08/04/2015

BÀI THIỀN THU LỬA TAM MUỘI

1. CHỌN TƯ THẾ NGỒI

   Ngồi ở tư thế nào cho thoải mái nhất để có thể tĩnh lặng được lâu. Toàn thân thả lỏng, đầu và thân thành một đường thẳng vì đây là đường đi chính của năng lượng. hai tay buông xuôi, đặt ngửa lên hai đầu gối. Từ từ khép đôi bờ mi, môi hơi ngậm lại, đặt đầu lưỡi lên vòm họng trên tại chân răng cửa.

2. THỞ NỘI LỰC 4 THÌ
Đây là bước khởi động cho buổi luyện tập thiền.
* Thì thứ nhất: Từ từ lấy hơi bằng mũi, bằng cơ hoành, nén xuống bụng dưới.
* Thì thứ hai: Nín thở - giữ nguyên trạng thái đã được nén xuống bụng dưới để chuyển hoá năng lượng.
* Thì thứ ba: Từ từ thở ra nhẹ nhàng bằng mồm, cơ bụng từ từ xẹp xuống.
* Thì thú tư: Ngừng thở (ngừng lấy hơi) để ổn định sự thăng bằng trong cơ thể.
YÊU CẦU:
Thở nhẹ thở đều, thở từ từ, thời gian của 4 thì phải bằng nhau, thời gian của các hơi thở 4 thì phải bằng nhau. Thở cho đủ 3 lần hoặc 5 lần trước khi vào vận hành Luân xa.

3. VẦN LUÂN XA
Hãy quán tưởng có một dòng năng lượng dạng hình nón xoáy trôn ốc theo chiều kim đồng hồ đang đi vào cơ thể qua luân xa (6-16) và có một dòng ánh sáng rực rỡ đang chiếu thẳng vào luân xa 6.
Tiếp tục quán tưởng như vậy theo thứ tự từng cặp luân xa sau:
+ 6 7 5 4 3 2
- 16 1 8 9 10 11
Sau đó quán tưởng: “Hãy thu năng lượng vào luân xa 1 thời gian trong một phút, nhíu hậu môn 3 lần theo 3 hơi thở đưa năng lượng dồn nén xuống chân, đẩy tà khí ra ngoài.
Tiếp theo, quán tưởng: “Hãy thu năng lượng vào Cửu Khiếu, Lục phủ, Ngũ tạng và hai Thái dương”(thời gian ít nhất từ 1 đến 2 phút).
Sau đó quán tưởng: “Năng lượng vào cơ thể theo các luân xa, khai thông mọi bế tắc, tái tạo, điều chỉnh, bổ sung mọi khiếm khuyết, đào thải các chất độc hại ra khỏi cơ thể.”

4. VẬN HÀNH VÒNG TIỂU CHU THIÊN
Từ từ thu 2 tay từ đầu gối về, tay phải đặt chồng lên tay trái, hai ngón cái chạm vào nhau để ngay ngắn dưới rốn (nam giới tay trái đặt trên tay phải).
Mật lệnh: “Âm thăng” từ từ lấy hơi bằng mũi và cảm nhận có một dòng năng lượng đang chạy dọc theo các luân xa âm từ dưới lên Bách Hội, “Dương giáng” từ từ thở ra và quán tưởng dòng năng lượng chạy dọc các luân xa dương từ Bách Hội, dọc cột sống xuống đến đùi thì 2 tay trở về gối như cũ, và mật lệnh “xuống chân”.

5. VẦN 10 QUẢ CẦU LỬA NGŨ SẮC.
Có ý nghĩa thu năng lượng và kích hoạt cho các luân xa mở rộng ra, quay mạnh lên, quay nhanh lên để nén năng lượng vào cơ thể càng nhiều.
Quán tưởng: “Có một quả cầu ngũ sắc đang quay rất nhanh đi vào cơ thể qua luân xa 6 theo chiều kim đồng hồ. Xoáy mạnh lên, mạnh nữa lên, nhanh hơn nữa làm cho luân xa 6 nóng rực lên, toàn thân nóng rực lên.”
Cứ tiếp tục vần như vậy theo thứ tự các luân xa: 6, 7, 5, 4, 3, 2, 2 lao cung (hai lòng bàn tay), 2 dũng tuyền (hai lòng bàn chân).
Sau đó cảm nhận thấy 10 quả cầu lửa ngũ sắc cùng quay rất nhanh, rất mạnh theo chiều kim đồng hồ, đi vào cơ thể qua các luân xa: 6, 7, 5, 4, 3, 2, 2 lao cung, 2 dũng tuyền. Hai tay, hai chân sáng rực lên; toàn thân sáng rực lên.
Quán tưởng: “Trái tim ta đang được bao bọc trong ngọn Lửa Tam Muội, hai bàn tay ta là hai lò Lửa Tam Muội, toàn thân ta đang ngồi trong ngọn Lửa Tam Muội, hãy cháy lên đi ngọn lửa Tam Muội.”
(Đối với người cao huyết áp phải quán tưởng: “Trái tim ta là đóa sen đang nở, toàn thân ta đang ngồi trong một đầm sen đang nở.”

6. THU ÁNH SÁNG VÀNG (Trường năng lượng)
Từng chùm, từng chùm ánh sáng vàng óng rơi xuống người, phủ lên cơ thể bạn. Những chùm ánh sáng vàng óng rơi mỗi lúc một gia tăng mạnh mẽ; phủ đầy lên cơ thể bạn và tràn ngập nơi bạn đang ngồi thiền.

7. ĐAN THẾ TAY THU LỬA TAM MUỘI
Từ từ thu hai tay từ đầu gối về, hai tay khum lại, các móng tay của 4 ngón con hai tay chạm vào nhau. Hai ngón tay cái chạm vào nhau để dưới rốn (ngồi trong suốt quá trình thiền thu năng lượng. Vì đây là một trong những quyết ấn để thu năng lượng).

8. MỞ RỘNG VÒNG TIỀM SINH
Dùng ý niệm đưa năng lượng trong cơ thể ra tạo thành vòng cầu tiềm sinh bao bọc cơ thể đang ngồi thiền. Bạn như đang ngổi trong quả cầu trong suốt. Lúc này, Lực Gia Trì vũ trụ sẽ ban phát cho bạn dòng năng lượng Lửa Tam Muội.

9. TOẠ THIỀN
Lúc này toàn thân tĩnh lặng ngồi thu năng lượng Lửa Tam Muội. Tất cả các tạp niệm đã được loại bỏ, bạn đã thực sự vô thức. Toàn thân nhẹ bỗng và bồng bềnh. Dòng năng lượng Lửa Tam Muội đang tuôn chảy vào cơ thể bạn. Bạn cứ tiếp tục ngồi như vậy sao cho ít nhất cũng được 30 phút trở lên.
10. THU VÒNG TIỀM SINH
Khi không thiền nữa, bạn từ từ đưa hai tay trở về đầu gối như cũ và ý niệm thu vòng Tiềm sinh của bạn về bên trong cơ thể: chui vào rốn, chui vào rốn, chui vào rốn! (Đây là năng lượng bản thể của bạn, lớn dần lên sau mỗi lần thiền.)

11. XẢ THIỀN (Đây là bước rất quan trọng)
- Khi xả thiền, hai bàn tay chắp trước ngực, các đầu bàn tay hướng lên phía trên. Xát hai bàn tay vào nhau nhiều lần.
- Dùng hai tay bịt tai, ôm lấy chẩm (luân xa 16) và thở nội lực 3 hoặc 5 lần như lúc đầu bước vào thiền.
- Sau đó tiếp tục đưa tay về phía trước ngực và xát hai tay vào nhau nhiều lần.
- Dùng 3 ngón tay giữa ở 2 bàn tay bịt lên 2 mắt. Tâm niệm đưa năng lượng vào 2 mắt làm cho 2 mắt sáng và khoẻ ra. (Thời gian để ít nhất 2 phút). Sau đó dùng ngón tay vuốt nhẹ lên 2 lông mày từ trong ra ngoài, và vuốt nhẹ dưới mắt. (Nam- 7 lần, nữ - 9 lần)
- Dùng 2 ngón tay út vuốt dọc hai bên sống mũi từ trên xuống dưới nhiều lần. (Nam- 7 lần, nữ - 9 lần)
- Dùng 2 bàn tay xoa nhẹ, đều lên mặt từ dưới lên, từ trong ra ngoài theo vòng tròn liên tục 9 lần. (tốt nhất là xoa 36 lần trong mỗi lần thiền để thần sắc của bạn đẹp lên).
- Dùng 10 đầu ngón tay chải tóc từ đằng trước ra đằng sau 9 lần (tốt nhất là 36 lần).
- Hai cánh tay úp xuống, tay nọ vuốt tay kia 9 lần đều nhau từ trên xuống ra các đầu ngón tay. (Nam- 7 lần, nữ - 9 lần)
- Hai tay ôm hai bên thắt lưng (vùng thận) vuốt dọc xuống mông về phía đầu gối và vuốt dọc xuống 2 chân ra ngón chân. (Nam- 7 lần, nữ - 9 lần)
Thế là bạn đã kết thúc bài thiền Lửa Tam Muội. Chúc các bạn thành công.
Chú ý: Khi đang ngồi thiền có việc đột xuất phải đứng dậy thì bạn phải vừa vẩy tay vừa búng đẩy các ngón tay. (Nam- 7 lần, nữ - 9 lần)

LƯU Ý: Nếu trước khi thiền bạn chắp tay khấn xin Đức Phật Dược Sư, Đức Thầy Tổ Dasira Narada về trợ duyên giúp cho luyện tập tốt và trước khi xả thiền bạn chắp tay vái tạ thì sẽ rất tốt. Còn có bài Chú Hộ Mệnh dùng để định tâm trong quá trình thiền, Thu sẽ cho đăng sau.

Lấy đĩa thiền ở đây "BÀI THIỀN THU LỬA TAM MUỘI"
Bài thiền này do Thầy đọc và được làm trên nền nhạc Kitaro với thời gian 64 phút kể cả xả thiền. 

******************
PHẦN I
Muốn luyện tập môn Thiền Thu Lửa Tam Muội, bạn cần có kiến thức về luân xa và mối quan hệ giữa các luân xa và hệ thần kinh.
Để hiểu luân xa là gì, mối quan hệ giữa luân xa và trường năng lượng, chức năng của các luân xa, mời bạn đọc chương 7a và chương 7b trong tác phẩm "Bàn tay ánh sáng" của  Barbara Brennan.

Hệ thần kinh và các luân xa


Luân xa 7: Điều khiển toàn bộ cơ thể. Chủ trị các bệnh thần kinh, phối hợp với các LX khác chữa trị hầu hết các bệnh.
Luân xa 6: Liên quan vỏ não và tuyến tùng là “Thần nhãn”. Chủ trị về Thần kinh, mất trí, huyết áp và hoạt động tứ chi.
Luân xa 5: Chữa trị hô hấp, mũi, họng, phổi, suyễn, bệnh về da, dị ứng (allergy).
Luân xa 4: Chữa trị về tim và cholesterol.
Luân xa 3: Điều hòa năng lượng cơ thể. Chữa trị các bệnh về tiêu hóa, gan, dạ dày, ruột, lá lách, thận.
Luân xa 2: Chữa trị về bộ phận sinh dục, bài tiết.
Luân xa 1: Là tiềm lực nguồn vũ trụ.
Sự hiểu biết về hệ thống và vị trí các luân xa là rất quan trọng trong quá trình tập thiền. Luân xa là các huyệt đạo chính trên cơ thể, được sắp xếp theo các cặp đối xứng. 
Luân xa 6-16, 7-1, 5-8, 4-9, 3-10, 2-11 mà trong đó các luân xa 6, 7, 5, 4, 3, 2 nằm trên mạch đốc (mạch dương), các luân xa 8, 9, 10, 11 và 1 nằm trên mạch nhâm (mạch âm).
(Ghi chú: Trong một số tài liệu khác người ta xếp các luân xa theo cặp A-B.)


Ngoài các cặp luân xa trên, các huyệt và cơ quan tạng phủ sau còn có liên quan tới quá trình trao đổi năng lượng:
- 2 huyệt Lao Cung trong 2 lòng bàn tay: huyệt ở trên đường văn tim của gan bàn tay, nơi khe của ngón giữa và ngón vô danh (ngón 4 hay còn gọi là ngón nhẫn) chạm vào đường văn này hoặc gấp các ngón tay vào lòng bàn tay, đầu ngón tay giữa chạm vào đường nếp gấp giữa lòng bàn tay (đường tâm đạo) ở đâu thì đó là huyệt - xem ảnh dưới 
 Nguồn ảnh: ykhoa.net
- 2 huyệt Dũng Tuyền trong 2 lòng bàn chân: huyệt nằm trên gan bàn chân. Lấy khoảng cách từ ngón chân thứ 2 (ngón chân trỏ) tới gót chân chia làm 5 phần, thì huyệt Dũng Tuyền là điểm lõm nằm cách ngón chân trỏ 2/5 khoảng cách đó (cách gót 3/5) - xem ảnh trên
- Cửu khiếu: 2 lỗ tai, 2 mắt, 2 lỗ mũi, miệng, lỗ sinh dục, lỗ bài tiết
- Lục phủ: 6 bộ phận quan trọng trong vùng bụng là vị (bao tử), đảm/đởm (mật), tam tiêu (thượng tiêu là miệng trên của bao tử, trung tiêu là khoảng giữa bao tử, hạ tiêu là miệng trên của bàng quang), bàng quang (bọng đái), tiểu trường (ruột non), đại trường (ruột già)  
 2 thái dương
nguồn ảnh: ykhoa.net
- Ngũ tạng: 5 bộ phận quan trọng trong vùng ngực và bụng là tâm (tim), can (gan), tỳ (lá lách), phế (phổi), thận (cật)
- và 2 huyệt Thái Dương ở chỗ lõm phía sau ngoài đuôi mắt 1 tấc, ấn vào có cảm giác ê tức.








***********

PHẦN II
Tư thế khi ngồi thiền
Có các tư thế ngồi thiền khác nhau. Khi luyện thiền theo pháp môn Thiền Thu Lửa Tam Muội, bạn có thể ngồi theo một trong các tư thế sau:
- ngồi theo thế kiết già, hay còn gọi là thế hoa sen
- ngồi theo thế bán kiết già
- ngồi xếp chân bằng tròn
- ngồi trên ghế
Xin giới thiệu lần lượt các tư thế ngồi.

1. Ngồi trên ghế:
Ngồi trên ghế vừa đủ cao để đạt được các yêu cầu sau:
- Chọn loại ghế có độ cao vừa tầm với cẳng chân, mặt ghế không quá cứng, hoặc quá mềm để có thể ngồi thoải mái được lâu và tạo cảm giác vững chắc.
- Hai bàn chân để song song trên mặt đất, khoảng cách ngang rộng bằng vai.
- Cẳng chân thẳng tạo thành góc vuông với bàn chân.
- Đùi thẳng góc với cẳng chân tạo thành góc vuông, khớp gối vuông hình thước thợ.
- Thân thẳng góc với đùi, ngực không ưỡn, lưng không gù, không dựa lưng vào thành ghế.
- Vai để xuôi tự nhiên.
- Cánh tay để xuôi theo thân, bàn tay để ngửa tự nhiên giữa đùi (nếu đẩy nhẹ khuỷu tay, cánh tay có hiện tượng đong đưa thì mới đạt yêu cầu), tay không chạm, không tựa vào tay ghế, đối với loại ghế có tay dựa.
- Đầu ngay ngắn thẳng với sống lưng.

Tư thế ngồi trên ghế
2. Ngồi xếp bằng tròn (vành tròn)
- Ngồi trên sàn nhà, trên giường, nơi có mặt phẳng, hai chân xếp bằng tròn, có hai cách dễ làm là ngồi xếp bằng tự nhiên và xếp bằng đơn, nếu tập lâu rồi có thể ngồi xếp bằng kép.
- Đầu, thân, vai và cánh tay tương tự như tư thế ngồi ghế.

Ngồi xếp bằng tự nhiên  
 Ngồi xếp bằng kép
3. Ngồi thế bán kiết già
- Ngồi trên sàn nhà, trên giường, nơi có mặt phẳng, đặt chân trái lên đùi phải. Tuy nhiên có thể thay đổi, chân trái có thể đặt dưới và chân phải đặt trên đùi trái.
- Đầu, thân, vai và cánh tay tương tự như tư thế ngồi ghế.

 Ngồi thế bán kiết già
4. Ngồi thế kiết già:
- Kiết già hay Kết già, nói đầy đủ là Kiết già phu tọa, là cách ngồi xếp bằng hai chân gác tréo nhau tạo thành thế ngồi rất vững của các tăng ni Phật giáo khi ngồi Thiền định.
Trước hết đặt bàn chân phải lên đùi trái rồi đem bàn chân trái đặt lên đùi phải (hoặc ngược lại). Kéo sát chân vào trong thân để ngồi được lâu.

 Ngồi thế kiết già
Muốn ngồi được kiết già thì khớp háng, khớp đầu gối, khớp cổ chân phải mềm (mềm dẻo) (từ chuyên môn gọi là khớp được mở); lưng phải thẳng (Trục Tí Ngọ thẳng – trục Tí Ngọ là đường thẳng nối từ LX7 xuống LX1). Người muốn ngồi được phải kiên trì tập cho các khớp trên mềm ra. (Xem bài Cách tập ngồi kiết già của anh Trần Nghĩa)
- Đầu, thân, vai và cánh tay tương tự như tư thế ngồi ghế.

Lưu ý:
 Đầu lưỡi chạm nhẹ lên
chân răng cửa hàm trên
Dù ngồi tư thế nào đầu và cột sống phải thẳng, không nghiêng bên trái cũng không ngả bên phải, không cúi về phía trước cũng không ngả về phía sau, lỗ tai thẳng với vai và lỗ mũi thẳng với rốn. Toàn thân thả lỏng. Đặt đầu lưỡi lên vòm họng trên tại chân răng cửa, mắt khép hờ. Gương mặt bình thản, miệng hơi mỉm để cho các cơ bắp trên mặt được giãn ra. Điều này rất cần thiết cho hệ thần kinh.
Ngoài các tư thế kể trên, trong trường hợp bạn quá mệt hoặc quá ốm yếu không thể ngồi thiền được thì cũng có thể nằm thiền. Để thực hành nằm thiền bạn nằm ngửa trên giường phẳng để cột sống được thẳng, không nên gối cao, chân duỗi thẳng, cẳng chân để tự nhiên, hai cánh tay để xuôi dọc theo thân, bàn tay để ngửa, đầu ngón cái chạm vào đầu ngón giữa, thả lỏng toàn thân, mắt nhắm nhẹ, đặt đầu lưỡi lên vòm họng trên tại chân răng cửa
Một điểm cần đặc biệt chú ý: Dù thiền trong tư thế ngồi hay nằm bạn cần cố gắng loại bỏ bớt suy nghĩ để đầu óc được thảnh thơi, tránh suy nghĩ lung tung, và luôn ý thức được mình đang thiền.  

***********
PHẦN III
Một số chú ý khi ngồi thiền

1. Nên chọn nơi yên tĩnh, thoáng khí, sạch sẽ, tránh chỗ có gió lùa, khí độc, nhiều người qua lại. Nếu có bàn thờ Phật thì thắp hương lễ Phật trước khi ngồi thiền (rất tốt).
2. Nên chọn giờ thiền thích hợp, tốt nhất là vào buổi sáng sớm, sau giấc ngủ trưa, hoặc trước khi đi ngủ. Đối với người cao tuổi hay bị thức giấc nửa đêm, thì ngồi thiền vào lúc đó rất tốt, không nên nằm suy nghĩ lung tung, trằn trọc, không có lợi cho sức khỏe.
3. Trước khi thiền tuyệt đối không được uống bia, rượu. Nếu đã uống phải sau 4 tiếng mới được ngồi thiền.
4. Không nên thiền ngay sau khi vừa ăn no. Trước khi thiền nên uống một chút nước để khỏi bị khô họng.
5. Khi ngồi thiền luôn chú ý thả lỏng toàn thân, đầu và lưng thẳng vì đây là đường đi chính của năng lượng. Cố gắng loại bỏ các tạp niệm, không để các ý nghĩ hỗn độn trong đầu. Tuy vậy luôn quán tưởng "Tâm không vô thức hoàn toàn", tránh hiện tượng ngủ gật trong quá trình thiền. Thiền trong tỉnh thức. 
6. Đối với người chưa có điều kiện được Thầy mở luân xa, nếu kiên trì luyện tập, tập đúng cách và có niềm tin, các luân xa cũng sẽ tự mở. (Xem bài này)
7. Trước khi thiền nên khấn mời Đức Phật Dược Sư hoặc Thầy Tổ Dasira Narada, hoặc cả hai, để cho lực gia trì vũ trụ và trợ duyên cho buổi tập thành công và trước khi xả thiền nên vái tạ.

 Đức Phật Dược Sư
 Đức Thầy Tổ Dasira Narada
8. Khi thở nội lực 4 thì cần cố gắng để các thì bằng nhau có thể đếm từ 1->5, hoặc từ 1->10, cho mỗi thì tùy theo sức của mình, không nên cố quá, chỉ cần giữ cho các thì bằng nhau là được. (Sẽ giới thiệu kỹ về cách thở nội lực 4 thì ở phần IV.)
9. Có thể ngồi thiền theo tư thế kiết già (hoa sen), hoặc bán kiết già, hoặc ngồi ghế để hai chân tiếp đất và cẳng chân và đùi tạo thành một góc vuông miễn sao cho thật thoải mái để có thể ngồi được lâu. (Xem phần II)
10. Nên duy trì ngồi thiền đều đặn, thường xuyên và tốt nhất là nên có niềm tin thì nhất định sẽ đạt kết quả.


***********


PHẦN IV
Một số thao tác cho một buổi tập thiền

Trong một buổi tập thiền thường có một số thao tác bắt buộc, xin giới thiệu với các bạn 2 thao tác cơ bản nhất đó là Thở nội lực và Xả thiền. Cả 2 thao tác này đều đòi hỏi phải thực hiện đúng kỹ thuật mới có tác dụng.

I. Thở nội lực 4 thì (hay còn gọi tắt là thở nội lực) Thở theo hình vuông.
Yêu cầu các thì phải bằng nhau và các hơi thở cũng phải bằng nhau.
Kỹ thuật thở nội lực 4 thì: 
 
- Thì thứ nhất: từ từ lấy hơi bằng mũi bằng cơ hoành nén xuống bụng dưới.
- Thì thứ hai: nín thở để chuyển hóa năng lượng thành công năng trong cơ thể.
- Thì thứ ba: từ từ thở ra bằng mồm, cơ bụng cũng từ từ xẹp xuống.
- Thì thứ tư: tiếp tục nín thở.
Một hơi thở 4 thì này có 4 cái lợi: 
- Hít vào: lợi cho tim, phổi.
- Nén: lợi cho tỳ vị.
- Xả ra: lợi cho can thận. 
- Ngưng: lợi cho thần kinh.


Chú ý: 
1.  Đ
ặt đầu lưỡi lên vòm họng trên tại chân răng cửa.
2. Tùy theo sức của mỗi người, mỗi thì có thể 5, 10, 15 giây. Khi mới tập, bạn không nên cố quá, dễ bị hụt hơi. Khi đã tập một thời gian bạn có thể kéo dài thời gian cho mỗi thì. Điều quan trọng là phải giữ sao cho 4 thì bằng nhau và các hơi thở phải bằng nhau.
3. Khi hít vào cũng như khi thở ra cần hết sức nhẹ nhàng, từ từ, không nên hít thở vội, hít thở gấp. Vừa thở vừa nhẩm trong đầu. Ví dụ: 1,2,3,4,5,...
Để giữ cho thời gian thở nội lực giữa các lần thở và giữa các thì được bằng nhau, ta có thể làm như sau:
+ Thở nội lực lần 1:
Thì 1: vừa hít vào vừa thầm đếm: 1, 2, 3, 4, 5...
Thì 2: vừa nín thở vừa thầm đếm: 1, 2, 3, 4, 5...
Thì 3: vừa thở ra vừa thầm đếm: 1, 2, 3, 4, 5...
Thì 4: vừa nín thở vừa thầm đếm: 1, 2, 3, 4, 5...
+ Thở nội lực lần 2: thao tác như ở lần 1 nhưng khi thầm đếm thì bắt đầu từ 2. Tức là 2, 2, 3, 4, 5...
+ Thở nội lực lần 3: thầm đếm 3, 2, 3, 4, 5...
4. Khi thở ra không nên thở hết vì như vậy bạn không thể nín thở lâu được.
5. Khi nén khí xuống bụng dưới bạn nên kéo cơ hoành lên theo chiều dọc của bụng, không nên phình to bụng theo chiều ngang, như vậy bụng bạn sẽ không bị to, không bị giãn.
6. Số lần thở tùy thuộc theo yêu cầu của từng bài. Với người bị bệnh cao huyết áp, tim mạch chỉ nên thở 15 lần tối đa cho mỗi lần tập và không nên kéo dài mỗi thì.
7. Thở nội lực 4 thì không chỉ áp dụng cho các bài thiền mà còn có thể sử dụng điều tức hơi thở trước khi ngủ để giúp có giấc ngủ sâu, hoặc vào sáng sớm khi tập thể dục giúp thanh lọc khí trong phổi. Ngoài ra bạn cũng có thể tập thở nội lực vào bất cứ thời gian nào trong ngày ở nơi không khí trong lành. 


II. Xả thiền: Phải thực hiện đầy đủ các bước: 

 Xát hai tay 
- Hai bàn tay úp vào nhau, các ngón tay hướng thẳng lên trên, xát mạnh vào nhau nhiều lần rồi bịt tai, ôm lấy chẩm (luân xa 16), thở nội lực 3 lần. 
Bịt tai (nhìn thẳng)
 Bịt tai (nhìn nghiêng)
 Dùng 3 ngón giữa bịt mắt

- Hai tay xát lại vào nhau nhiều lần rồi dùng 3 ngón giữa của hai tay bịt mắt. Quán tưởng đưa năng lượng vào mắt để mắt sáng và khoẻ ra. Thời gian khoảng từ 1 - 2 phút. 

- Sau đó dùng các ngón tay vuốt nhẹ lên 2 chân mày (lông mày) từ giữa ra 2 bên, vuốt phía dưới mắt nhiều lần. 

Vuốt chân mày (lông mày)
 Vuốt dưới mắt
- Dùng 2 ngón tay út vuốt dọc sống mũi từ trên xuống dưới nhiều lần. Có tác dụng chữa xoang, dị ứng.

 Vuốt sống mũi
Vuốt sống mũi




- Dùng 2 bàn tay xoa mặt 36 lần từ dưới lên trên, từ trong ra ngoài tới tận 2 vành tai, không nhấc tay ra khỏi mặt. Động tác này giúp làm cho da mặt hồng hào tươi sáng, xóa đi vết nám, nếp nhăn đồng thời cũng giúp cho lục phủ, ngũ tạng khỏe mạnh. 
 Xoa mặt từ dưới lên
 Úp 2 bàn tay lên mặt
 Xuống cằm
 Xoa qua 2 vành tai

Khum 10 đầu ngón tay chải tóc

- Dùng 10 đầu ngón tay, các đầu ngón tay sát với da đầu, chải tóc từ đằng trước ra sau gáy 36 lần để đẩy tà khí ra và khí huyết lưu thông lên não. 

- Úp 2 cánh tay xuống, tay nọ lần lượt vuốt tay kia, từ cổ xuống dọc theo 2 cánh tay, qua bàn tay, các ngón tay rồi hất thẳng ra ngoài (nam 7 lần, nữ 9 lần) để đẩy tà khí bám trên mặt dương của cánh tay ra, đồng thời cũng làm cho máu lưu thông tốt hơn.

 Vuốt tay
- Đặt 2 bàn tay lên phần thắt lưng, vỗ nhẹ 2 bên thận và vuốt dọc xuống bên đùi, đến đầu gối chuyển tay về hai ống chân, vuốt thẳng xuống bàn chân, qua các ngón chân rồi hất thẳng ra ngoài (nam 7 lần, nữ 9 lần) giúp đẩy tà khí bám chân ra, đồng thời cũng làm cho  máu lưu thông tốt hơn.
 Vuốt chân
Chú ý: 
Khi thiền muốn đứng dậy nhất thiết phải xả thiền. Có thể động tác làm nhanh hơn. Mỗi động tác làm 7 lần đối với nam, 9 lần đối với nữ. 
Xả thiền nhanh: Nếu trong khi đang thiền bị bắt buộc phải ngắt quãng và không có đủ thời gian để tiến hành các thao tác như trên thì hãy xả thiền nhanh bằng cách búng tay thật mạnh, nam 7 lần, nữ 9 lần, lắc cổ qua lại vài cái, co duỗi cử động 2 tay và 2 chân vài cái rồi hãy đứng dậy.
***********

PHẦN V 
Bài thiền Thu Lửa Tam Muội 

Chuẩn bị thiền: 
Bạn chỉ nên bắt đầu ngồi thiền khi đã nắm vững 4 phần trên. Bạn phải chắc chắn rằng mình đã ghi nhớ vị trí của các luân xa, nhớ được những chú ý khi ngồi thiền, biết chắc mình nên ngồi ở tư thế nào cho thoải mái, nắm được kỹ năng "Thở nội lực 4 thì" và nhớ các động tác khi "Xả thiền". Điều này rất quan trọng. Nếu bạn chưa nắm được và chưa thực hành đúng những điều chúng tôi trình bày ở trên, quá trình thiền của bạn sẽ không đạt được kết quả. 
Các bước tiến hành:
- Bật đĩa thiền.  
"Bạn hãy chọn cho mình một tư thế ngồi sao cho thoải mái nhất để có thể tĩnh lặng được lâu. Toàn thân thả lỏng, đầu và thân thành một đường thẳng vì đây là đường đi chính của năng lượng. Hai tay buông xuôi, đặt ngửa lên hai đầu gối. Từ từ khép đôi bờ mi, môi hơi ngậm lại, đặt đầu lưỡi lên vòm họng trên tại chân răng cửa." 
 Thế kiết già
- Lần lượt thực hiện các chỉ dẫn đã được ghi trong đĩa. 
1. Thở nội lực 4 thì: (Xem lại mục "Thở nội lực 4 thì" ở phần IV) 
Đây là bước khởi động cho buổi luyện tập thiền. 
* Thì thứ nhất: Từ từ lấy hơi bằng mũi, bằng cơ hoành, nén xuống bụng dưới. 
* Thì thứ hai: Nín thở (giữ nguyên trạng thái đã được nén xuống bụng dưới) để chuyển hoá năng lượng thành công năng. 
* Thì thứ ba: Từ từ thở ra nhẹ nhàng bằng mồm, cơ bụng từ từ xẹp xuống. 
* Thì thứ tư: Nín thở (ngừng lấy hơi) để ổn định sự thăng bằng trong cơ thể. 
Yêu cầu: Thở nhẹ thở đều, thở từ từ, thời gian của 4 thì phải bằng nhau, thời gian của các hơi thở 4 thì phải bằng nhau. Thở cho đủ 3 lần hoặc 5 lần trước khi vào vận hành Luân xa. 
2. Vần luân xa: (Xem lại vị trí của các luân xa ở phần I) 
"Hãy quán tưởng có một dòng năng lượng dạng hình nón xoáy trôn ốc theo chiều kim đồng hồ đang đi vào cơ thể qua luân xa (6-16) và có một dòng ánh sáng rực rỡ đang chiếu thẳng vào luân xa 6." Tiếp tục quán tưởng như vậy theo thứ tự từng cặp luân xa sau: 7 - 1,          5 - 8,           4 - 9,           3 - 10,           2 - 11
Hãy thu năng lượng vào luân xa 1 thời gian một phút, nhíu hậu môn 3 lần theo 3 hơi thở. Mật lệnh “xuống chân” (để đẩy tà khí ra ngoài). 
Hãy thu năng lượng vào Cửu khiếu, Lục phủ, Ngũ tạng và hai Thái dương” (thời gian ít nhất từ 1 đến 2 phút). 
Năng lượng vào cơ thể theo các luân xa: 
- Khai thông mọi bế tắc 
- Tái tạo, điều chỉnh, bổ xung mọi khiếm khuyết 
- Thanh lọc, đào thải các chất ô chẩm, độc hại, bệnh tật ra khỏi cơ thể. 
3. Vận hành vòng Tiểu Chu Thiên: 
Bạn từ từ thu 2 tay từ đầu gối về, (nữ giới) tay phải đặt chồng lên tay trái, lòng bàn tay ngửa, hai đầu ngón tay cái chạm vào nhau để ngay ngắn dưới rốn (nam giới tay trái đặt trên tay phải) để khởi động vòng Tiểu Chu Thiên khai thông mạch Nhâm - Đốc, tăng cường sức đề kháng cho cơ thể.    
 Thế tay vận hành vòng Tiểu Chu Thiên
Bạn hãy mật lệnh: “Âm thăng” (từ từ lấy hơi bằng mũi và cảm nhận có một dòng năng lượng đang chạy dọc theo các luân xa âm từ dưới lên Bách Hội), “Dương giáng” (từ từ thở ra và quán tưởng dòng năng lượng chạy dọc các luân xa dương từ Bách Hội, dọc cột sống xuống đến luân xa 2 chia xuống 2 chân thì 2 tay trở về gối như cũ), và mật lệnh “xuống chân”. 
 Trở lại thế tay như ban đầu
4. Vần 10 quả cầu lửa ngũ sắc: 
Mục đích kích hoạt cho các luân xa quay nhanh lên, mạnh lên (tốc độ và biên độ quay của luân xa lớn dần lên, nạp nhiều năng lượng vào cơ thể.) 
Hãy quán tưởng: “Có một quả cầu ngũ sắc đang quay rất nhanh đi vào cơ thể qua luân xa 6 theo chiều kim đồng hồ. Xoáy mạnh lên, mạnh nữa lên, nhanh hơn nữa làm cho luân xa 6 nóng rực lên, toàn thân nóng rực lên.” 
Cứ tiếp tục vần như vậy theo thứ tự các luân xa: 6, 7, 5, 4, 3, 2, 2 lao cung (hai lòng bàn tay), 2 dũng tuyền (hai lòng bàn chân). Sau đó cảm nhận thấy 10 quả cầu lửa ngũ sắc cùng quay rất nhanh, rất mạnh theo chiều kim đồng hồ, đi vào cơ thể qua các luân xa: 6, 7, 5, 4, 3, 2, 2 lao cung, 2 dũng tuyền. Hai tay, hai chân sáng rực lên; toàn thân sáng rực lên. 
Đối với người huyết áp thấp và huyết áp bình thường hãy quán tưởng: “Trái tim ta đang được bao chùm trong ngọn Lửa Tam Muội, hai bàn tay ta là hai lò Lửa Tam Muội, toàn thân ta đang ngồi trong ngọn Lửa Tam Muội, ngọn lửa Tam Muội đang bùng cháy lên.” 
Đối với người cao huyết áp không nên nhẩm theo băng mà phải quán tưởng: “Trái tim ta là đóa sen đang nở, hai bàn tay ta là hai đóa sen, toàn thân ta đang ngồi trong một đầm sen đang tỏa hương thơm ngát.” (để tránh làm huyết áp tăng do việc hình dung ra ngọn lửa đang cháy và việc cảm nhận sức nóng của ngọn lửa)
5. Thu ánh sáng vàng: 
Gọi trường năng lượng về để ngồi thiền trong trường năng lượng đó. 
"Từng chùm, từng chùm ánh sáng vàng óng rơi xuống người, phủ lên cơ thể bạn. Những chùm ánh sáng vàng óng rơi mỗi lúc một gia tăng mạnh mẽ; phủ đầy lên cơ thể bạn và tràn ngập nơi bạn đang ngồi thiền."
6. Đan thế tay thu Lửa Tam Muội: 
"Bạn hãy từ từ thu hai tay từ đầu gối về, đan thế tay thu Lửa Tam Muội." (Hai tay khum lại, các móng tay của 4 ngón con hai tay chạm vào nhau. Hai ngón tay cái chạm vào nhau để sát dưới rốn. Giữ thế tay như vậy trong suốt quá trình thiền thu năng lượng vì đây là quyết ấn để thu năng lượng). 
 Đan thế tay thu Lửa Tam Muội
7. Mở rộng vòng Tiềm sinh: 
"Bạn hãy mở rộng vòng tiềm sinh trong cơ thể. Bạn như đang ngồi trong quả cầu trong suốt. Lúc này, Lực Gia Trì vũ trụ sẽ ban phát cho bạn dòng năng lượng Lửa Tam Muội."
Dùng ý niệm đưa năng lượng sẵn có trong cơ thể ra qua các luân xa tạo thành vòng cầu tiềm sinh bao bọc cơ thể khi đang ngồi thiền. Người ngồi thiền trong quả cầu năng lượng ấy được bảo vệ. 
8. Tọa thiền: 
Lúc này toàn thân tĩnh lặng ngồi thu năng lượng Lửa Tam Muội. Tất cả các tạp niệm đã được loại bỏ, bạn đã thực sự vô thức. Toàn thân nhẹ bỗng và bồng bềnh. Dòng năng lượng Lửa Tam Muội đang tuôn chảy vào cơ thể bạn. Bạn cứ tiếp tục ngồi như vậy sao cho ít nhất cũng được 30 phút trở lên. Bạn có thể kéo dài thời gian tọa thiền. 
9. Thu vòng Tiềm sinh: 
 Đưa tay trở về vị trí ban đầu
"Bạn từ từ đưa hai tay trở về đầu gối như cũ và ý niệm thu vòng Tiềm sinh của bạn về bên trong cơ thể: chui vào rốn, chui vào rốn, chui vào rốn!" (Đây chính là năng lượng bản thể của bạn. Năng lượng bản thể của bạn sẽ lớn dần lên sau mỗi lần thiền.) 
10. Xả thiền: (Xem mục "Xả thiền" ở phần IV) 
Phải thực hiện đầy đủ các bước: 
- Khi xả thiền, hai bàn tay chắp trước ngực, các đầu bàn tay hướng lên phía trên. Xát hai bàn tay vào nhau nhiều lần. 
- Dùng hai tay bịt tai, ôm lấy chẩm (luân xa 16) và thở nội lực 3 hoặc 5 lần như lúc đầu bước vào thiền. 
- Sau đó tiếp tục đưa tay về phía trước ngực và xát hai tay vào nhau nhiều lần. 
- Dùng 3 ngón tay giữa ở 2 bàn tay bịt lên 2 mắt. Tâm niệm đưa năng lượng vào 2 mắt làm cho 2 mắt sáng và khoẻ ra. 
- Sau đó dùng ngón tay vuốt nhẹ lên 2 lông mày từ trong ra ngoài, và vuốt nhẹ dưới mắt (nam- 7 lần, nữ - 9 lần) 
- Dùng 2 ngón tay út vuốt dọc hai bên sống mũi từ trên xuống dưới nhiều lần (nam- 7 lần, nữ - 9 lần)
- Dùng 2 bàn tay xoa nhẹ, đều lên mặt từ dưới lên, từ trong ra ngoài theo vòng tròn liên tục 9 lần. (tốt nhất là xoa 36 lần trong mỗi lần thiền để thần sắc của bạn đẹp lên). 
- Dùng 10 đầu ngón tay chải tóc từ đằng trước ra đằng sau 36 lần. 
- Hai cánh tay úp xuống, tay nọ vuốt tay kia 9 lần đều nhau từ trên xuống ra các đầu ngón tay (nam - 7 lần, nữ - 9 lần) 
- Hai tay ôm hai bên thắt lưng (vùng thận) vuốt dọc xuống mông về phía đầu gối và vuốt dọc xuống 2 chân ra ngón chân (nam - 7 lần, nữ - 9 lần) 
Thế là bạn đã kết thúc bài thiền Lửa Tam Muội. 

Chú ý
- Nên bố trí thời gian thích hợp để thiền đủ bài. 
- Khi đã ngồi thiền nên tắt điện thoại di động, ngắt chuông điện thoại bàn, chuông cửa (nếu có thể), dặn người nhà nên giữ cho bạn được tuyệt đối yên tĩnh. 
- Khi đang ngồi thiền có việc đột xuất bắt buộc phải ngừng thiền đứng dậy, bạn phải xả thiền nhanh hoặc vừa vẩy tay vừa búng đẩy các ngón tay (nam- 7 lần, nữ - 9 lần), rồi mới đứng dậy. Tuyệt đối không được đứng dậy đột ngột, sẽ nguy hiểm. 
- Bạn có thể đọc bài Chú Hộ Mệnh (lấy bài TẠI ĐÂY) trước khi thiền để định tâm trong quá trình thiền.
- Lấy đĩa "BÀI THIỀN THU LỬA TAM MUỘI" TẠI ĐÂY. Đĩa thiền do Thầy đọc trên nền nhạc Kitaro với thời gian 64 phút kể cả xả thiền. Bài thiền Kitaro đã được nén chỉ còn 59 MB, nên tốc độ download khá nhanh.
Chúc các bạn thành công. 

07/04/2015

Các Phương Pháp Niệm Phật


 Trích Pháp Môn Tịnh Độ
Soạn Giả:   Tỳ Kheo Thích Trí Thủ

Vì muốn thích hợp với mọi hoàn cảnh mọi tâm niệm, mọi căn cơ, nên cùng một việc niệm Phật mà có nhiều phương pháp sai khác nhau, mỗi phương pháp lại có một tác dụng đặc biệt riêng của nó. Khi niệm Phật, người tu hành nên y theo các phương pháp nêu ra sau đây, chọn lấy phương pháp nào thích hợp nhất với căn cơ và hoàn cảnh mình mà hành trì. Nếu tu niệm trong một thời gian mà thấy rằng phương pháp mình đã chọn lựa không trấn tỉnh được tâm cảnh vọng động thì nên bỏ phương pháp đó, chọn lại một phương pháp khác, lắm lúc phải chọn đi chọn lại năm bảy lần mới tìm ra một phương pháp thật thích hợp. Phương pháp nào trấn định được tâm cảnh, tiêu trừ được mọi vọng niệm thì là phương pháp hay nhất đối với mình. Cũng như đối với thầy thuốc, phương thang nào chữa đúng căn bệnh là phương thang hay. Đối với chúng sanh, vọng niệm là căn bệnh, thuốc là danh hiệu Phật, hễ phương pháp nào trừ được căn bệnh vọng niệm, ấy là phương pháp thiện xảo nhất, đừng nên câu nệ.
Sau đây, xin giải thích rõ từng phương pháp một để hành giả y theo mà hành trì cho phải phép. Lại nên nhớ thêm rằng “Trì danh” là phương pháp tụng niệm của đường lối tu Tịnh độ. Đó là một điểm trọng yếu.
a) Niệm cao tiếng: Đem hết cả tinh lực toàn thân dồn vào trong một câu niệm Phật khác nào những tiếng đại hồng chung, những tiếng sư tử rống ác cả trời đất Vũ trụ. Theo phương pháp này bị hao hơi rát cổ nhiều, không thể trì niệm lâu được. Tuy nhiên, nó có công năng đối trị được bệnh hôn trầm giải đãi, trừ khử được tạp niệm lăng nhăng. Khi niệm Phật nếu thấy mơ màng muốn ngủ gục, hoặc thấy tư tưởng bị chao động, hành giả nên mạnh mẽ đề khởi tinh thần, cất cao vọng niệm to tiếng làm trí não thức tỉnh, chánh niệm khôi phục và sẽ được linh hoạt như cũ. Niệm Phật cao tiếng có tác dụng rất lớn lao. Hơn nữa nó còn làm cho người hai bên nghe rõ tiếng niệm và khiến họ lần lần sanh khởi tâm niệm Phật.
Ngày xưa, lúc Ngài Vĩnh Minh Thọ Thuyền sư niệm Phật tại chóp núi Nam Bình, tỉnh Hàng Châu, những người qua lại dưới chân núi nghe tiếng rang rảng như tiếng nhạc trời đánh giữa hư không, khiến cho ai nấy đều rất thâm cảm. Chính Ngài đã áp dụng phương pháp này vậy.
b) Mặc niệm: Lúc niệm, môi miệng chỉ hơi mấp máy, không phát ra tiếng; Người ngoài nhìn vào, không biết là đương niệm. Tuy không phát ra tiếng, nhưng 6 chữ “Nam mô A Di Đà Phật” đương sáng ngời và rang rảng trong tâm thức hành giả, vô cùng rõ ràng. Nhờ sự sáng ngời và rang rảng ấy mà tâm thần định tĩnh, chánh niệm ngưng tụ thành một khối, khiến cho hiệu lực của nó không khác hiệu lực của niệm Phật có tiếng
Phương pháp niệm này có thể áp dụng trong khi nằm nghỉ, khi tắm rửa, lúc bệnh hoạn, lúc phóng uế, hoặc trong khi đương ở hội trường công cộng hay khi lữ thứ tha phương v.v… tóm lại là trong những trường hợp không tiện niệm ra tiếng.
c) Niệm Kim Cang: Niệm thư thả, hòa hoãn tiếng không lớn quá, không nhỏ quá. Bất luận là niệm 4 chữ, hay 6 chữ, hành giả vừa niệm vừa lắng tai nghe lại tiếng niệm của mình từng chữ một, thật rõ ràng. Cứ vừa niệm vừa nghe như thế, trí óc sẽ không bị xao lãng và tâm thần định được.
Phương pháp niệm này hiệu lực rất lớn lao, Cho nên, đem ví dụ với ngọc kim cang. Kim nghĩa là vàng, thí dụ cho sự cô đọng cẩn mật; cang nghĩa là cứng, thí dụ cho sự cứng rắn. Vừa cẩn mật vừa cứng rắn thì ngoại cảnh khó xâm nhập và tạp niệm dễ bị đánh tan.
Trong lúc phương pháp niệm Phật, phương pháp này thường được dùng hơn hết. Với phương pháp này lại có tên là phản văn niệm Phật nghĩa là niệm chữ nào trở lại nghe chữ ấy, chữ ra từ miệng lại trở về lại tai.
d) Niệm giác chiếu: Một mặt xưng danh hiệu Phật, một mặt quay tâm trí của mình trở lui soi xét tự tánh. Với phương pháp này, cảnh đối tượng trước mắt đều bị đẩy lùi hết, chỉ còn một cảm giác linh động trong tâm thôi. Ấy là cảm giác tâm Phật, thân Phật, cả hai cùng ngưng tụ thành một khối sáng chói lọi, tròn vành vạnh. Ngoài ra, các cảnh giới bao la trong mười phương như sơn hà đại địa, nhà cửa khí cụ, nhất nhất thảy đều mất tung tích cho đến thân tứ đại của hành giả cũng không biết lạc mất chỗ nào. Được như vậy thí báo thân tuy chưa xả mà cảnh Tịch quang đã chứng. Danh hiệu Phật vừa tuyên lên là đồng thời hành giả chứng nhập tam muội, đem thân phàm phu dự vào cảnh giới chư Phật.
Thật không có phương pháp nào so bằng phương pháp này. Nhưng có điều đáng tiếc là, phi bậc thượng trí, ít ai lãnh hội và thực hành nổi. Vì vậy mà sức cảm hóa của phương này có hơi hẹp
đ) Niệm quán tưởng: Một mặt xưng danh hiệu Phật, mặt khác quán tưởng thân Phật và Bồ tát trang nghiêm đang đứng trước mặt ta. Do tự kỷ ám thị tưởng tượng ra các cảnh như cảnh Phật đương đưa tay thoa đầu ta hoặc lấy áo phủ lên mình ta, hoặc như cảnh đức Quan Âm và đức Thế Chí đương đứng hầu hai bên đức Phật, còn Thánh chúng thì đương đoanh vây hai bên thân ta. Lại có thể quán tưởng cảnh đất vàng, hồ báu của thế giới Cực lạc với lâu đài tráng lệ, lưới báu bủa giăng, hoa nở chim kêu đương phát ra tiếng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng v.v…
Nếu quán tưởng này đã thành thục, thì tuy nhục thân đương ở cõi Ta bà mà thức thần đã dạo chơi trên Cực lạc. Hoặc nếu quán tưởng chưa chơn thuần thì nó vẫn có thể làm trợ duyên cho sự niệm Phật bằng cách giúp cho tịnh nghiệp dễ dàng thành tựu.
Phép tu quán tưởng này lâu ngày càng thuần thục càng tạo được một ấn tượng rõ ràng và sâu sắc trong tầm mắt của hành giả. Một ngày kia, khi báo thân suy tạ, trần duyên ở cõi đời này dù cám dỗ đến đâu, cũng khó lôi cuốn khiến phải liên lụy. Như vậy, thắng cảnh Cực lạc nhất thời đã hiển hiện ra trước mắt rồi.
e) Niệm truy đảnh: Cũng giống như phép niệm Kim cang nói đoạn trước, nhưng giữa chữ trước và chữ sau, giữa câu trước và câu sau, đừng để xen hở. Chữ nọ bồi vào chữ kia, câu sau chồng lên câu trước, trung gian không cho dứt hở, nên gọi truy đảnh. Truy nghĩa là đuổi theo, đảnh nghĩa là đầu.
Nhơn vì chữ truy đảnh, câu câu truy đảnh một cách chặt chẽ, nên tạp niệm không cách gì xen vào được. Trong lúc niệm, do trong lòng tình tự khẩn trương, tâm và khẩu cùng xúc tiến một lần, phát sanh được chánh niệm. Oai lực của chánh niệm càng lớn càng lấn át tất cả, làm cho tâm tưởng vô minh tạm thời phải chìm lặng.
Phương pháp niệm này có hiệu lực rất lớn, xưa nay thường được số đông các bậc tu tịnh nghiệp dùng đến.
g) Niệm lễ bái: Đồng thời trong khi miệng niệm thì thân lạy, hoặc niệm xong một câu lạy một lạy, hoặc bất câu miệng niệm nhiều hay ít, hễ cứ miệng niệm thì thân lạy, thân lạy thì miệng niệm.
Có niệm có lạy liên tục nên khiến cho thân khẩu hợp nhứt; đồng thời trong lúc ấy, ý nghĩ đến Phật nên cả tam nghiệp thân, khẩu, ý cũng tập trung, 6 căn đều thâu nhiếp. Như vậy, toàn bộ thân tâm cùng hết thảy các giác quan đều quy về một mối, không còn có chỗ hở nào cho trần sự chen vào, cũng không có một tâm niệm nào khác làm chao động tâm niệm tưởng Phật, nhớ Phật.
Muốn áp dụng phương pháp này, phải đặc biệt tinh tấn. Hiệu lực của nó cũng đặc biệt lớn lao. Duy chỉ có một điều hại là lễ bái quá nhiều thì sinh nhọc sức, phí hơi thở; người yếu không làm nổi. Vậy chỉ nên kiêm dụng với các phương pháp khác, chứ không nên chuyên trì, sợ e mất sức, sanh bệnh.
h) Niệm từng loạt 10 niệm (sổ thập): Khi niệm dùng chuỗi hạt để ghi số loạt, cứ mỗi loạt mười câu. Sự ghi số có nhiều cách: hoặc niệm 3 câu một hơi, làm như vậy 3 lần, đến câu tiếp thì lần một hạt chấm câu; hoặc 3 câu một hơi, rồi 2 câu một hơi nữa, như vậy 2 lần rồi lần một hạt. Như vậy là cứ mỗi khi lần một hạt chuỗi tức là đã niệm xong 10 niệm.
Phương pháp này bắt buộc tâm hành giả vừa niệm Phật, lại vừa phải nhớ số câu niệm, Cho nên, dù tâm không chuyên, buộc cũng phải chuyên. Nhờ có sự cưỡng bức ấy mà đối trị được các tạp niệm lăng xăng, tâm trở nên chuyên nhứt. Thật là một phương pháp hay và rất thích nghi với những kẻ nào tâm niệm quá chao động.
i) Niệm đếm theo hơi thở (sổ tức): Niệm như pháp truy đảnh trước kia, không kể số danh hiệu Phật niệm được nhiều hay ít, chỉ dùng hơi thở làm chừng. Bắt đầu thở ra thì niệm cho đến khi hết hơi thở, nghỉ niệm mà hít thở vào. Khi thở ra lại, tiếp tục niệm như trước. Cứ 10 lần như vậy, thì gọi là 10 hơi niệm.
Phương pháp này sở dĩ thiết lập ra đặc biệt dành riêng cho những người quá bận rộn, tiện cho sự thực hành hằng ngày. Chẳng hạn như, mỗi ngày sáng sớm ngủ dậy, sau khi rửa mặt súc miệng xong, day mặt về hướng Tây hoặc hướng trước Phật đài, bỏ ra 5 phút là niệm xong 10 hơi. Công việc không khó, như người tập thể thao làm những cử động hô hấp. Nếu ngày nào cũng chuyên cần như vậy, thì cũng nhất định được vãng sanh.
Đây là căn cứ theo đại nguyện thứ 18 của đức Phật A Di Đà (xem trước) mà thiết lập phương này. Các vị Cổ đức nghiên cứu và tu tập phương pháp thập niệm, chính là phương pháp niệm theo 10 hơi thở này.
k) Niệm theo thời khóa nhất định: Điều tối kỵ nhất trong phép niệm Phật là lúc bắt đầu thì hăng hái mà về sau lại giải đãi. Sở dĩ có sự thủy cần chung dải như vậy là vì không có tâm hằng thường. Cho nên, để giữ cho được thủy chung như nhứt, ngay từ khi sơ phát tâm niệm Phật, hành giả cần phải tự vạch cho mình một thời khóa biểu nhứt định. Một khi thời khóa biểu đã vạch sẵn rồi thì ngày ngày cứ y theo đó mà thực hành, tự gây cho mình một thói quen, và có như thế mới giữ được đạo tâm bất thoái. Trong buổi đầu, niệm nhiều hay ít chưa phải là điều quan trọng vì nhiều hay ít còn tùy thuộc năng lực và hoàn cảnh riêng biệt của từng cá nhân; quan trọng là tại chỗ thường thời thực hành, đều đều và chuyên nhất.
Người xưa có vị mỗi ngày niệm đến 10 vạn hiệu. Vị nào ít lắm cũng 5 vạn. Công hạnh tu hành của họ thật là tinh tấn dũng mãnh! Ngày nay, hoàn cảnh thay đổi khác xưa rất xa mà lực lượng của tự thân ta cũng không bằng, vậy ta nên châm chước hoạch định một công khóa, thật sát với hoàn cảnh và vừa sức của ta, để thực hành cho đúng mức. Sau khi đã hoạch định rồi thì dù gặp phải công việc bận rộn đến đâu, cũng phải cố gắng hoàn thành công khóa. Vạn nhất, vì một lẽ nào đó mà không hoàn tất được ngày ấy thì qua hôm sau phải bổ khuyết kịp thời, chớ nên để rày lần mai lửa, tạo thành cho ta một thói xấu rất có hại về sau.
Trong khi vạch khóa trình, nên tránh hai cực đoan. Cực đoan thứ nhứt là vì sự hăng hái trong buổi đầu, tự định cho mình một khóa trình quá nhiều, về sau đuối sức theo không kịp, rồi vì vậy bỏ luôn. Cực đoan thứ hai là vì sự e ngại về sau theo không kịp, nên dè đặt tự định cho mình một khóa trình quá ít, không thấm vào đâu, rồi cũng dễ sinh ra giải đãi. Cả hai cực đoan đều đến kết quả như nhau. Cho nên, trong khi quyết định khóa trình, cần phải tế nhị châm chước dung hòa giữa hoàn cảnh và năng lực thế nào thích trung mới được lâu dài và hữu hiệu
l) Niệm bất cứ lúc nào: Với những hành giả đã huân tập được tịnh chủng khá thành thục thì tự nhiên phát ra những tiếng niệm Phật bất cứ lúc nào, cơ hồ như có một sức lực dũng mãnh nào bên trong thúc đẩy, khiến cho hành giả hằng tiến không lùi. Vì vậy mà dù công khóa đã hoàn tất, các vị này vẫn chưa cho là đủ, nên trừ ngoài giấc ngủ, bất luận ngày đêm, trong bốn oai nghi là đi, đứng, nằm, ngồi, không lúc nào, không chốn nào, là không niệm Phật. Như vậy câu “Nam mô A Di Đà Phật” không lúc nào rời khỏi miệng, lâu ngày thành tập quán.
Truyện vãng sanh của người xưa còn ghi chép lại rất nhiều trường hợp vãng sanh do pháp môn niệm Phật này đem lại. Như có ông thợ rèn, tay đập búa miệng niệm Phật; bà làm nghề đậu hủ, tay xay đậu miệng niệm Phật; về sau, khi vừa dứt tiếng niệm Phật, cả hai đều được đức Phật phóng hào quang tiếp dẫn và đều được tọa hóa vãng sanh Cực lạc.
Chúng ta nên lấy đó làm gương. Nếu niệm được đến trình độ ấy thì dù có định khóa trình, hay không còn định khóa trình, không còn là vấn đề nữa.
m) Niệm hay không niệm vẫn là niệm: Phép niệm Phật nói ở đoạn trên là chỉ sự niệm thành tiếng, phát ra nơi cửa miệng, trong 4 oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi. Chữ NIỆM trong đoạn này là chỉ tâm niệm (tâm niệm nhớ nghĩ đến Phật). Nói “niệm hay không niệm vẫn là niệm” có nghĩa là bất kể niệm thành lời hay không, luôn luôn trong tâm vẫn tưởng nhớ đến Phật, tức là vẫn có niệm Phật.
Sở dĩ miệng phải niệm Phật là cốt nhắc cho trong tâm tưởng nhớ đến Phật. Giờ đây, dù cho khi miệng không niệm mà tâm vẫn có tưởng nhớ, như thế cứu cánh của phép trì danh niệm Phật đã đạt được rồi vậy.
Nếu hành giả thực hiện được phép “không niệm mà niệm” thì bất luận thời gian nào, bất luận miệng có trì danh hay không trì danh, tâm lý lúc nào cũng vẫn để vào Phật. Như vậy, tịnh niệm đã kiên cường liên tục không hở, lòng như rào sắt vách đồng, gió thổi cũng không lọt, ai muốn đập phá cũng không xuể, quyết không còn một trần niệm ô nhiễm nào có thể đột nhập, khiến cho tâm chao động được. Lúc ấy, phép niệm Phật tam muội tự nhiên thành tựu, quả vãng sanh không cầu mà tự đến.
Người xưa nói “niệm mà không niệm, không niệm mà niệm” tức là chỉ cho cảnh giới này vậy. Nếu không phải là người niệm Phật đã lâu năm, và do đó, công hạnh đã thuần thục, thì quyết không thực hành được pháp môn này. Hàng sơ cơ quả thật khó mà noi theo.
***