I - ĐỊNH NGHĨA
Kinh lạc là tên gọi
chung của kinh mạch và lạc mạch trong cơ thể, kinh là đường thẳng, là cái khung
của hệ kinh lạc đi ở sâu; lạc là đường ngang, là cái lưới, từ kinh mạch chia ra
như mạng lưới đến khắp mọi nơi và đi ở nông.
Kinh lạc phân bố
ra toàn thân là con đường vận hành của âm dương, khí huyết, tân dịch, khiến cho
con người từ ngũ tạng lục phủ, can mạch, cơ nhục, xương vv… kết thành một chính
thể thống nhất.
II - CẤU TẠO CỦA HỆ
KINH LẠC
1. Kinh mạch và lạc
mạch
a) 12 kinh mạch
chính
Tay
3 kinh âm
·
Thủ thái âm phế
·
Thủ thiếu âm tâm
·
Thủ quyết âm tâm bào lạc
3 kinh dương
·
Thủ thái dương tiểu trường
·
Thủ dương minh đại trường
·
Thủ thiếu dương tam tiêu
Chân
3 kinh âm
·
Túc thái âm tỳ
·
Túc thiếu âm thận
·
Túc quyết âm can
3 kinh dương
·
Túc thái dương bàng quan
·
Túc thiếu dương đởm
·
Túc dương minh vị
b) 8 kinh mạch phụ:
·
Nhâm mạch
·
Âm duy mạch
·
Đốc mạch
·
Dương duy mạch
·
Xung mạch
·
Âm kiểu mạch
·
Đới mạch
·
Dương kiểu mạch
c) 12 kinh biệt đi
ra từ 12 kinh chính
d) 12 kinh cân nối
liền các đầu xương ở tứ chi không vào phủ tạng
đ) 15 biệt lạc: từ
biệt lạc phân nhánh nhỏ
f) Phù lạc: từ tôn
lạc nổi ở ngoài da
2. Huyệt: gồm 319
huyệt ở đường kinh chính, 52 huyệt ở 2 đường kinh phụ cộng là 361 huyệt nằm
trên 14 đường kinh (nếu kể cả 2 bên là 319 x 2 + 52 = 690 huyệt) và khoảng 200
huyệt ngoài đường kinh (hiện nay các nhà nghiên cứu đã tìm và đặt tên thêm nhiều
huyệt nữa).
3. Kinh khí và
kinh huyệt vận hành trong kinh lạc: ngoài tác dụng chung còn mang tính chất của
đường kinh mà nó cư trú.
III – TÁC DỤNG CỦA
HỆ THỐNG KINH LẠC
1. Về sinh lý:
· Hệ thống kinh lạc thông hành khí huyết trong
các tổ chức của cơ thể chống ngoại tà bảo vệ cơ thể.
· Hệ kinh lạc liên kết của tổ chức cơ thể (tạng,
phủ, tứ chi, chín khiếu, cân, mạch, xương, da…) có chức năng khác nhau thành một
khối thống nhất.
2. Về bệnh lý:
Khi công năng hoạt
động của hệ kinh lạc bị trở ngại, gây kinh khí không thông suốt thì dễ bị ngoại
tà xâm nhập và gây bệnh. Bệnh thường truyền từ ngoài vào trong, từ ngoài da cơ
nhục vào tạng tức là từ kinh mạch và phủ tạng.
Bệnh ở phủ tạng
thường có những biểu hiện bệnh lý ở đường kinh mạch đi qua: vị nhiệt thì loét
miệng, cơn đau ngực do co thắt động mạch vành đau ở tâm kinh vv…
3. Về chẩn đoán:
Kinh mạch nối liền
với tạng phủ và có đường đi ở những vị trí nhất định của cơ thể. Căn cứ vào những
thay đổi cảm giác (đau, tức, chướng) điện sinh vật trên đường đi của kinh mạch
người ta chẩn đoán bệnh thuộc tạng phủ nào đó gọi là kinh lạc chẩn. Thí dụ: nhức
đầu vùng đỉnh do can, đau nửa bên đầu do đởm. Đau sau gáy thuộc bàng quang vv…
Ngoài ra, người ta
còn đo thông số điện sinh vật của các tỉnh huyệt (huyệt tận cùng đầu chi của
các kinh) hay nguyên huyệt (huyệt chính của một đường kinh) bằng máy dò kinh lạc
để đánh giá được tình trạng hư thực của khí huyết (huyết tay trái, khí tay phải)
hoặc tình trạng hư thực của tạng phủ, so với số liệu trung bình hoặc so 2 bên
cơ thể với nhau vv…
4. Về chữa bệnh:
Học thuyết kinh lạc
được ứng dụng nhiều nhất vào phương pháp chữa bệnh bằng châm cứu xoa bóp và thuốc.
Châm cứu và xoa
bóp đã thành một phương pháp chữa bệnh độc đáo đạt nhiều thành tựu to lớn.
Học thuyết kinh lạc
chỉ đạo việc qui tác dụng của thuốc tương ứng với tạng, phủ hay đường kinh nào
đó gọi là sự qui kinh của thuốc: Thí dụ:
· Quế chi vào phế
nên chữa ho cảm mạo.
· Ma hoàng vào phế
nên chữa ho hen, vào bàng quang nên có tác dụng lợi niệu.
ĐẠI CƯƠNG VỀ KINH
LẠC
Nói giản đơn về
kinh lạc là: Trên thân mình người ta, cứ một tạng phủ bên trong vàbề mặt bên
ngoài có mối quan hệ "thông lạc". Nói cụ thể hơn thì kinh là một đường
dây chăng, mỗi một tạng phủ đều có một đường kinh riêng của nó. Nói chung là nó
đan dọc trên dưới, thông đạt trong
ngoài, mà có đường tuần hành nhất định (theo một đường nhấtđịnh mà đi gọi là tuần
hành), mỗi một kinh lại phân bố một số huyệt vị. Lạc là do ở đườngkinh có phân
bố ra rất nhiều chi nhỏ, số lớn là lưới ngang không mấy chỗ là không có thông,
giống như một cái lưới bao bọc lấy toàn thân, làm cho kinh này với kinh khác
cóquan hệ với nhau. Do vậy kinh lạc ở trong ngoài, trên dưới, phải trái, trước
sau của cơ thểcó quan hệ tương hỗ chung, làm cho tạng phủ trong cơ thể và các tổ
chức khí quan các nơingoài cơ thể có cùng một quan hệ, duy trì các hoạt động sống
được thống nhất và điềuhòa.
Bảng 3 - Phân biệt
kinh và lạc
Phân loại
Tuần hành
Nơi đi
Số lượng
Kinh mạch
Lạc mạch
dọc cơ thể
ngang cơ thể
ở sâu
ở nông
ít nhiều
Về hình tượng mà nói, kinh lạc hầu
như có liên quan đến mọi nơi của cơ thể, do đó cũng có tác dụng hai mặt:
Một là có tác dụng giúp "vận
hành khí huyết", sức hoạt động công năng của conngười như giơ tay cầm nắm
các vật, óc suy nghĩ vấn đề, chủ yếu là dựa vào khí huyết đưađẩy. "Khí huyết"
có thể đưa đẩy đều đặn đến toàn thân là thông qua đường kinh lạc chuyển đạt.
Mặt nữa là có tác dụng làm "chuyển
biến tật bệnh". Do kinh lạc là nơi thông suốtgiữa tạng phủ bên trong cơ thể
và bề mặt bên ngoài của con người gọi là "thông lạc", cho nên không
những nó đem những bệnh tật bên ngoài chuyển dần vào trong, như bên ngoàibị lạnh
có thể dẫn đến ho hắng và đau bụng, lại còn đem những bệnh biến của tạng phủphản
ảnh lên bề mặt ngoài cơ thể. Ở những nơi đường kinh thuộc tạng phủ đó tuần
hànhcó xuất hiện chứng trạng, có thể theo đó chẩn đoán bệnh ở kinh nào, tạng
nào, phủ nào.Phép chữa bệnh bằng châm cứu cũng căn cứ vào quan hệ của kinh lạc,
theo nội tạng vàhuyệt vị hữu quan mới đạt đến mục đích chữa khỏi bệnh. Ví dụ:
Châm huyệt Túc tam lý ởchân có thể chữa đau dạ dày vì huyệt Túc tam lý ở trên
kinh mạch túc dương minh vị, kinhmạch này đi từ đầu, mặt xuống qua ngực, bụng,
đùi, chân. Châm huyệt Hợp cốc trên bàntay có thể chữa đau răng vì huyệt này ở
trên kinh mạch thủ dương minh đại trường, kinhmạch này đi từ ngón tay, lên qua
vai, cổ, đến mặt. Do đó có thể thấy kinh lạc có địa vị trọng yếu trong phép chữa
bệnh bằng châm cứu.
Sau đây là phần giới thiệu nội dung
kinh lạc, gồm có 12 kinh mạch và 8 mạch kỳ kinh.
Mười hai kinh mạch
Mười hai kinh mạch
cũng gọi là chính kinh. Vì trong cơ thể có tâm, can, tỳ, phế, thận, tâm bào là
6 tạng; có đảm, vị, đại trường, tiểu trường, bàng quang, tam tiêu là 6 phủ, cộng
12 tạng phủ. Mỗi một tạng phủ đều có một kinh phụ thuộc nó, cộng có 12 kinh nên
gọi là chính kinh. Tên gọi của chính kinh đều lấy tên tạng phủ của nó mà đặt
như tâm kinh, đảm kinh, vị kinh v.v...
Theo "Học
thuyết âm dương" trong Đông y mà nói thì 6 tạng đều thuộc âm: Phế và tỳ là
thái âm, tâm và thận là thiếu âm, can và tâm bào là quyết âm; sáu phủ đều thuộc
dương. Tiểu trường và bàng quang là thái dương, đảm và tam tiêu là thiếu dương,
vị và đại trường là dương minh.
Sáu tạng và đường
tuần hành của âm kinh thuộc về nó đều ở mặt âm của tứ chi (mặt trong của chi).
Sáu phủ và đường tuần hành của dương kinh thuộc về nó đều ở mặt dương của chi
(mặt ngoài của chi). Mức độ âm dương nhiều ít của tên đường kinh là do vị trí
đường kinh trên chi thể có mức độ nhiều ít của mặt dương, âm mà định. Độ lớn dần
của âm dương theo chiều hướng vận động chung của vũ trụ, bên trái lớn dần theo
chiều ngược kim đồng hồ, bên phải lớn dần theo chiều thuận kim đồng hồ. Ở mặt
dương từ dương minh, qua thiếu dương tới thái dương, ở mặt âm từ thiếu âm, qua
quyết âm tới thái âm. Đồng thời, do kinh mạch âm dương phân bố ở tứ chi cho nên
đường tuần hành ở chi trên gọi là thủ kinh, tất cả là thủ tam âm kinh, thủ tam
dương kinh; đường tuần hành ở chi dưới gọi là túc kinh, tất cả là túc tam âm
kinh, túc tam dương kinh, gộp chung cả lại là 12 kinh, cho nên thường gọi là 12
kinh mạch chính.
A. Đường tuần hành
của 12 kinh mạch
Đường tuần hành của
12 kinh mạch có thể chia ra làm 4 loại:
- Thủ tam âm kinh
là thủ thái âm phế kinh, thủ quyết âm tâm bào kinh, thủ thiếu âm tâm kinh, cả
ba kinh mạch này đều đi từ ngực ra theo mặt âm của chi trên đến đầu chót các
ngón tay.
- Thủ tam dương
kinh là thủ dương minh đại trường kinh, thủ thiếu dương tam tiêu kinh, thủ thái
dương tiểu trường kinh. Cả ba kinh mạch này đều từ đầu chót ngón tay đi ven theo
mặt dương của chi trên lên đến đầu.
- Túc tam dương
kinh là túc dương minh vị kinh, túc thiếu dương đảm kinh, túc thái dương bàng
quang kinh. Cả ba kinh mạch này đều từ đầu đi qua lưng trên, ven theo mặt trước
mặt bên và mặt sau của cạnh ngoài chi dưới, xuống đến gót chân.
- Túc tam âm kinh
là túc thái âm tỳ kinh, túc quyết âm can kinh, túc thiếu âm thận kinh.
Cả ba kinh mạch
này đều từ đầu ngón chân, ven theo mặt trước, mặt trong và mặt sau của cạnh
trong chi dưới đi lên đến bụng.
B. Thứ tự nối tiếp
của các đường kinh và giờ tuần hành kinh khí
Hoạt động kinh khí
phụ thuộc vào hoạt động công năng của tạng phủ, hoạt động công năng của tạng phủ
lại tuân theo một chu trình thời gian trong ngày, người ta đã ghi nhận được chu
trình hoạt động đó thành bài ca như sau: Phế dần, đại mão, vị thìn cung. Tỳ tỵ,
tâm ngọ, tiểu mùi trung. Thân bàng, dậu thận, tâm bào tuất. Hợi tam, tý đảm, sửu
can thông.
Nay đem diễn giải
thành bảng theo giờ thông dụng như sau:
Giờ Dần (từ 3-5 giờ
sáng)
- Thủ thái âm phế
kinh tuần hành
Giờ Mão (từ 5-7 giờ
sáng)
- Thủ dương minh đại
trường kinh tuần hành
Giờ Thìn (từ 7-9
giờ sáng)
- Túc dương minh vị
kinh tuần hành
Giờ Tỵ (từ 9-11 giờ
sáng)
- Túc thái âm tỳ
kinh tuần hành
Giờ Ngọ (từ 11-13
giờ trưa)
- Thủ thiếu âm tâm
kinh tuần hành
Giờ Mùi (từ 13-15
giờ trưa)
- Thủ thái dương
tiểu trường kinh tuần hành
Giờ Thân (từ 15-17
giờ chiều)
- Túc thái dương
bàng quang kinh tuần hành
Giờ Dậu (từ 17-19
giờ tối)
- Túc thiếu âm thận
kinh tuần hành
Giờ Tuất (từ 19-21
giờ tối)
- Thủ quyết âm tâm bào kinh tuần hành
Giờ Hợi (từ 21-23
giờ đêm)
- Thủ thiếu dương
tam tiêu kinh tuần hành
Giờ Tý (từ 23-01
giờ đêm)
- Túc thiếu dương
đảm kinh tuần hành
Giờ Sửu (từ 01-03
giờ sáng)
- Túc quyết âm can
kinh tuần hành
C. Biểu lý tương
phối của 12 kinh mạch
Trong 12 kinh mạch
thì cứ một âm kinh phối hợp với một dương kinh, như vậy gọi là biểu lý tương phối
(cũng gọi là âm dương tương phối). Kinh mạch tương phối khi tuần hành ở ngón
tay, ngón chân thì nối tiếp nhau, vì nội tạng mà nó sở thuộc cũng cùng quan hệ
tương hỗ ảnh hưởng. Trên lâm sàng, huyệt vị ở bản kinh còn có thể dùng để trị bệnh
ở một kinh khác cùng tương phối với nó. Như thủ dương minh đại trường kinh và
thủ thái âm phế kinh cùng biểu lý, lấy huyệt Xích trạch ở phế kinh để chữa ho hắng,
lại cũng trị được bệnh lỵ. Lại như túc thái âm tỳ kinh và túc dương minh vị
kinh cùng biểu lý, lấy huyệt Túc tam lý ở vị kinh có thể chữa được đau dạ dày,
lại cũng chữa được ỉa chảy. Những ví dụ trên đã nói lên rằng âm kinh và dương
kinh có quan hệ biểu lý tương phối rất mật thiết.
Bảng tương phối của
12 kinh mạch
Thủ thái âm phế
kinh
tương phối với
Thủ dương minh đại
trường kinh
Thủ thiếu âm tâm
kinh
tương phối với
Thủ thái dương tiểu
trường kinh
Thủ quyết âm tâm
bào kinh
tương phối với
Thủ thiếu dương
tam tiêu kinh
Túc thái dương tỳ
kinh
tương phối với
Túc dương minh vị
kinh
Túc thiếu âm thận
kinh
tương phối với
Túc thái dương
bàng quang kinh
Túc quyết âm can
kinh
tương phối với
Túc thiếu dương đảm
kinh
D. Đầu, cuối của
12 kinh mạch và chủ trị
Như trên đã nói
qua, 12 kinh mạch có đường tuần hành nhất định và các kinh đều phản ánh bệnh tật
ở bản tạng hoặc bản phủ, phần này nói đến đường đi cụ thể và chủ trị một số bệnh
tật.
1. Thủ thái âm phế
kinh
a. Cấu trúc: Gồm
có 11 huyệt, cả hai bên là 22 huyệt. Kinh mạch bắt đầu từ trung tiêu (dạ dày,
Trung quản) hướng xuống đại trường có một đường lạc nối, rồi lại từ đại trường
đi trở lại một đường nông ngoài đi lên trên cổ dạ dày, ven theo cổ dạ dày xuyên
lên quan cơ hoành cách, vào phế tạng, lại từ phế tạng lên đến cạnh hầu, lại đi
ngang ra đến phía dưới hố đòn, ven theo cạnh trong cánh tay trên đi xuống qua hốc
khuỷu tay, ven theo cạnh trong phía trước xương quay, đến cổ tay ở thốn khẩu, từ
thốn khẩu đi đến mô cái, ven theo mô cái đi đến cạnh đầu ngón cái (Thiếu
thương).
Mạch nhánh, từ sau
cổ tay (Liệt khuyết) phân ra hướng theo phía mu bàn tay đi thẳng đến đầu ngón
trỏ ở cạnh trong là huyệt Thương dương.
b. Quan hệ tạng phủ:
Kinh này từ ngực ra tay, thuộc phế (bản kinh thuộc phế tạng), đường lạc sang đại
trường (kinh này và kinh đại trường cùng nối tiếp nhau), đi qua hoành cách, có
quan hệ với thận và vị.
c. Chủ trị: Ho hắng
hen suyễn, hụt hơi, khái huyết, hầu họng sưng đau, trúng gió, tức ngực, hố trên
xương đòn và cạnh trong phía trước cánh tay đau, tê, bả vai buốt lạnh.
2. Thủ dương minh
đại trường kinh
a. Cấu trúc: Gồm
có 20 huyệt, hai bên là 40 huyệt. Kinh mạch tuần hành bắt đầu từ (huyệtThương
dương) ở cạnh trong đầu ngón tay trỏ, đi theo cạnh ngón vào khe xương bàn 1-2
(Hợp cốc) rồi đi lên qua cạnh trước cẳng tay, qua cạnh ngoài khuỷu tay, cạnh
ngoài cánh tay trên, đến mỏm quạ, đi lên phía sau vai giao hội vào huyệt Đại
chùy ở đốc mạch, lại gặp ngược lại hướng về phía lõm ức xuống phổi, rồi xuyên
qua cơ hoành, tới đại trường.
Mạch nhánh, từ lõm
ức lên đến cạnh cổ (sau kinh vị) thông qua mặt sau (sau Đại nghinh) tiến vào
trong hàm dưới, lại chuyển ngược ra ngoài lên rãnh môi trên, thông qua huyệt Địa
thương ở kinh vị, hai bên giao hội lại ở huyệt Nhân trung (chính giữa rãnh Nhân
trung), kinh mạch bên trái đi về phía bên phải, kinh mạch bên phải đi về phía
bên trái, riêng rẽ đi lên đến cạnh cánh mũi (là huyệt Nginh hương) thì dứt.
b. Quan hệ tạng phủ:
Bản kinh từ tay lên đến đầu, thuộc đại trường, đường lạc sang phế, lại có quan
hệ trực tiếp với vị.
c. Chủ trị: Đau bụng,
sôi bụng, ỉa chảy, lỵ, hầu họng sưng đau, răng đau, mũi chảy nước trong, chảy
máu mũi, đau trước vai, đau ngón tay trỏ, sốt nóng hoặc rét run.
3. Túc dương minh
vị kinh
a. Cấu trúc: Gồm
45 huyệt, cả hai bên là 90 huyệt. Kinh mạch tuần hành bắt đầu từ rãnh môi mũi ở
cạnh mũi (Nghinh hương), từ cạnh mũi đi lên đến khóe mắt phía trong, đi ngược lại
qua chính giữa phía dưới ổ mắt đi xuống qua cạnh ngoài của cánh mũi tiến vào đến
lợi trên, rồi chuyển về qua vòng môi, xuống dưới giáo hội với điểm giữa môi dưới
(Thừa tương) chuyển lùi qua ven cạnh sau phía dưới xương hàm dưới, đi đến phía
dưới trước góc hàm (Giáp xã), hướng đi lên tản ra trước tại, đi qua cũng gò má ở
trước tai, ven theo bờ tóc lên đến góc trán (Đầu duy), cuối cùng ở trước trán
giáo hội với đốc mạch ở huyệt ThầnMạch nhánh ở trên mặt, từ giữa hàm dưới (Đại
nghinh) hướng xuống cổ cạnh hầu (Nhân nghinh), ven theo cạnh hầu tiến vào lõm ức;
đi xuống phía trong qua cơ hoành tới vị và liên hệ với tỳ tạng.
Mạch ở lõm ức đi
thẳng từ chỗ lõm của xương đòn xuống cạnh trong của đầu vú, đi thẳng xuống cạnh
ngoài rốn 2 thốn, đến phía trên xương mu ở rãnh háng, chỗ huyệt Khí xung.
Mạch nhánh miệng
dưới của dạ dày đi sâu trong ổ bụng, hướng xuống huyệt Khí xung rồi cùng gặp
nhau đi xuống, thẳng đến phía trên đùi ở mặt trước (là huyệt Bễ quan), đi tiếp
ven theo mặt cao của cơ tứ đầu đùi, xuống qua xương bánh chè, ven theo cạnh
ngoài của mặt trước xương chày, phía dưới phân bố xuống mu bàn chân, đến cạnh
ngoài đầu ngón chân thứ hai.
Mạch nhánh ở xương
chày, từ chỗ dưới xương bánh chè 3 thốn (Túc tam lý) phân ra một nhánh cạnh đi
xuống đến cạnh ngoài ngón giữa, chỗ khe nối hai ngón chân.
Mạch nhánh ở bàn
chân, từ mu bàn chân (Xung dương) phân ra đi xuống đến cạnh trong đầu ngón cái
(Ẩn bạch).
b, Quan hệ tạng phủ:
Kinh này từ đầu xuống chân, thuộc vị, đường lạc sang tỳ, có quan hệ trực tiếp với
tâm, đại trường và tiểu trường.
c. Chủ trị: Sôi bụng,
trướng bụng, đau dạ dày, nôn mửa, chảy máu mũi, liệt mặt, hầu họng sưng đau,
đau ngực bụng, đau ở những nơi có đường kinh đi qua, sốt cao.
Huyệt vị ở kinh
này ngoài tác dụng chữa cục bộ và xung quanh, cái chính yếu là chữa bệnh ở dạ
dày và ruột. Phàm thân thể suy nhược, vị khí kém, đều có thể châm huyệt của túc
dương minh vị kinh. Dương minh là kinh nhiều khí, nhiều huyết, chủ làm
"tươi mát" các gân, vì vậy huyệt vị ở kinh có thể chữa các chứng tê bại,
gân co rút.
4. Túc thái âm tỳ
kinh
a. Cấu trúc: Gồm
có 21 huyệt, cả hai bên là 42 huyệt. Kinh mạch tuần hành bắt đầu từ cạnh trong
đầu ngón chân cái (Ẩn bạch), ven theo đó đi lên qua bờ trước mắt cá trong, phân
bố đến phía sau cẳng chân, men theo cạnh sau xương chày, chéo qua mặt trước của
túc quyết âm can kinh, đi lên qua cạnh trong khớp gối đến phía trước cạnh trong
xương đùi, đi lên cạnh ngoài bụng (cách đường trục giữa bụng là 4 thốn) vào tỳ
tạng, có liên lạc thêm sang vị, lại hướng đi lên qua cơ hành, lồng ngực, qua
hai bên hầu họng, đến cuống lưỡi, tản vào phía dưới lưỡi.
Mạch nhánh ở vị, từ
dạ dày phân ra đi lên thông qua cơ hoành, mạch khí đi luôn tới trong tâm tạng.
b. Quan hệ tạng phủ:
Kinh này đi từ chân lên đến đầu, thuộc tỳ, đường lạc sang vị, có thêm quan hệ
trực tiếp với tâm, phế, đại trường và tiểu trường.
c. Chủ trị: Trướng
bụng, đau dạ dày, nôn mửa, ỉa chảy, đầy hơi, vàng da, cứng lưỡi, đau tức cạnh
trong đầu gối và đùi.
Phàm chữa rối loạn
tiêu hóa, phân nát, đau dạ dày, ngoài những huyệt trên kinh vị ra, cần lấy thêm
huyệt ở kinh từ mới nâng cao hiệu quả. Ngoài ra cũng còn chủ trị chứng thấp, bệnh
phụ nữ.
5. Thủ thiếu âm
tâm kinh
a. Cấu trúc: Gồm 9
huyệt, hai bên là 18 huyệt. Kinh mạch bắt đầu từ trong tim (hệ thống tim và các
mạch có liên quan tới tạng phủ khác), hướng xuống thông qua hoành cách cùng nối
tiếp với kinh thủ thái dương tiểu trường.
Mạch nhánh của hệ
tâm, từ hệ tâm phân ra đi lên cạnh thực quản, lên đến hệ mắt (là mạch có quan hệ
tốt tới mắt và não).
Mạch của hệ tâm đi
từ tim thẳng đến phế tạng, đi chéo ra mặt dưới hố nách ven theo mặt sau của cạnh
trong cánh tay, qua khuỷu tay, qua chỗ khớp cổ tay, chỗ xương trụ và xương đậu
cao lên, tiến vào bàn tay ở khe bàn ngón 4-5 rồi ra cạnh trong ngón tay út ở đầu
ngón (Thiếu xung).
b. Quan hệ tạng phủ:
Kinh này từ ngực ra tay, thuộc tâm, đường lạc sang tiểu trường, có thêm quan hệ
trực tiếp với phế và thận.
c. Chủ trị: Đau
tim, miệng khát, mắt vàng, sườn đau hoặc cạnh trong bàn tay đau, lòng bàn tay
nóng.
6. Thủ thái dương
tiểu trường kinh
a. Cấu trúc: Gồm
19 huyệt, hai bên là 38 huyệt. Kinh mạch tuần hành bắt đầu từ cạnh ngoài đầu
ngón tay út (thiếu trạch), ven theo ngoài bàn tay, đến chỗ cổ tay, qua giữa lồi
cầu xương trụ lên đến phía sau cẳng tay, qua khuỷu tay ở chỗ giữa mỏm khuỷu tay
và mỏm khớp xương cánh tay, đi ven lên cạnh ngoài phía sau cánh tay, đến mặt
sau khớp vai, đi cạnh ngoài phía sau cánh tay, đến măt sau khớp vai, đi nông cả
phía trên và dưới gờ xương bả vai, giao hội với huyệt Đại chuỳ ở đốc mạch, rồi
gập lại phía trước tiến vào hõm vai, đi xuống nối với đường lạc của tâm trạng,
ven thực quản đến dạ dày, tới tiểu trường.
Mạch nhánh ở hõm
vai, từ hõm vai (sau kinh đai trường) lên má (sau huyêt Giáp xa) đến khoé măt
ngoài giao hội với túc thiếu dương đảm kinh ở huyệt Đồng tử liêu, gập lại đến
phia trước tai (Thính cung) rồi vào trong tai.
Mạch nhánh ở má, từ
góc mắt phân ra hướng về phía dưới ổ mắt tới khoé trong mắt chỗ hốc mũi.
b. Quan hệ tạng phủ:
Kinh này từ tay lên đầu, thuộc tiểu trường, đường lạc sang tâm, có thêm quan hệ
trực tiếp với vị.
c. Chủ trị: Tai điếc,
mắt vàng, cổ sưng, họng đau, bụng dưới đau, vai và phía sau cánh tay đau.
7. Túc thái dương
bàng quang kinh
a. Cấu trúc: Gồm
67 huyệt, hai bên là 134 huyệt. Kinh mạch tuần hành bắt đầu từ khoé mắt trong
(Tinh minh) lên thẳng trước trán đến sau đỉnh đầu (Bách hội), lại từ đỉnh đầu đến
góc trước tai. Kinh đi thẳng từ đỉnh đầu thông vào não rồi trở lại, hướng ra
phía sau chia làm hai nhánh.
Mạch nhánh thứ nhất
đi theo cạnh trong bắp thịt bả vai dựa theo gần sát cột sống, (cách đều cột sống
là 1,5 thốn) đi thẳng xuống đến thắt lưng, theo cạnh cột sống thắt lưng mà liên
lạc vào thận tạng, vào bàng quang. Từ lưng bụng đi xuống ven theo cột sống 1,5
thốn qua mông, tiến xuống lõm khoeo sau đầu gối.
Mạch nhánh thứ hai
từ sau gáy ven theo cột sống cách đều 3 thốn (cạng trong xương bả vai) đi xuống
qua mông, ven theo phía sau cạnh ngoài đùi đi thẳng xuống giao hội với nhánh thứ
nhất trong hố lõm khoeo, từ đấy lại qua bụng chân, qua phía sau mắt cá ngoài
chân, đến chỗ lồi xương bàn số 5, đến cạnh ngoài đầu ngón út chân (Chi âm).
b. Quan hệ tạng phủ:
Kinh này từ đầu đến chân, thuộc bàng quang, đường lạc sang thận, còn có thêm
quan hệ trực tiếp với não và tâm.
c. Chủ trị: Đau đầu,
đau cột sống, đau lưng, đau đùi, đau chân, bắp chân co rút, sốt rét, đau mắt,
ra gió chảy nước mắt, tiểu tiện không thông, đái dầm, và bệnh tật ở những nơi
đường kinh đi qua ở chi dưới. (Bố du là du huyệt của lục phủ ngũ tạng trên đường
kinh bàng quang vùng lưng chủ trị bệnh biến của tạng phủ theo tên nó).
8. Túc thiếu âm thận
kinh
a. Cấu trúc: Gồm
27 huyệt, hai bên là 54 huyệt. Kinh mạch tuần hành bắt đầu từ phía dưới ngón
chân út, đi chéo vào giữa chỗ lõm trước lòng bàn chân (Dũng tuyền) qua phía dưới
chỗ lõm của xương thuyền, qua phía sau của mắt cá chân đi xuống gót chân, từ đó
đi lên theo cạnh trong bắp chân, qua cạnh trong hố khoeo sau khớp gối, lên đến
phía sau cạnh trong đùi, tiến vào ổ bụng, ven cột sống, thông vào thận, liền
sang bàng quang.
Mạch đi thẳng ở thận
tạng, hướng từ thận đi lên qua gan và cơ hoành vào phổi, đi lên hai bên cạnh hầu,
phân bố chỗ cuống lưỡi.
Mạch nhánh ở phổi.
Từ phế tạng phân ra cùng quan hệ vơi tâm trạng, phân chia ra trong lồng ngực,
cùng nối tiếp với thủ quyết âm tâm bào kinh.
b. Quan hệ tạng phủ:
Kinh này đi từ chân lên đến ngực, thuộc thận, đường lạc sạng bàng quang. Có
thêm quan hệ trực tiếp với can, phế, tâm.
c. Chủ trị: Đái dầm,
đái són, di tinh, liệt dương, kinh nguyệt không đều, ho ra máu, hen, lưỡi khô,
hầu họng sưng đau, đau lưng, phù thũng, xương sống và phía sau cạnh trong đùi
đau, mệt mỏi không có sức, lòng bàn tay nóng.
9. Thủ quyết âm
tâm bào kinh
a. Cấu trúc: Gồm 9
huyệt, cả hai bên là 18 huyệt. Kinh mạch tuần hành bắt đầu từ trong ngực ra, lại
vào tới tâm bào lạc, hướng xuống, qua cơ hoành xuống bụng, liên quan đến thượng
tiêu, trung tiêu, hạ tiêu.
Mạch nhánh ở ngực,
từ trong ngực phân bố ra xương sườn, đến dưới hố nách, đi ra giữa cạnh trong
cánh tay, vào giữa khớp khuỷu tay, ra cẳng tay, ở giữa cơ gấp cổ tay, cơ quan
và cơ dài tiến vào giữa lòng bàn tay, ven theo cạnh trong ngón giữa ra đầu ngón
tay.
Phân nhánh ở giữa
long bàn tay, từ huyệt lao cung phân ra ven theo ngón tay đeo nhẫn (ngón 4), ở
cạnh ngoài ngón (huyệt Quan xung).
b. Quan hệ tạng phủ:
Kinh này đi từ ngực ra, thuộc về tâm bào, đường lạc sang tam tiêu,
c. Chủ trị: Lòng
bàn tay phát nóng, cẳng tay và khớp khuỷu co rút, hố nách sưng, sườn ngực đầy tức,
tim đập mạnh, mặt đỏ.
10. Thủ thiếu
dương tam tiêu kinh
a. Cấu trúc: Gồm
23 huyệt, hai bên là 46 huyệt. Kinh mạch tuần hành từ đầu cạnh ngón ngoài ngón
tay đeo nhẫn (Quan xung), đi lên giữa khe xương bàn 4 – 5 trên mu bàn tay, ven
theo lên giữa cổ tay, tiếp tục đi lên phía ngoài cẳng tay, giữa xương trụ và
xương quay, đi lên qua mỏm khuỷu, lên cạnh ngoài cánh tay đến vai, giao hội với
túc thiếu dương đảm kinh ở mặt sau, phía trước tiến vào lõm vai, phân bố xuống
giữa hai vú, mạch khí chia ra nối liền với tâm bào, hướng xuống qua cơ hoành, từ
ngực đến bụng, vào tới thượng tiêu, trung tiêu, hạ tiêu.
Mạch nhánh ở ngực,
từ chỗ Chiên trung phân ra, đi lên qua lõm vai, qua cạnh cổ, phân bố đến sau
tai, một hướng đi thẳng ra góc trên tai, lại cong xuống má mặt, đến dưới ổ mắt.
Mạch nhánh ở tai,
từ sau vành tai tiến vào trong tai, lại đi ra phía trước vành tai giao hội với
mạch nhánh ở ngực tai góc má mặt rồi đến cạnh ngoài lông mày, cuối cùng là góc
ngoài khoé mắt.
b. Quan hệ tạng phủ:
Thuộc tam tiêu, đường lạc sang tâm bào.
c. Chủ trị: Bụng
trướng, phù nề, đái dầm, tiểu tiện khó, đau đầu, ù tai, đau đầu họng, đau góc
ngoài mắt, cạnh ngoài vai và cánh tay đau.
11. Túc thiếu
dương đảm kinh
a. Cấu trúc: Gồm
44 huyệt, hai bên là 88 huyệt. kinh mạch bắt đầu tuần hành từ khoé mắt bên
ngoài, đi ra trước tai, hướng lên đến góc đầu, lại hướng xuống phía sau tai rồi
ngược lên cạnh đầu, ven theo đầu cổ đến kinh thủ thiếu dương ở mặt trước, đến tận
phía sau mi trên thì lại quay trở lại, giao với thủ thiếu dương kinh ở mặt sau,
rồi xuống vào hõm vai.
Mạch nhánh ở tai,
từ sau tai đi qua huyệt Ế phong của thủ thiếu dương kinh đi vào trong tai, lại
ra trước tai, đến phía sau khoé mắt ngoài, lại từ góc phía mắt ngoài tách ra,
hướng đến chỗ huyệt Đại nghinh, tại đây hợp chung với phía sau kinh thủ thiếu
dương tam tiêu đến phía dưới ổ mắt, lại gập xuống qua chỗ huyệt Giáp xa để đến
cổ, và nhập vào gặp mạch chỗ lõm vai, từ lõm vai vào lồng ngực, qua cơ hoành, nối
liền cùng can tạng, về đảm, đi ven theo phía trong xương sườn, xuống rãnh háng ở
hai bên bụng dưới chỗ huyệt khí xung, qua háng, gồ mu chui vào mấu chuyển lớn
xương đùi.
Mạch đi thẳng ở
lõm vai, từ lom vai đi xuống đến trước, hố nách men theo cạnh ngực qua xương sườn
11 xuống dưới nhập vào mạch trước ở mấu chuyển lớn xương đùi, từ đó đi xuống,
ven theo cạnh ngoài xương đùi, cạnh ngoài khớp gối, đi xuống mặt trước xương
mác, đến đầu dưới xương mác (Tuyệt cốt), đi hướng mặt trước mắt ca ngoài, ven
trên mu bàn chân và kết thúc ở cạnh ngoài đầu ngón chân 4 (Túc khiếu âm).
Mạch nhánh ở u bàn
chân, từ huyệt Túc lâm khấp trên mu bàn chân tách ra ven theo khe xương cổ chân
1 và 2 đi ra sau góc móng ngón cái (Đại đôn).
b. Quan hệ tạng phủ:
Thuộc đảm, đường lạc sang can, có thêm quan hệ trực tiếp với tâm.
c. Chủ trị: Đau đầu,
đau góc ngoài ổ mắt, phát sốt.
12. Túc quyết âm
tam kinh
a. Cấu trúc: Gồm
14 huyệt, hai bên là 28 huyệt. Kinh mạch tuần hành bắt đầu từ cạnh ngoài góc
móng ngón cái đi lên hướng mu bàn chân, qua phía trước mắt cá trong khoảng hơn
một thốn, đi lên qua huyệt Tam âm giao đến chỗ cách mắt cá trong 3 thốn thì
giao nhau với kinh thúc thái âm tỳ rồi đi theo phía sau kinh thúc thái âm tỳ
lên đến cạnh trong đầu gối, ven theo cạnh trong đùi lên đến gồ mu, vòng qua âm,
dương vật đến bụng dưới, đi theo cạnh dạ dày, vào tới can tạng và cùng nối liền
với đảm, kế tiếp xuyên qua cơ hoành đến xương sườn lên ven khí quản, cạnh sau hầu
tiến vào trong mũi, sang hố mắt, hướng lên ra trước trán hợp lại với đốc mạch ở
đỉnh đầu.
Mạch nhánh ở hệ mắt,
từ hệ mắt đi xuống phía sau của góc hàm vòng phía trong môi. Mạch nhánh ở gan,
từ can tạng chia ra, qua cơ hoành, đến phế tạng.
b. Quan hệ phủ tạng:
Thuộc can, đường lạc sang đảm, có thêm quan hệ trực tiếp với phế, vị, thận và
não.
c. Chủ trị: Đái dầm,
tiểu tiện khó, đàn bà đau bụng dưới, đau lưng, ỉa chảy, sán khí, bệnh tinh thần.
Kinh này trị bệnh ở âm vật, dương vật là chính: cũng trị các bệnh ở cả mắt và
sườn.
Tám mạch kỳ kinh
12 kinh mạch có
quan hệ trực tiếp với nội tạng nên gọi là chính kinh.
Kỳ kinh là khoảng
giao nhau của tất cả 12 kinh mạch, thông qua 12 kinh mạch và phátsinh quan hệ
gián tiếp với nội tạng, là kinh mạch ngoài chính kinh. Vì nó khác với 12kinh mạch
nên gọi là kỳ kinh.
Mạch kỳ kinh là: Đốc,
nhâm, xung, đới, âm duy, dương duy, âm kiểu, dương kiểu. Trong 8 mạch kỳ kinh,
chỉ có 2 mạch nhâm, đốc là đi thẳng giữa 2 mặt trước, sau của cơ thể,chúng có
những huyệt chuyên thuộc của nó. Sáu kinh còn lại đều phụ theo ở 12 kinh mạchkia,
không có chuyên huyệt của từng kinh. Do tính chất trọng yếu của hai mạch nhâm,
đốctrong châm cứu, cho nên người ta gộp vào với 12 kinh mạch gọi cả là 14 kinh.
A. Đặc điểm sinh
lý của 8 mạch kỳ kinh
Tám mạch kỳ kinh
là một thông số lạc đặc thù của việc điều tiết vận hành khí huyết. Công năng
chung của nó là điều tiết khí huyết của 12 kinh mạch. Như khi khí huyết ở 12
kinhmạch đầy đủ cũng đưa nhiều khí huyết cho tám mạch kỳ kinh chứa giữ. Những
lúc 12 kinhmạch khí thiếu khí huyết thì tám mạch kỳ kinh cấp bổ sung lại.
1. Đốc mạch tuần hành ở chính giữa cột sống, các
dương kinh ở tay chân trong 12 kinhmạch đều giao hội với đốc mạch. Vì thế đốc mạch
có tác dụng thống soái các dương kinh,do đó cũng gọi là “dương kinh chi hải” (bể
chứa các dương kinh).
2. Nhâm mạch tuần hành ở chính giữa bụng, ba
kinh âm ở chân đến
giao hội với nhâmmạch
ở vùng dưới rốn. Vì nhâm mạch có tác dụng tổng nhiệm âm kinh cho nên cũng gọilà
“âm kinh chi hải” (bể chứa các âm kinh).
3. Xung mạch bắt đầu từ trong ngực, đi ở hai bên
cạnh bụng, trên kinh túc thiếu âm thận, quan hệ mật thiết với hai mạch nhâm, đốc,
chiếm địa vị trọng yếu trong con người vì vậy cũng gọi là “kinh lạc chi hải” (bể
chứa các kinh lạc).
4. Đới mạch ở phía dưới sườn, đi vòng quanh người
như một cái vòng gai, có tác dụngthúc các kinh đi đều.
5. “Duy” có nghĩa là duy hệ (giữ mối liên lạc về
một hệ). Dương duy mạch bắt đầu từ gót chân ra mắt cá ngoài gộp với túc thiếu
dương đảm kinh đi lên liên hệ với các dương kinh;âm duy mạch bắt đầu từ cạnh
trong bắp chân, theo túc thái âm tỳ kinh đi lên quan hệ với các âm kinh.
6. “Kiểu” mạch có nghĩa là mạch nhẹ nhõm và mạnh
mẽ như cái cà kheo. Dương kiểumạch bắt đầu từ cạnh ngoài gót chân song hành với
túc thái dương kinh đi lên; âm kiểumạch bắt đầu từ cạnh trong gót chân theo túc
thiếu âm đi lên, cả 2 có tác dụng làm cho chi vận động được khoẻ (là sức giữ
cho hai chân thẳng vững như hai cái cà kheo kẹp trongngoài chân).
B. Đầu, cuối của
tám mạch kỳ kinh và chủ trị của nó
1. Đốc mạch
Gồm 28 huyệt. Bắt
đầu từ trong bụng dưới, đi ra từ Hội âm, phía sau
đi lên theo phía
trong cột sống, lên thẳng phía sau gáy, đến phong phủ thì vào não, lên đến đỉnh
đầu, theotrục giữa đi ra trước trán, xuống đến dưới đầu mũi đến phía trong môi
trên thì nối tiếp vớinhâm mạch (H20)
Chủ trị: Cấp cứu,
bệnh tình chí, đau đầu, lưng đau, uốn ván.
2. Nhâm mạch
Gồm 24 huyệt. Kinh
mạch bắt đầu tuần hành từ bụng dưới, ra từ huyệt Hội âm, hướng lên gò mu đến
Trung cực thì đi vào bụng, theo đường giữa bụng đi lên vòng môi, qua hai mámặt
và phía dưới ổ mắt thì dứt. (H.21)
Chủ trị: Bụng dưới
đau, bí đái, đái dầm, kinh nguyệt không đều, chảy máu dạ con, sán khí,hư thoát,
đau dạ dày, ỉa chảy, ho hen.
Kinh này ngoài hai
huyệt Quan nguyên, Khí hải có tác dụng bồii bổ sức khoẻ toàn thân, các huyệt
còn lại nói chung chỉ có tác dụng chữa các bệnh cục bộ (bao gồm cả nội tạng
nơiđó).
3. Xung mạch
Xung mạch và nhâm
mạch cùng bắt đầu từ huyệt Hội âm, hướng đi lên ven theo cột sống trong sâu, tản
vào trong ngực, hội với hầu.
Chủ trị: Khí xông
ngược lên, đau bụng.
4. Đới mạch
Bắt đầu từ dưới sườn
cụt, vòng quanh thân một vòng kín.
Chủ trị: Trong bụng
đầy tức, phần lưng không mềm mại.
5. Âm kiểu mạch
Cũng là một kinh mạch
được tách ra từ túc thiếu âm thận, bắt đầu từ phía sau huyệt Nhiên cốc, đi thẳng
lên đến cạnh trong đùi, vào cơ quan sinh dục, lên phía trong ổ bụng, nối ra ởphía
trước động mạch Nhân nghinh rồi nhập vào khoé mắt trong.
Chủ trị: Chân bai
ra ngoài (ngoại phiên) liệt thần kinh khoeo trong.
6. Dương kiểu mạch
Bắt đầu từ giữa
gót chân, ven theo mắt cá ngoài đi lên tới huyệt Phong trì túc thiếu dươngđảm
kinh.
Chủ trị: Chân bai
vào trong (nội phiên)
7. Âm duy mạch
Bắt đầu từ chỗ các
âm kinh giao hội, men theo cạnh trong đùi, bụng dưới, ven theo sườn,lên đến hai
bên họng.
Chủ trị: Đau tim.
8. Dương duy mạch
Bắt đầu từ chỗ các
dương kinh giao hội, ven theo cạnh ngoài đầu gối, bụng dưới, bên cạnh, ven sườn
lên đến vai và khuỷu tay, đi qua phía trước vai, đi vào sau vai, lên phía sau
tai, xuống đến trán.
Chủ trị: Hàn nhiệt.