gia thực hiện kế hoạch mà phần lớn trong số họ
không biết được mục đích cuối cùng của công việc, chỉ biết mình phải hành động
như vậy trong thời điểm như vậy và phải thật chính xác. Ấy là chưa kể làm thế
nào để thông báo cho các đơn vị bộ đội trên dọc tuyến bay không bắn nhầm vào
máy bay ta, nhưng lại phải bảo đảm bí mật ở mức cao nhất. Anh Hai Nguyên nói
đùa rằng ta sử dụng phương tiện hiện đại theo kiểu du kích, vì thế mới vất vả...
Nhưng rồi mọi công tác chuẩn bị cũng hoàn tất.
Trực thăng cùng các thợ máy và phi công đã sẵn sàng. Chỉ còn yếu tố cuối cùng
là thời tiết. Đến bây giờ tôi mới hiểu tường tận thế nào là "thiên thời, địa
lợi, nhân hòa". Gió mùa đông bắc liên tục tràn vào đợt này nối đợt khác.
Nhiều lúc ở Đồng Hỡi trời quang mây tạnh nhưng bầu trời tây Trường Sơn thì dày
đặc mây mù, và ngược lại. Chúng tôi sốt ruột chờ đợi. Càng kéo dài, sự căng thẳng
càng tăng lên. Phức tạp nhất là việc giữ bí mật. Vì vậy ngoài thời gian luyện tập,
tổ đổ bộ phải thay nhau mang máy móc trang bị đi rà phá bom mìn. Làm thật chứ
không phải giả vờ. Cũng tìm bom, cắm tiêu, đào bới, phá nổ... Các chiến sĩ
trinh sát đều là những người thành thạo trong nghề, tôi chỉ là anh lính mới đi
theo học việc, nhưng nhờ đó cũng học hỏi được khối điều.
Công việc vất vả làm tôi nguôi nhớ Thủy. Nhưng
đêm đến, lúc nằm trong chiếc màn của cô, tôi như cảm thấy Thủy đang ở rất gần
bên mình... Tôi nhớ lại khoảnh khắc "hóa thạch" của hai đứa tôi và
nghĩ: giá như hôm đó chúng tôi "bắt đầu” sớm hơn một chút, hay con chó sủa
muộn một chút...
Một buổi chiều vào lúc sẩm tối, tôi cùng anh
em trong tổ đang ngồi tán chuyện trước nhà. Đó là những giây phút nghỉ ngơi thật
sự sau một ngày căng thẳng. Hôm nay có nắng hửng nên bầu trời trong và nhẹ hơn.
Ngày sắp trôi qua, dãy cồn cát ven biển sẫm dần, in những nét cong mềm mại lên
nền trời tím lịm hoàng hôn.
Một chiếc Uoát cắm đầy cành lá ngụy trang từ đằng
xa tiến lại, lao nhanh qua cổng rồi phanh két ở giữa sân. Ai thế nhỉ? Ở đây
không mấy khi có khách, mà lại đến vào giờ này? Chắc có nhân vật quan trọng nào
đến thăm.
Cánh cửa xe mở ra. Từ trên xe, một người con
gái nhảy xuống chạy ào về phía chúng tôi. Tôi bước lên mấy bước rồi đứng sững lại
kinh ngạc. “Trời ôi, Thủy! - Tôi gần như nghẹn thở - Làm sao cô ra được đây?”...
"Anh
Hải...!" Cô reo lanh lảnh và lao tới ôm lấy tôi chặt cứng. Tôi không thốt
nổi lời nào, chỉ nghĩ rằng mình chưa bị hóa đá vì còn cảm nhận được những giọt
nước mắt nóng ấm bên vai và những sợi tóc mềm mơn man trên mặt.
Mấy cậu lính trẻ nín thở chờ đến khi chúng tôi
rời nhau ra mới vỗ tay hoan hô vang dậy. Cảnh nhìn thấy như trong phim. Tôi biết
mặt mình đang đỏ lựng lên, còn Thủy thì luống cuống lau vội những giọt nước mắt.
- Nè, muốn ôm lính của tôi là phải xin phép đó
nghen!
Anh Hai Nguyên xuống xe từ lúc nào, nheo nheo
cặp mắt đứng nhìn hai đứa tôi và trêu bằng giọng Nam Bộ đặc sệt.
- Tại cháu mừng quá... - Thủy bối rối chống chế,
đôi mắt ngời ngời trên khuôn mặt đỏ bừng.
- Sao cậu không dẫn khách vào nhà mà cứ dửng
ngây người ra thế? - Anh Hai Nguyên giục.
Tôi sực tỉnh, vội đưa Thủy đến nơi anh em
trong tổ đang đợi:
- Đây là Thủy mà mình đã kể chuyện...
Mọi người tranh nhau bắt tay cô, xôn xao chào
hỏi. Sự có mặt của một cô gái trẻ nói giọng miền Nam dễ thương làm cho không
khí trong gian phòng đầy vết bom đạn này tươi mát hẳn lên. Đồng đội của tôi đều
tỏ ra quý mến và ngưỡng mộ cô. Còn tôi thì khỏi phải kể, đó là những giây phút
sung sướng thật sự. Tôi hiểu sự xuất hiện của Thủy là có liên quan đến công việc
của chúng tôi, điều mà anh Hai Nguyên đã nói "để sau sẽ biết..." Và
như vậy, bằng cách nào đó cấp trên đã thẩm tra và Thủy được tin cậy hoàn toàn
khi tham gia công tác đặc biệt này.
Tối hôm đó chúng tôi có cuộc họp nhỏ. Thành phần
gồm anh Hai Nguyên, đồng chí trưởng đoàn, tổ lái và Thủy. Tôi được dự với tư
cách dự thính vì nội dung cuộc họp chỉ bàn đến kỹ thuật bay. Trong lĩnh vực
này, tôi là kẻ "ngoại đạo”.
Thủy được thông báo về kế hoạch bay. Cô hỏi
thêm những chi tiết về đường bay, về tính năng và các thông số kỹ thuật của trực
thăng, và khiêm tốn bàn luận sôi nổi với các phi công của ta. Các anh ấy tỏ ra
rất hào hứng và thán phục khi nghe cô trình bày kinh nghiệm bay thấp tránh ra
đa, việc xử lý khi gặp điều kiện thời tiết xấu, việc định hướng bay trên địa
hình rừng núi... Lúc này cô lại là "cô Thủy chị" như hôm nào bay trên
rừng về Đà Nẵng. Tôi chẳng hiểu mô tê gì, nhưng vẫn hết sức hãnh diện khi thấy
cô gái "của mình" được mọi người quý mến. Đâu phải riêng tôi, ngay cả
anh Hai Nguyên cũng tỏ ra hết sức vui mừng. ánh mắt anh nhìn cô cháu gái đầy vẻ
âu yếm và tự hào.
Lúc cuộc họp chấm dứt thì đêm đã khuya. Thủy
được bố trí nghỉ cùng hai chị cấp dưỡng là người của bên Ty Công an cử sang. Vậy
là hai đứa tôi chưa có dịp nói chuyện riêng với nhau. Nhưng không sao! Bây giờ
không có gì ngăn cách chúng tôi được nữa.
Sáng hôm sau cô đi cùng các phi công lên chỗ
máy bay. Trưa về ăn cơm xong, anh em trong tổ giục nhau ngủ trưa để "bảo đảm
sức khỏe", thực ra là để chúng tôi có dịp ngồi riêng với nhau.
Chúng tôi ra ngồi dưới gốc cây dương liễu già
bị bom chém gãy ngang giữa thân, cành lá reo trong gió biển. Thủy kể, sau khi
tôi đi chừng một tháng thì có người của ta về gặp cô và ông Thành đưa thư của
anh Hai Nguyên. Trong thư nói rõ anh đang rất cần sự có mặt của cô cháu gái,
nhưng việc đi hay không là do cha con ông Thành quyết định. Cô nói:
- Hồi đó em cũng muốn theo anh ra gặp chú,
nhưng nghĩ thương ba còn một mình nên không dám nói. Đến lúc nhận được thư chú,
ba cứ giục em đi. Ông nói: "Đừng lo ba buồn! Anh con đã vậy rồi, giờ nếu
con làm được việc gì có ích cho Cách mạng, cho chú con thì ba sẽ thanh thản
hơn..."
Cô vào Tam Kỳ, theo con đường tôi đi lần trước
để lên khu căn cứ rồi ra Bắc. Anh Hai Nguyên đón cô ở Vĩnh Linh.
- Thế Thủy có biết ra đây làm gì không?
- Chú nói với em rồi! Chúng ta sẽ trở lại vùng
rừng đó, phải không anh? Ngay từ đầu em đã đoán anh đang làm một việc gì ở
trên...
- Sao không hỏi thử?
- Ai dại mà hỏi? Để bị nghi làm gián điệp thì
chết em à! Cô cười rồi nói tiếp - Mình sẽ gặp lại báo Aga, gặp con suối Tiên...
Và chắc sau này em sẽ được bay. Trực thăng đằng mình trông hiền ghê!
- Hiền là sao?
- Thì... cái dáng nó hiền hơn, đường nét tròn
trịa... Mà sao anh không nói chi, cứ hỏi hoài vậy?
- Hỏi cũng là nói! Thế Thủy lái được không?
- Không dễ đâu anh! Về lý thuyết giống nhau,
nhưng phải có thời gian làm quen, rồi bay tập để chuyển loại... Nhưng em tin nếu
mấy chú mấy anh cho bay, em sẽ bay được. Mà ngoài này bom đạn nhiều ghê anh ha!
Chỗ nào cũng thấy hố bom.
- Thủy có biết ở đây dân họ gọi những phi công
như Thủy là gì không?
- Là chi, anh?
- Gọi là "giặc lái”!
Cô cúi đầu nói nho nhỏ:
- Cũng phải thôi! Bom đạn trút xuống thế
kia... Thế còn anh?
- Thì lúc đầu... cũng coi là "giặc
lái"!
- Còn bây giờ?
- Là... đồng đội!
Cô ngước mắt nhìn tôi và bỗng bật cười:
- Anh chẳng bao giờ biết nói chuyện với con
gái cả!
- Tôi nói gì sai ư?
- Không! Những điều anh nói đều đúng, lại còn
hay nữa là khác! Nhưng có lẽ... cô nào nói chuyện với anh vài lần là lo tránh
cho xa...
Tôi ngớ người nhìn cô và chợt hiểu ra. Đúng thế
thật! Ai lại gặp... người yêu mà nói năng vô duyên như vậy. Cũng may cô không
giận. Chắc là thế! Chẳng ai giận mà cười tươi được như cô lúc này. Lại còn đôi
mắt nữa! Đôi mát cô đăm đắm nhìn tôi, sâu thăm thẳm như khoảng trời xanh vừa chợt
ló ra giữa tầng mây trên cao kia. Và cũng như mọi khi, tôi chẳng nghĩ ra một
câu gì hay ho để nói trong dịp này. Thật uổng cả công đọc sách. Tôi đành lấp lừng:
- Vậy mà cũng có người theo đấy…
Cô lườm, đôi mắt đen kéo hai cái đuôi dài
trong một thoáng:
- Ai đó chớ không phải em đâu nghen! Em đi
theo Cách mạng. Anh đừng tưởng!
Những ngày sau đó chúng tôi ít có dịp gặp nhau.
Thủy ở lại trên chỗ tổ lái và bận túi bụi suốt ngày đêm. Cô được giao nhiệm vụ
làm hoa tiêu cho chuyến bay nên phải lao vào nghiên cứu cả đống tài liệu về địa
hình, về khí tượng, rồi những tập bản đồ, những xấp không ảnh... cùng những
công việc kỹ thuật khác. Dù chẳng mấy am hiểu, nhưng tôi cũng biết rằng làm hoa
tiêu trên một đường bay xa lạ trong điều kiện như vậy là nhiệm vụ hết sức nặng
nề. Tôi lo thầm cho cô nhưng chẳng giúp gì được, và cũng không dám nới ra.
Không ngờ chính Thủy lại là người an ủi tôi: "Anh đừng lo! Có các anh ấy,
em tin là sẽ làm được. Phi công đằng mình còn ít giờ bay mà giỏi thiệt..."
Từ hôm Thủy ra, trời đẹp dần lên. Tất nhiên
không phải vì có cô ra mà vì mùa xuân đang đến gần. Trên bầu trời tầng mây trắng
mỏng hơn, dâng lên cao và chói nắng đến nhức mắt. Đôi chỗ nền trời chuyển sang
màu xanh trứng sáo, báo hiệu những ngày nắng sẽ còn kéo dài. Cây dương liễu già
nhú thêm mấy túm chồi xanh non. Trong đống đổ nát hoang tàn của thị xã Đồng Hỡi,
mấy khóm hoa hồng còn sót lại đã nở những bông hoa đầu mùa. Lâu ngày không được
tay người chăm sóc, cây hồng gần như hoang dại, những bông hoa không còn đẹp
kiêu sa như trước nhưng lại dịu dàng đằm thắm hơn, và vẫn khẳng định được giá
trị của mình qua mùi hương tinh khiết và rất nhẹ mà dường như ta cảm được chứ
không phải người.
******
Rồi cũng có một ngày cả hai sườn đông và tây
Trường Sơn đều không có mây mù. Chúng tôi xuất phát rất sớm, khi mặt đất còn tối
om, lúc bay lên cao mới thấy chân trời đằng đông hơi rạng.
Chiếc trực thăng tìm tới được vùng đồi cỏ khi
nắng đã lên, ánh vàng phủ khắp rừng. Dọc con suối vẫn còn vương một dải sương
trắng mỏng. Một chút bồi hồi rung nhẹ trong tim. Tôi căng mắt quan sát lúc máy
bay sà sát ngọn cây, lượn vòng trên vùng rừng quen thuộc. Cành lá lay động ào
ào, chim chóc hốt hoảng vỗ cánh bay tán loạn. Tất cả vẫn yên tĩnh, không phát
hiện thấy dấu hiệu nào khả nghi. Tôi nhìn đồng chí thiếu tá khẽ gật đầu. Anh
nói vào micrô ra lệnh cho phi công. Chiếc trực thăng lượn thêm nửa vòng bay tới
điểm đáp. Nó chững lại phía trên đám cỏ bên vũng suối, xuống thấp dần và nhẹ
nhàng tiếp đất.
Phi công giảm tốc lực cánh quạt. Tổ đổ bộ bật
dây an toàn nhanh nhẹn nhảy ra khỏi máy bay, lao tới những vị trí đã định ghìm
súng cảnh giới.
Tôi đảo mắt nhìn quanh một vòng. Cỏ trên bãi mọc
tốt um lấp kín lối mòn xuống suối. Bờ cát bên vũng suối phẳng lỳ. Cây cối dường
như rậm rạp hơn. Căn nhà cũ giờ trông hoang tàn và lạnh lẽo, tấm nhựa lợp mái bị
gió giật xuống treo lơ lủng bên vách, rách tả tơi. Chẳng thấy bóng lũ khỉ cùng
con báo, cũng không nhìn thấy dấu vết gì chứng tỏ đã có người tới đây sau khi
tôi đi rồi. Nhưng đó chỉ là nhìn qua. Tôi nán thêm một phút, cố tập trung tư tưởng
để có thể cảm nhận được sự nguy hiểm nào đó... Hình như không có!
Đồng chí thiếu tá cắp khẩu AK lom khom chạy tới
chỗ tôi:
- Thế nào Hải?
- Báo cáo anh, không thấy gì khác thường!
- Tốt! - Anh giơ tay ra hiệu tiến hành bước
hai cuộc đổ bộ.
Phi công tắt máy. Bốn chiến sĩ trinh sát lao tới
bên máy bay vác khẩu 12 ly 7 và xách những thùng đạn chạy đi chiếm lĩnh vị trí
cảnh giới trên ụ đại liên. Sau đó hai người chốt lại, còn hai người khác sẽ sục
sạo kiểm tra khu rừng quanh trảng cát.
Tổ lái xách súng nhảy xuống. Hai phi công rút
dao chặt cành lá ngụy trang máy bay. Thủy khoác khẩu AK trên vai, tay cầm chiếc
máy chuyên dụng rảo quanh để dò tìm các thiết bị máy móc địch cài lại. Đồng chí
thiếu tá vẫy tay ra hiệu cho tổ tôi xuất phát.
Sau hơn một giờ đồng hồ, tôi cùng một chiến sĩ
trinh sát lùng sục khắp khoảnh rừng có bán kính bốn trăm mét quanh nơi giấu
vàng. Không có dấu vết của địch. Qua máy bộ đàm, tôi được thông báo ở các tổ
khác mọi việc đều ổn.
Quay lại nơi máy bay đỗ, thấy tổ trinh sát
phía dưới vừa về tới và máy bay đã được ngụy trang chu đáo. Nhưng sao Thủy lại
đứng khóc? Có chuyện gì vậy?
Cô kêu lên khi nhìn thấy tôi:
- Anh Hải! Aga chết rồi!
- Sao? - Tôi sửng sốt.
- Kia kìa... - Cô mếu máo đưa tay chỉ về hướng
căn nhà. Tôi tiến lại gần, chợt rùng mình bởi mùi xác chết thối rửa nồng nặc.
Bước lên hai bậc cầu thang, tôi chửng lại khi nhìn thấy xác con báo. Nó nằm chết
bên ngoài ngưỡng cửa, dòi bọ lúc nhúc trên đám lông vàng đen lốm đốm. Đứng lặng
người nhìn những gì còn lại của con dã thú, tôi hiểu ra tất cả...
…Lúc trở về không nhìn thấy tôi, con báo đã chạy
khắp rừng đến những nơi mà tôi với nó từng đến, để tìm. Mãi không tìm được, nó
quay lại nhà nằm xuống đầu sàn chờ tôi trở lại. Nó nằm đó hết ngày này qua ngày
khác, không chịu ăn uống gì, mắt đăm đăm ngóng ra đầu lối mòn nơi dải rừng non
chờ một bóng người. Sự chờ đợi mỏi mòn làm sức nó kiệt đi... Cho đến một ngày
kia, đốm sáng của sự sống trong đôi mắt nó mờ dần, mờ dần... rồi vụt tắt. Báo
Aga đã chết trong buồn bã và tuyệt vọng. Nó chết vì trung thành và quyến luyến
với con người mà nó gắn bó từ khi mới mồ côi mẹ. Trước lúc từ giã cõi đời, hẳn
nó đã trách tôi là kẻ tệ bạc...
"Hãy hiểu cho tao, Aga!..." Tôi nén
xúc động bước tới gốc cây trước nhà, lật tảng đá cạnh gốc lấy xẻng đào lên thỏi
vàng giấu ở đó, trao nó cho đồng chí thiếu tá.
Xác con báo được gói trong vải nhựa chôn xương
cái hố giấu vàng. Đã được nghe kể về Aga, các chiến sĩ trinh sát nói là để xong
việc, họ sẽ giúp tôi làm sạch bộ xương con báo đem về. Ban đầu tôi cũng có ý định
như vậy, nhưng sau lại thôi. Lúc con báo còn sống, tôi đã không nỡ bắt nó lìa rừng,
thì lúc chết hãy để nó ở lại với rừng.
Những dấu vết trên bãi cỏ và cây đa đều chứng
tỏ lũ khỉ không còn sống ở đây. Có lẽ lúc tôi ra đi, rồi con báo chết, chúng
kéo nhau đi nơi khác sống. Nơi này giờ chỉ còn lại những kỷ niệm đau buồn chứ
chẳng có gì hấp dẫn chúng.
Chúng tôi khẩn trương tiến hành bước ba của kế
hoạch đổ bộ. Thủy và một phi công ở lại bảo vệ máy bay. Tôi dẫn những người
khác mang vũ khí và những dụng cụ cần thiết lên chỗ giấu vàng.
Phải mất hơn một giờ đồng hồ, chúng tôi mới
moi hết số đất đá lấp miệng hang. Những thỏi vàng được bỏ vào ba lô gùi về máy
bay, xếp vào các thùng sắt và khóa lại. Đến quá trưa thì mọi việc hoàn tất.
Chúng tôi ngụy trang lại cái hang, xóa hết dấu vết rồi kéo về nghỉ dưới bóng
cây bên bờ suối. Cho đến lúc này mọi việc đều theo đúng kế hoạch, nhưng ai cũng
căng thẳng. Dường như lúc ngồi bên những thùng vàng, sự căng thẳng càng tăng
lên gấp bội.
Sau khi bố trí thêm các chốt cảnh giới, đồng
chí thiếu tá giục mọi người ăn trưa. Lần đầu được ăn lương khô, Thủy khen là
không ngờ nó ngon đến vậy, lại còn kháy tôi: "Hèn chi anh chê kẹo..."
Tôi cười chịu nhịn. Chuyện đâu còn có đó...
Ăn xong bữa trưa, quyền chỉ huy được tạm giao
cho đồng chí phi công trưởng. Tôi cùng đồng chí thiếu tá và Thủy luồn rừng đi về
phía cây thủy tùng làm công việc cuối cùng của kế hoạch: thay mặt toàn đội đến
viếng mộ hai anh.
Chúng tôi thắp hương trên mộ rồi bỏ mũ cúi đầu
mặc rúệm. Chiều nghiêng nắng, bóng ngôi mộ đá đổ dài trên bãi cỏ. Mới gần ba
năm mà mưa gió đã lấp đầy các hố đạn, mặt đất chỉ còn hơi lồi lõm đôi chỗ.
Nhưng nếu ai tinh ý sẽ nhận thấy ở đây màu cỏ xanh hơn. Những ngọn cỏ non tơ mượt
mà tỏa mùi ngòn ngọt dưới nắng chiều. Mấy tảng dá trên mộ cũng đã lên rêu xanh.
ở đó có vết cào của con báo, nó tới cả đây để tìm tôi.
Tôi
cùng đồng chí thiếu tá đào đất dưới mộ bỏ vào hai túi nhựa. Chúng tôi sẽ đem những
hạt đất thấm máu này về chôn ở quê các anh. Đó là tất cả những gì chúng tôi có
thể làm được, nhưng giờ đây hẳn các anh ấy đã yên lòng và thanh thản ở lại với
rừng.
Không thể nấn ná lâu được, ba chúng tôi bùi
ngùi rời ngôi mộ đá quay về nơi toàn đội đang đợi. Vào tới bìa rừng, tôi ngoái
đầu nhìn lại lần cuối. Bát hương trên mộ vẫn đang cháy, những sợi khói trắng uốn
lượn trong gió rồi tan vào khoảng không bao la. Nắng vàng bát ngát trên vùng đồi
cỏ. Ngọn thủy tùng đung đưa giữa lưng trời lưu luyến hát lời từ biệt.
Gần đến giờ trở về, đồng chí thiếu tá lệnh cho
toàn đội kiểm tra trang bị. Phải bỏ lại tất cả những thứ không thật cần thiết,
kể cả số lương thực mang theo phòng bất trắc và khẩu 12 ly 7 cùng những thùng đạn.
Máy bay đã chở quá nặng.
Tôi đưa tặng đồng chí thiếu tá và hai anh phi
công mỗi người một cây dao găm chiến lợi phẩm, hơi bực mình khi thấy Thủy che
miệng cười. Cười cái gì thế chẳng biết! Không nhớ là những cây dao này tôi thu
của tốp lính cô ta chở lên đó sao? (Về sau hỏi lại, cô cười bảo: "Tại thấy
anh lúc đó trịnh trọng như... trao kiếm giữa rừng”).
*********
Chúng
tôi bay lên lúc năm giờ chiều, đó là giờ máy bay địch ít hoạt động và còn đủ
ánh sáng cho phi công nhận biết địa hình để định hướng. Chiếc trực thăng nặng nề
bay trong mê cung của những hẻm núi, nhiều lúc sà sát ngọn cây. Bóng núi vùn vụt
lướt qua bên ngoài ô cửa tròn. Ánh chiều tà lọt vào khoang máy bay, soi mờ mờ
nét mặt căng thẳng của các chiến sĩ trong tổ đổ bộ. Chúng tôi là những chiến
binh mặt đất, chỉ có thể tung hoành khi chân đạp đất, còn lúc này đành phó mặc
mọi việc vào sự cố gắng phi thường của những người linh bầu trời. Và cùng với họ,
còn có sự đóng góp thầm lặng của những con người đã đốt lửa, bắn pháo hiệu hoặc
phát đi các tín hiệu vô tuyến giúp phi công định hướng. Họ chờ đợi hàng tháng
trời ròng rã trong mưa gió trên những đỉnh núi cao heo hút, để làm một công việc
chỉ diễn ra trong vài phút.
Khi máy bay bay vào vùng trời Quảng Bình, bóng
đêm đã bao trùm lên tất cả. Trên nền trời hiện ra những vì sao nhấp nháy. Phi
công cho máy bay lên cao, phát sóng vô tuyến để liên lạc và nhận được dẫn đường
từ mặt đất. Trong khoang máy bay tối mờ không nhìn rõ mặt nhau, nhưng tôi biết
niềm vui đang rạng rỡ trên nét mặt mọi người.
Có thể nói rằng, nhiệm vụ đã kết thúc khi
chúng tôi từ trên trực thăng bước xuống và ngay lập tức được ôm chặt trong vòng
tay của anh Hai Nguyên cùng những người ra đón. Nhưng trong câu chuyện này sẽ
là sơ sót nếu không kể về những sự việc có liên quan đến một nhân vật mà từ đầu
tới giờ ta mới chỉ nghe tên chứ chưa hề biết mặt. Và chuyện về y lại liên quan
đến một chuyện khác đã xây ra từ lâu rồi...
**********
… Một ngày đầu tháng 5 năm 1945, trên chiếc chiến
hạm đậu ngoài khơi biển Đà Nẵng, đô đốc Yamashita, tư lệnh Thái Bình Dương của
quân đội Nhật, đang sốt ruột đi đi lại lại trong phòng chỉ huy. Ông ta chờ đợi
tin tức về chuyến bay có hộ tống của một chiếc phóng pháo cơ có nhiệm vụ chở số
vàng quân Nhật vơ vét được, bay từ X về Đà Nẵng. Ở đó, vàng sẽ được đưa xuống
thủy phi cơ để chuyển ra chiến hạm. Thế chiến hai đang đến hồi kết thúc. Số
vàng này chẳng dùng gì được vào việc cứu vãn tình thế nguy ngập của đội quân
phát xít ở châu Á, nhưng ít nhất cũng phải thu giấu nhằm tính kế lâu dài.
Chín giờ sáng. Đô đốc Yamashita được báo máy
bay đã về tới phi trường Đà Nẵng, nhưng chỉ có một chiếc, lại là chiếc hộ tống.
Viên phi công báo cáo: Lúc sắp bay qua biên giới
Lào Việt, y bay vượt lên trước để cảnh giới máy bay đồng minh. Ít phút sau, hoa
tiêu của y báo là không còn nhìn thấy chiếc phóng pháo bay ở phía sau. Biết nó
gặp sự cố y cho máy bay vòng lại tìm, hy vọng nó hạ cánh khẩn cấp xuống được
vùng đồi cỏ mà y vừa bay qua. Nhưng viên phi công đã không tìm thấy gì. Chiếc
máy bay chở vàng biến mất như chưa hề tồn tại. Nhiên liệu sắp cạn, y đành quay
về.
Hai máy bay nhận lệnh cất cánh bay ngược chiều
đường bay của chiếc chở vàng, tìm đến tọa độ nói trên và nhìn thấy vùng đồi cỏ.
Chúng lượn nhiều vòng tìm kiếm nhưng không phát hiện ra dấu vết gì của chiếc
phóng pháo. Rừng xanh đã nuốt chừng tất cả. Đó là cố gắng cuối cùng của đô đốc
Yamashita. Tình hình sau đó không cho phép ông ta tìm lại số vàng...
Những điều kể trên là nội dung chính trong một
bản viết tay bằng tiếng Nhật mà khi giải phóng Sài Gòn, ta thu được trong động
giấy tờ ở phòng làm việc của John Smith. Theo các đồng chí phiên dịch thì khó
có thể kết luận đấy là một bản báo cáo hay bản tự khai, chỉ biết người viết tự
xưng y chính là viên phi công lái chiếc máy bay hộ tống. Cũng rất khó nhận định
vì sao nó lọt vào tay Smith, nhưng chắc y kiếm được nó trong thời gian hoạt động
ở Nhật.
Ngoài ra ta còn tìm thấy bản kế hoạch đổ bộ lực
lượng "Mũ nồi xanh" xuống tọa độ có chiếc máy bay chở vàng rơi, nhưng
với một lý do không liên quan gì đến nó. Bản kế hoạch do chính John Smith ký,
và ký hiệu trên đó cho biết tài liệu này chỉ đánh máy một bản, như vậy nó chưa được
gửi đi. Smith lập kế hoạch này vào tháng 7 năm 1969, nghĩa là sau vụ TK1 đụng độ
với hai chiếc trực thăng trên vùng đồi cỏ có vài tháng. Tôi thấy không cần thiết
phải kể chi tiết về nội dung bản kế hoạch, sợ dài dòng. Nhưng John Smith đã làm
gì khi có thông tin về chiếc máy bay chở vàng?
…John Smith và Hay Cođy là đôi bạn tâm giao
trong suốt mấy năm học ở trường sĩ quan hải quân Amnaponls. Ra trường Cođy chuyển
về không lực, còn Smith sang ngành tình báo, nhưng tình bạn của họ không vì thế
mà kém phần thân thiết.
Năm 1968, khi từ Nhật sang Việt Nam, Smith đã
có trong tay một tài liệu rất thú vị mà y chưa biết nên xử lý như thế nào.
Vàng? Theo y thì dù ở đâu và bao giờ, vàng vẫn cứ là thước đo giá trị đích thực
của con người. Vì vậy khi có được những thông tin quý báu kia, bộ óc băng giá của
y bỗng trở nên ấm áp hẳn lên và y cảm thấy xao xuyến như một chàng trai bất ngờ
tìm thấy ý trung nhân của mình. "Báo cáo với cấp trên? Có mà ngu! Với những
thông tin đơn sơ như vậy, làm to chuyện lên để làm gì? Đã có quá nhiều huyền
thoại mơ hồ về những kho báu ở cái xứ sở nhiệt đới quái quỷ này. Chắc gì tin được
lời khai của một tay phát xít già bị dồn vào thế kẹt, phải bán những thông tin ấy
để đổi lấy thị thực nhập cảnh vào Mỹ? Còn... nếu là chuyện có thật, thì lại
càng ngu hơn khi để một đống của như thế lọt vào tay kẻ khác, và rồi cùng lắm
mình được cái bội tinh. Tốt nhất là..." Smith làm theo những gì mà y cho
là tốt nhất.
Kế hoạch của y liên quan đến thằng bạn chí cốt
ngày nào, nay làm cố vấn cho một đơn vị thuộc không lực Sài Gòn, lại đóng ngay
Đà Nẵng. Với Hary, y tin như tin chính bản thân mình. Điều e ngại duy nhất là
cái tính hung hăng mà có lẽ hắn ta thừa hưởng từ dòng máu dân cao bồi chăn bò
vùng Texas. Nhưng nhiều khi như vậy lại hóa hay.
Y ra Đà Nẵng tìm gặp Cođy. Và đến lượt mình,
Cođy tích cực lợi dụng mọi cơ hội thực hiện nhiều chuyến bay tìm kiếm ở vùng rừng
có chiếc máy bay chở vàng rơi. Nhưng rồi chính Cođy đã làm hỏng việc khi để tay
chuyên viên vũ khí của hạm đội Bảy trực tiếp tham gia vụ thử nghiệm rốc két và
bị bắn chết ngay trên tọa độ tìm kiếm, nơi không hề có trong kế hoạch bay.
Smith phải vất vả gỡ tội cho thằng bạn chưa được ăn đã phải trả giá.
Không chịu bỏ cuộc, John Smith bày keo khác.
Robert Rhelt, đại tá chỉ huy lực lượng "Mũ
nồi xanh” ở Việt Nam cũng là chỗ quen biết với y. Tất nhiên tỉ lệ ăn chia phải
khác, và cần có lý do để điều động lực lượng này một cách "danh chính ngôn
thuận". Y nghĩ ra lý do, lập kế hoạch, nhưng chưa kịp gửi đi thì Rhelt bị
cách chức và bị đưa ra tòa án binh vì vụ giết nhầm một nhân viên tình báo của
chính phủ Sài Gòn. Rõ là "họa vô đơn chi', câu tục ngữ của dân bản xứ sao
nghe như một lời nguyền.
Tưởng đã ngậm ngùi bó tay thì y nhận được tin
tình báo về một người lính Vi xi sống đã hai năm trong rừng. Hai năm? Ở vùng rừng
đó? Lẽ nào lại có sự trùng hợp ngẫu nhiên như vậy? Chỉ cần gặp thằng trung sĩ
an ninh quân đội thẩm tra thêm vài chi tiết và phân tích các thông tin thu được
từ trước tới giờ, chẳng khó khăn gì bộ óc sĩ quan tình báo của y cũng biết đây
chính là câu thần chú "Vừng ơi, mở ra". Khỏe! Khỏi cần mất công tìm
kiếm, chỉ việc bắt sống thằng Vixi đó về khai thác, sau đó lên chở vàng về.
Với vai vế của mình, John Smith dễ dàng móc nối
để thuê một toán dù làm lực lượng xung kích. Tất nhiên phải thuê cả một kíp bay
cùng trực thăng có thiết bị bay đêm đủ khả năng thực thi kế hoạch. Tốn kém khá
bộn, nhưng có bỏ vốn ra mới mong thu lợi. Dầu sao cũng đỡ tốn hơn phải chia
chác. Y phạm điều cấm ky nhất trong nghề nghiệp khi giao cho tay tình báo viên
của y chỉ huy toán đổ bộ. Cũng đành liều thôi! Công việc đòi hỏi phải giao cho
người tin cẩn, mà thằng này đã từng cộng tác với Hary trước đây, hắn lại có tên
lính dưới quyền có thể dẫn đường.
Mọi sắp xếp tính toán của John Smith chính xác
cho đến phút gần chót. Nhưng từ khi con dã thú của vùng rừng này nhảy xổ vào
con chó trinh sát thì tất cả đều đảo lộn, để rồi tham vọng của y tan tành theo
chiếc trực thăng biệt kích nổ tung giữa trời...
****************
Sau giải phóng, đồng chí thiếu tá được giao nhiệm
vụ tổng kết kế hoạch TK. Anh đã cung cấp cho tôi những tài liệu cần thiết để viết
lại câu chuyện kể trên, nhưng cũng chỉ tình tiết chủ yếu. Phần còn lại tôi phải
thêm vào bằng những suy đoán của mình, chứ ai mà biết được một người (Lại là
người như Smith) nghĩ gì trong đầu vào thời điểm cách đây gần ba chục năm! Và
như vậy vẫn còn nhiều điểm chưa rõ, hoặc không hoàn toàn chính xác.
Nhưng biết làm sao được? Muốn biết rõ, phải hỏi
hai nhân vật chính trong chuyện là Smith và Cođy, nếu họ còn sống. Mà dù còn sống,
có hỏi chắc gì họ đã nói? Hoặc có nói, chắc gì đã nói thật? Những người như vậy
không mấy khi nói thật những chuyện đó!
< Trước Tiếp >
Chương: 1 - 2 - 3 - 4 - 5 - 6 - 7 - 8 - 9 - 10 - 11 - 12 - 13
14 - 15 - 16 - 17 - 18 - 19 - 20 - 21 - 22 - 23 - 24 - 25 - Phần cuối
Chương: 1 - 2 - 3 - 4 - 5 - 6 - 7 - 8 - 9 - 10 - 11 - 12 - 13
14 - 15 - 16 - 17 - 18 - 19 - 20 - 21 - 22 - 23 - 24 - 25 - Phần cuối