11/05/2015

THIỀN CỦA PHẬT GIÁO

(Đã đăng trên báo TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC)



Trong một pháp hội ở Linh Sơn, Đức Thế Tôn cầm cành hoa đưa lên, mà không nói lời nào. Lúc bấy giờ, đại chúng ngơ ngác không hiểu ý Đức Thế Tôn ra sao, chỉ có Tôn Giả Ma Ha Ca Diếp (Mahakayapa) ngộ được yếu chỉ, hướng về Đức Phật mĩm cười. Đức Thế Tôn bảo với đại chúng:


“Ta có pháp môn vi diệu, con mắt của chính pháp, tâm diệu của Niết Bàn, là tướng thực không tướng, không lập văn tự, truyền ngoài giáo lý, nay giao phó cho Ma Ha Ca Diếp”.


Từ đó, Tôn Giả Ma Ha Ca Diếp được xem là Tổ thứ nhất của Thiền Tông Ấn Độ một cách danh chánh ngôn thuận. Về sau, Tôn Giả Ca Diếp truyền y bát (của Phật) lại cho Tôn giả A Nan làm Tổ thứ hai, và cứ như thế tiếp tục truyền đến đời thứ 28 là Tổ Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma).


Vào năm 520, Tổ Bồ Đề Đạt Ma biết được tín chúng Phật tử Trung Quốc đã có đạo tâm thuần thục, liền vượt biển sang Đông, cặp bến vào quảng Châu. Quan Thái Thú địa phương rước Ngài về Kim Lăng, tiến cử với vua Lương Võ Đế (Tiêu Diễn). Nhưng, vì Lương Võ Đế chấp chặt vào phước báo hữu lậu thế gian, không hiểu được công đức chân thật của pháp giải thoát, nên Tổ Đạt Ma thấy không khế hợp, Ngài vượt sông Trường Giang sang nước Ngụy, đầu tiên đến kinh đô Lạc Dương, kế đó đến chùa Thiếu Lâm ở Tung Sơn thuộc tĩnh Hà Nam, ngồi nhìn vách núi 9 năm. Về sau, gặp được Huệ Khả cầu pháp, Tổ biết đó là pháp khí của Thiền tông, nên truyền y bát cho ngài Huệ Khả làm Tổ thứ 2 của Thiền tông Trung Quốc. Tiếp theo Nhị tổ Huệ Khả, y bát được truyền cho Tăng Xán, Đạo Tín rồi Hoằng Nhẫn (602 – 675).


Sau đời Ngủ Tổ Hoằng Nhẫn, xuất hiện một nhân tài kiệt xuất, dù không biết một chữ, đó là Lục Tổ Huệ Năng (638 – 713). Từ đó trở đi, Thiền Tông ngày càng khởi sắc, phát triển thành ra 5 phái Thiền, mà lịch sử Thiền Tông gọi đó là: “Nhất Hoa Khai Ngũ diệp” (Đóa Hoa Nở Năm Cánh).


Nhất hoa chỉ cho Đức Lục Tổ Huệ Năng, còn ngũ diệp là:
1.-Tông phái Lâm Tế, do Thiền sư Nghĩa Huyền (? – 867) sáng lập.
2.-Tông phái Tào Động, do Thiền sư Bổn Tịch (890 – 901) ở Tào Sơn và Thiền sư Lương Giới (807 – 969) ở Động Sơn sáng lập.
3.-Tông phái Vân Môn, do Thiền sư Văn Yễn (tịch 949) sáng lập.
4.-Tông phái Qui Ngưỡng do hai Thiền sư Linh Hựu (771 – 853)  ở Qui Sơn và Thiền sư Huệ Tịch ở Ngưỡng Sơn sáng lập.
5.-Tông phái Pháp Nhãn, do Thiền sư Văn Ích (885 – 958) sáng lập.



Đệ tử của 5 phái thi nhau phát triển ở khắp nơi, trong cũng như ngoài nước Trung Quốc, khiến cho mây lành che phủ, cam lộ rưới chan, mưa pháp đượm nhuần tín chúng. Nhờ đó mà “Thiền Của Phật Giáo” có mặt ở Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên…


Thế mà, thời nay khi nói tới Thiền, đa số Phật tử không biện biệt được thứ Thiền nào là “Thiền Của Phật Giáo” và thứ Thiền nào là “Thiền của ngoại đạo”, cho nên họ nói Thiền cũng chỉ là “một trong tám vạn bốn ngàn pháp môn” để đi đến cứu cánh của Đạo Phật mà thôi. Thật là một sự hiểu biết lầm lẫn tai hại vô cùng, có thể nói không có sự tổn thất nào lớn lao, quan trọng cho bằng.


Sự thật, Thiền là Linh Hồn của Phật Giáo, nó hội tụ tất cả “tinh hoa của Phật Giáo” mà thành. Không có Thiền, Phật Giáo có gì vượt trội hơn các Tôn Giáo lớn khác?. Nhờ có Thiền, cho nên thời nay dù rơi vào thời kỳ Mạt pháp, Phật Giáo vẫn được nhiều người ở khắp nơi trên thế giới đặc biệt quan tâm, chú ý đến.


Là một Phật tử, đâu có ai không biết Thái Tử sĩ Đạt Ta (SHIDDHARTA) vì tìm cầu cái Đạo Giải Thoát mà xuất gia. Suốt 5 năm đầu, Ngài lặn lội khắp nơi, tìm các vị cao nhân để học Đạo. Sau cùng, Ngài nhận thấy pháp tu của những vị Thầy (ngoại đạo) ấy không thể nào giúp cho Ngài được toại nguyện, nên Ngài rời bỏ đi đến vùng núi DUNGSIRI  thuộc vùng URUVELA, ngồi dưới gốc cây Bồ Đề (PIPPALA) tự dụng công, để thân chứng cho đưỢc những áo bí trong tâm. Và  vào một buổi sớm mai nhằm ngày mồng tám tháng chạp năm 544 trước Công nguyên, Ngài được Đại Ngộ khi sao Mai vừa mới mọc ở hướng Đông. Thế là, Thái Tử Sĩ Đạt Ta đã Thành Đạo, thông suốt tất cả bí ẩn của Vũ Trụ, Ngài trịnh trọng tuyên bố:


“Lạ thay! Lạ thay! Tất cả chúng sanh đều có đầy đủ tướng phước đức, trí tuệ Như Lai, chỉ vì vọng tưởng trói buộc che đậy, nên không thể chứng được. Nếu diệt sạch vọng tưởng, thì Vô Sư Trí, Trí Tự Lai, Các Năng Lực To Lớn sẽ có, tha hồ mà dùng!”.


Như vậy, rõ ràng “Thiền của ngoại đạo” đã có trước “Thiền của Phật Giáo”. Nhưng, “Thiền của ngoại đạo” lại không có đủ khả năng giúp cho người tu vượt ra khỏi “Vũ Trụ Cảm Giác” (Vũ Trụ Tương Đối) hay ra khỏi 3 cõi 6 đường được, nên Đức Phật không cho đó là cứu cánh. Trong khi đó, sáu phái ngoại đạo ở Ấn Độ vẫn áp dụng triệt để pháp tu nầy (Thiền của ngoại đạo) để sau khi chết được sanh về cõi Trời.


Chúng ta nên biết, phương pháp chủ yếu của sáu phái ngoại đạo là Minh Tư (hay Minh Sát) tức là ngồi nhắm hai mắt lại để Tư Duy và Quán Sát.


Để hiểu rõ hơn về giá trị và chỗ khác biệt về pháp tu của họ ra sao đối với “Thiền Của Phật Giáo”, chúng ta hãy dùng tiêu chuẩn Tam Pháp Ấn của nhà Phật, để đối chiếu và so sánh:


1.-Chư Hành Vô Thường (Các hành là vô thường): có nghĩa là tất cả các sự vật ở trên thế giới nầy, mà mắt chúng ta có thể thấy, tay có thể chỉ ra được, đều thoáng qua như khói mây trước mắt, có đó rồi bổng chốc mất đi (Thành, Trụ, Hoại , Không).


Ai cũng biết được điều nầy, nhưng người “thể hội” (biết tận bản chất) được nó, chắc chẳng có bao nhiêu. Huống nữa là người khi xúc duyên chạm cảnh, mà không bị mê muội, không bị cảnh lôi cuốn, thì quả thật chỉ “đếm trên đầu ngón tay”.


Để có được sức định và “thể hội” sâu sắc đạo lý nầy, phái Minh Tư nói trên, có thể đạt được kết quả, đủ sức đối phó với mọi nghịch cảnh xảy ra.


2.- Chư pháp vô ngã (= các pháp không có tự thể): Ngã có nghĩa là tự thể; chư pháp là chỉ cho tất cả sự vật ở trên thế gian nầy, cả thảy đều do đủ Nhân đủ Duyên hợp lại mà thành, bản thân nó không có cái gì gọi là “tự thể được”.


Chúng ta đều biết, núi Côn Lôn cực kỳ hùng vĩ, cao ngất trời xanh, nhưng “tự thể” của nó vẫn là không, bởi lẽ nó có là do đất, đá và cây cối hợp lại mà Có, nếu loại bỏ tất cả những thứ đó ra, thì ngọn núi to lớn nầy không thể tồn tại được. hà huống gì là những thứ nhỏ nhoi, yếu đuối khác.


Biển Thái Bình mênh mông không bờ bến, sóng cả ba đào, che phủ trời trăng, cái vĩ đại ấy, cũng do tất cả nước của những con sông lớn nhỏ khắp nơi trên trái đất, chảy ra thành biển. nếu loại bỏ số nước của những con sông nầy, chắc chắn biển Thái bình sẽ khô cạn, và nó sẽ bị xóa trên bản đồ thế giới ngay.


Hai sự vật to lớn đó, đại biểu cho toàn thể vạn vật trên thế gian nầy, “tự thể” của chúng đã là Không, thì những sự vật hay các pháp khác có thể nào vượt ra khỏi tính chất ấy được chăng?


Tuy nhiên, biết là một việc, còn khi chạm cảnh mà không mê muội, lại là một việc khác.


Cách đây hơn 30 năm, ở Đài Bắc có một sinh viên của một trường Đại Học đi bơi với một người bạn học ở Hồ Bích Đàm, bị chết đuối. khi nghe tin, bà mẹ cậu ngất xỉu, tỉnh lại chạy ra bờ hồ kêu gào than khóc, dù rất đông thân nhân, bạn bè khuyên nhủ, an ủi, cũng không nguôi. Mấy hôm sau, khi vớt được xác cậu con đem về, thì cũng phải đưa bà mẹ vào bệnh viện Hồ Giang để chửa trị!


Bà nầy thuộc thành phần trí thức, đã học hỏi và nghiên cứu rất nhiều về Phật pháp. Thường ngày, bà tỏ ra hết sức trầm tĩnh. Thế mà, khi va chạm với thực tế quá đau lòng nầy, bà không thể nào vận dụng nổi những điều đã học trước đây! (Bốn chúng Phật tử thời nay nên đặc biệt lưu ý điều nầy, để biết mình phải làm gì?).


Đó là lý do tại sao, sáu phái ngoại đạo ở Ấn Độ phải hết sức nỗ lực, hạ thủ công phu tĩnh tọa, để đủ sức đối phó khi hữu sự. điều nầy họ có thể làm được.


3.-Niết Bàn tịch tịnh (=Niết Bàn Vắng Lặng) Niết Bàn (NIRVANA) là tiếng phạn. trung Hoa dịch là: Diệt, Bất Sanh Bất Diệt hay Viên Tịch.


-Diệt là chỉ cho tất cả những thứ Tự Ngôn Tự Ngữ (=vọng tưởng tạp niệm) ở trong tâm linh đã bị tiêu diệt sạch hoàn toàn.


-Bất sinh bất diệt là chỉ cho một thế giới chẳng sinh chẳng diệt (Niết Bàn = Vũ Trụ Tri giác), sau khi áp dụng một phương pháp đặc thù nào đó, để thể nhập vào. Thế giới nầy, khác hẳn với thế giới  còn sinh diệt (sinh ra và mất đi).


Muốn tiến vào thế giới chẳng sinh chẳng diệt, nếu dùng Tư (nghĩ ngợi) hay Lự (suy xét) để mong đạt đến cảnh giới Niết Bàn, thì chẳng khác gì “trèo cây bắt cá”! Tam Tổ Tăng Xán đâu không viết hai câu đầu của bài “Tín Tâm Minh” như sau:
“Chí đạo vô nan, duy hiềm giản trạch”.



Chính vì thế cho nên, chỉ và chỉ có “Thiền Của Phật Giáo” mới có thể giúp cho những ai có ý chí xuất trần “qua được Bờ Bên Kia” thể nhập vào Vũ Trụ Tuyệt Đối hay Ngộ Nhập Phật Tri Kiến mà thôi!


Thế nhưng, vì bởi thời kỳ Mạt pháp, nên tất cả cũng phải chịu ảnh hưởng xấu lây, nên có một số người bám theo ngữ nguyên giải thích “Thiền Của Phật Giáo” là pháp tu “”tĩnh Lự và Tư Duy” chẳng khác với “Thiền Của Ngoại Đạo” là mấy! Tệ hại hơn nữa là nói: “Cốt tủy của Thiền theo lời Phật dạy là cột tâm một chỗ việc gì cũng xong”, nên rồi mạnh ai nấy tu, thành ra loạn tu loạn chứng. Suốt đời cực nhọc vất vả gian nan để tu Thiền, nhưng rốt cuộc rồi lỗ vốn trắng tay.


 Phải biết rằng, nguyên tắc cơ bản của Thiền Tông là “bỏ Lự diệt Tư”, để đi đến chỗ:
“Tà chánh tận đã khước,
Bồ Đề tánh uyễn nhiên”
(Kinh Pháp Bảo Đàn)
(Tà Chánh đều dẹp sạch,
Tính Bồ Đề sáng tỏ).



Bởi vì, Tư và Lự cũng chỉ là vọng niệm. Cho dù chỉ luôn Tư Phật, Tư Pháp, Tư Tăng; chỉ luôn Lự Giới, Lự định, Lự tuệ… đi nữa, thực chất cũng vẫn là thứ “rác rến” trong tâm, che mờ Tánh Giác”. Có thể nói, tâm linh cũng giống như tròng con mắt, không thể chấp nhận bất cứ vật gì trong đó, dù là mạt vàng bụi ngọc cũng làm giảm đi tánh sáng, mất đi sự an lành, cần phải bỏ đi mới được.


Nói tóm lại, từ khi “Thiền Của Phật Giáo” có mặt ở Việt Nam cho đến nay, đã trên 1300 năm rồi. Với khoảng thời gian dài đằng đẳng đó, Thiền Tông Việt Nam đã trải qua những lúc cực thịnh, tỏa sáng và những thời kỳ đen tối suy tàn. Song, Thiền Tông Việt Nam lúc nào cũng vẫn đi theo con đường “Trị Tâm Bệnh” mà Đức Thế Tôn đã đề ra, còn các Tông phái khác, đều là những “ngả rẻ mất dê” mà thôi. Cho dù họ có nói hay, khéo đến nỗi hoa trời rơi đầy đất đi nữa, cũng chỉ là “Hình cái cổng vẽ trên tường” một thứ, trông rất huy hoàng đẹp đẽ, nhưng không có một ai xuyên qua được! (không thể Ngộ Đạo được).


Tu hành theo Phật là để ra khỏi nhà lửa, nếu không “Minh tâm kiến tánh” hay không “thấy Pháp thân”, thì kết quả sẽ ra sao? Do đó, “muốn trị tâm bệnh”, người tu Thiền phải khẳng định một điều là, khi những thứ Tự Ngôn Tự Ngữ (Vọng Tưởng Tạp Niệm) ở trong thâm tâm chúng ta đã dừng bặt hay đã lặng sạch hết rồi, lúc bấy giờ tâm linh ở trong trạng thái Vô niệm, nhà Phật gọi đó là: Ngộ Đạo, Kiến Tánh, Thấy Pháp Thân hoặc nhận ra được cái “bản lai diện mục “ của chính mình…


Cửa ải ngặt nghèo nầy (Ngộ Đạo), nếu vượt qua được, thì cái việc Chứng Đạo và Thành Đạo, chỉ còn tùy thuộc vào thời gian mà thôi. Và để làm cho được cái công việc hết sức quan trọng nầy, hành giả phải có một pháp tu thật tốt như Pháp Giải Thoát, để hạ thủ công phu mới có hy vọng được toại nguyện.


Chú ý: “Diệt vọng tưởng, hiện Chân Như là để Ngộ Nhập Phật Tri Kiến, nếu không có pháp tu tốt, thì chẳng khác gì muốn lên mặt trăng mà không có phi thuyền và hỏa tiễn vậy!


NGHIỆP LỰC


Đức Phật dạy: “Chúng sanh là chủ tạo nghiệp và thừa kế  cái Nghiệp mà mình đã tạo”. Để biết Nghiệp Lực là cái gì và ở đâu, trước tiên chúng ta nên biết chữ Nghiệp được dịch từ chữ Phạn KARMA. Nghiệp có 3 thứ: Nghiệp Thiện, Nghiệp Ác và Nghiệp Vô Ký (không thiện không ác).


Nghiệp Lực là sức mạnh của Nghiệp, các nhà khoa học gọi đó là Năng Lực (Power, Force)… Sức mạnh của Nghiệp chính là động cơ khiến chúng ta dính mắc với sinh tử Luân hồi, khó mà thoát khỏi Tam giới (Dục, Sắc và Vô sắc giới).


Trong kinh thường diễn tả Nghiệp là “cái mà lớn cũng không ngoài, nhỏ cũng không trong”. Nếu nghiệp mà có hình tướng vật chất, một con người từ vô thủy đến nay đã tạo tác ra nghiệp, dầu Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới, cũng không đủ chỗ chứa!”. Lời giải thích nầy cũng không có gì cao siêu có hiểu, chỉ cần nghe được ý quên lời.


Thực ra, Nghiệp là Năng Lực có chính, có phụ, nó chi phối chúng ta trong một đời hay nhiều đời về họa phước, thọ yểu, cùng thông, được mất v.v… Để cho dễ hiểu hơn, tôi xin dẫn bài kinh sau đây, để các bạn thấy:


Có người ngoại đạo đến hỏi Phật: 
-Thưa Thế Tôn, cái gì định đặt cho con người, sinh ra kẻ thì nghèo nàn khổ sở, người thì giàu sang sung sướng, kẻ thì sống lâu, người thì chết yểu, kẻ thì yếu đau, người thì khỏe mạnh, kẻ thì ngu tối, người thì thông minh?.
Đức Phật đáp:
-Tất cả sự sai biệt giữa con người và con người là do Nghiệp mà họ đã tạo định đặt ra, nên có kẻ ưu người liệt.
-Do tạo nghiệp gì khiến cho người sống lâu và do tạo nghiệp gì khiến cho người chết yểu?
-Người không tạo nghiệp sát hại chúng sinh, thì được thọ mạng lâu dài. Người tạo nghiệp sát, đoản mạng sống của chúng sinh, nên thọ mạng yểu.
-Do tạo nghiệp gì mà thân người được khỏe mạnh, và do tạo nghiệp gì mà thân hay đau yếu bệnh tật?
-Do nghiệp ác làm cho người đau khổ, nên thọ thân hay bệnh tật đau yếu. Và do tạo nghiệp lành như an ủi giúp đỡ người qua khỏi những tai nạn khốn khó nên được thọ thân khỏe mạnh vui tươi.
-Do tạo nghiệp gì mà sinh trong gia đình giàu sang sung sướng và tạo nghiệp gì mà sinh trong gia đình nghèo đói khốn khổ?
-Do đời trước biết tu làm lành, biết bố thí cúng dường, biết giúp đỡ người nghèo đói bệnh tật, nên đời nay được sinh trong cảnh giàu sang sung sướng. Người ở đời trước vì không biết bố thí cúng dường, không biết giúp đỡ người nghèo khó, lại còn tham lam rút rỉa của những người khác, nên đời nay sinh thân trong cảnh nghèo đói thiếu thốn.
-Do nghiệp gì người sinh ra được thông minh sáng suốt, và do nghiệp gì người sinh ra lại ngu dốt tối tăm?
-Người đời trước do siêng năng học hỏi tìm hiểu chân lý, ưa thích giúp người học hỏi hiểu biết nên đời nầy được thông minh. Còn người ở đời trước do lười biếng học, không chịu tìm hiểu chân lý, cản ngăn sự học hỏi của người, nên đời nầy bị tối tăm mê mờ.



Có thể nói sống ở trên thế gian nầy, nếu không hiểu biết gì về Nghiệp, sẽ có rất nhiều thắc mắc đến độ nan giải. Bởi lẽ, nhân quả nhiều đời nhiều kiếp, chồng chất lên nhau mang tính trùng trùng duyên khởi, nên có nhiều kết quả hết sức đa dạng và phức tạp (do nhân sai biệt giữa hình thức và nội dung tạo các quả sai biệt tương đương). Chẳng hạn như nhiều kẻ diện mạo xinh đẹp mà trong lòng độc ác hơn rắn độc, còn người có tướng mạo xấu xí mà giàu có muôn vàn… Dĩ nhiên thực tế nầy khiến cho đa số người chưa thể hội sâu sắc, đầy đủ về Nhân – Duyên – Quả sẽ rất hoài nghi về giáo lý cao cả nầy.


Nhưng ở đây, vấn đề chúng ta đặt ra là để nghiên cứu thảo luận xem coi làm thế nào để có thể chuyển hóa tất cả những cái xấu xa tệ hại của Thân và Tâm do Nghiệp lực tạo ra, để trở nên tốt đẹp một cách nhanh chóng, chứ không cần phải chờ đợi đến kiếp lai sinh mới thay đổi được.


Để làm cho được cái công việc hết sức quan trọng nầy, trước hết các bạn phải tỉnh giác giữ chính niệm, luyện tập làm chủ cho được chính mình, để cho 3 nghiệp (Thân Khẩu Ý) được thanh tịnh (xem lại bài “Tỉnh giác giữ Chính Niệm”). Kế đó, các bạn phải hiểu biết cho thật rõ Nghiệp Lực hay Năng Lực là cái gì hay ở đâu?.


Ở trên có nói, Nghiệp lực không có hình tướng, nhưng không vì thế mà chúng ta không thể không thấy không biết được nó. Ngay lúc các bạn nhắm hai con mắt thịt lại, quan sát bên trong thân (tâm), liền thấy đủ thứ hết, nào là sơn hà đại địa, mặt trời trăng sao, cười nói, nghĩ bậy tưởng bạ, thì thì thầm thầm, rối rối rít rít, tầng tầng lớp lớp đổi dời biến hóa: đó chính là hoặc, là nghiệp, là khổ, và tất cả là do tạp niệm (vọng tưởng) chuyển hóa, tạo tác ra mà thành.


Hoặc + Nghiệp +Khổ tuy ba mà một, tuy một mà tạo thành ba. Chắc hẳn, các bạn thường nghe những người tụng kinh hay tụng câu: “Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não” (Nguyện diệt ba chướng trừ phiền não) chứ?. Khi hỏi họ ba chướng là gì? Họ đều rập khung theo kinh điển trả lời: Nghiệp chướng, Báo chướng và Phiền não chướng. Thí như, các bạn hỏi tiếp: “Làm sao để tiêu ba chướng?”, thì họ sẽ chẳng trả lời câu hỏi của các bạn đâu. Tại sao thế? Tại vì, họ đau có biết ba chướng chính là những thứ Tạp niệm (vọng tưởng) ở ngay trong tâm của họ.


Chính vì thế cho nên, nếu các bạn trừ sạch những vọng tưởng (tạp niệm) thì mới có thể tiêu được Nghiệp! Nếu Nghiệp không còn thì Hoặc và Khổ cũng theo đó mà tiêu vong.


Nếu như, Nghiệp Lực là động cơ dẫn dắt chúng ta trôi lăn trong 3 cõi 6 đường, nay đã bị tiêu diệt không còn nữa, thì thử hỏi lấy cái gi để ràng buộc chúng ta trong vòng Luân hồi nữa chứ? Thế là chúng ta được Tự tại và Giải thoát lớn, có phải không nào?.


Tuy nhiên, muốn tiêu diệt sạch hết Nghiệp Lực hay những thứ tạp niệm (vọng tưởng) ở trong Tâm linh, quả thật là một việc làm hết sức khó khăn và không đơn giản chút nào. Có thể nói, từ xưa cho đến nay, đã có vô số người cũng vì vấn đề nầy mà mất ăn mất ngủ hoặc kéo cờ trắng đầu hàng!.


Theo chỗ thấy của tôi, nếu như các bạn tìm ra được nguồn gốc chính của muôn vật (Pháp Thân), là cái nút hay cái khâu trọng yếu nhất, là giải quyết được tất cả mọi vấn đề.


-Nguồn gốc chính tức “Điểm xoay” nầy ở đâu?
Có lẽ các bạn muốn nhanh chóng biết, phải không?



Không khó lắm đâu, các bạn chỉ cần lưu ý một chút là thấy nó ngay. Trong Vũ Trụ, chỗ nào mà ngày cũng như đêm đều xuất hiện bóng dáng đổi thay của muôn vật, đó chính là Điểm xoay của muôn vật (=Chỗ mà tạp niệm khởi lên =cửa ra vào vòng luân hồi).


Như vậy, ngoài cái tâm linh của các bạn ra, sẽ không thể nào tìm thấy chỗ khác được, dù tìm tất cả không gian trong và không gian ngoài của Vũ Trụ.


Tóm lại, chúng ta chỉ cần làm sao để công phu ngay tại điểm xuất phát nầy ở trong tâm, và có cách nào đó để làm cho sạch và làm cho đẹp ở chỗ nguồn gốc nầy, chắc chắn là chúng ta sẽ dễ dàng chuyển hóa tất cả những gì xấu xí của Thân Tâm, để trở thành đẹp đẽ đáng ưa hơn. Nhưng để khỏi mất thời giờ quí báu của các bạn, tôi thành thực mà nói với các bạn rằng, ở vào thời buổi hiện nay chỉ và chỉ có Nhiếp Hóa Pháp hay Giải Thoát Pháp mới có thể giúp cho các bạn được toại nguyện mà thôi. Tin hay không tin đó là việc của các bạn.
---------
Ghi chú:
Dùng Giải Thoát Pháp để tu cần phải lưu ý các điểm sau đây:
1.-Phải nắm bắt cho được pháp tu. Đặc biệt là về mặt kỹ thuật dụng công. Đừng thêm hay bớt những gì ở nơi pháp tu. Mà chỉ nên đúng y theo sự hướng dẫn mà hạ thủ công phu.



2.-Kinh nghiệm cho biết, nhiều người tự học tự tu, không có người hướng dẫn cách thức dụng công, nên ít có người đạt được kết quả tốt. Thậm chí có người đạt được mục đích: Tâm Thể Vô Niệm, mà cũng không hay không biết?


3.-Phải thể hội sâu khắc Quan Niệm về thân xác hay Khu xác quan niệm mà trước đây gọi là Thân chính giác cũng như cách thức đặt câu hỏi để phát khởi Kỳ Tình, mới có thể tiêu diệt được Tạp niệm.


4.-Nếu cần đến sự hướng dẫn hay giải nghi cứ liên hệ với người viết ở số 154/34 Nguyễn Biểu P.2, Q.5 TP>HCM. ĐT: 38366226 (Hẹn trước là tốt nhất).


Thiền sư THÍCH THANH PHƯỚC

08/05/2015

16 mẹo này đều hữu ích và có thể áp dụng trong đời sống hằng ngày.

 ST 

 

1. Trừ kiến trong hũ đường: hãy dùng một thanh sắt hay con dao bỏ vào hũ đường, các con kiến sẽ bò ra nơi khác.

 

2. Cách nối dây bếp điện bị cháy đứt: hãy dùng một ít hàn the phủ lên chỗ giao tiếp giữa hai đầu dây bị đứt, nó sẽ được nối dính chắc chắn, xài rất bền.

 

3. Ðể chảo được bền: Chảo mới mua về, phải đổ nhiều mỡ vào đun sôi. Sau đó lấy muối bột chà xát bên trong chảo vài lần. Làm như vậy chảo sẽ được bền và thức ăn chiên không bị dính chảo.

 

4. Tẩy vết thâm kim, mốc trên quần áo: hãy thấm ướt những vết thâm kim, mốc trên vải bằng nước cốt trái chanh rồi đem phơi ngoài nắng vài giờ. Sau đó đem giặt bằng xà bông bình thường.

 

5. Tẩy vết dơ do mồ hôi dính trên quần áo: hãy ngâm quần áo có vết dơ do mồ hôi dính ở cổ tay hay nách, lưng quần … vào giấm đun sôi để âm ấm độ nửa giờ rồi giặt lại bằng xà bông.

 

6. Tẩy mủ chuối dính quần áo: Mủ chuối dính vào quần áo rất khó tẩy. phải dùng giấm ngâm chỗ quần áo bị dính mủ chuối vài giờ cho vết mủ tan hết. Xong giặt lại bằng nước lạnh.

 

7. Ðể vải không đổi màu: Muốn những quần áo bằng vải hoa không bị đổi màu, sau khi giặt bằng xà bông xong phải xả thật sạch với nước lã, rồi cho vào nước xả cuối cùng một ly giấm trắng. Làm như thế quần áo không bị đổi màu, màu không bị phai nhạt đi.

 

8. Tẩy vết bẩn trên khăn tay: ngâm khăn tay vào nước muối độ chừng một giờ. Sau dùng xà bông bột giặt xả sạch.

 

9. Cách để dành sơn không khô: Sau khi sơn xong mà còn dư sơn trong hộp, hãy đậy nắp hộp sơn thật kín. Khi cất để nó ngược xuống (nắp ở dưới, đáy ở trên). Làm như vậy sơn sẽ không bao giờ khô.

 

10. Cách giữ những tấm ảnh được bền lâu: đánh tròng trắng trứng gà cho nổi rồi dùng bông gòn tẩm dầu hôi chấm trứng bôi lên mặt bức ảnh để cho khô rồi đem cất kỹ.

 

11. Giữ sơn không dính vào kính: Khi sơn cửa kính, đê sơn không dính vào kính, hòa tan xà bông trong nước rồi quét nước đó lên trước khi sơn khung.

 

12. Chỉ may hay bị rối: Sau khi xỏ chỉ vào kim, bạn đâm kim vào cục xà bông hay đèn cầy, rồi kéo cho sợi chỉ xuyên qua theo kim cho đến hết chỉ. Chỉ sẽ hết rối.

 

13. Làm cho ốc hết nhớt nhanh: Muốn ốc hết nhớt nhanh để ăn liền, đổ ốc vào thau ngập nước rồi thả vào nước đó vài trái ớt đâm nát cho đủ cay, ốc sẽ vội vàng nhả hết nhớt ngay.

 

14. Cách làm sạch nhớt lươn: pha một thau nước vôi và muối rồi bỏ lươn vào, một lát sau lươn sẽ chết sau khi vùng vẫy chất nhờn sẽ tuôn ra. Sau đó cạo rửa và làm sạch. Nếu không có vôi có thể dùng tro bếp với muối cũng được.

 

15. Muốn lấy nước cốt chanh mà không cần cắt ra: Ðôi khi chỉ cần vài giọt nước cốt chanh mà nếu cắt ra thì uổng lắm. Hãy đốt một que diêm rồi thổi tắt và dùng đầu que bị đốt đâm vào trái chanh, sau đó chỉ bóp nhẹ là nước chanh sẽ tia ra ngay.

 

16. Cách chữa thức ăn bị hôi khói: Nếu thức ăn hôi khói thì dĩ nhiên là ăn không ngon. Ðể làm mất mùi khói này thì chế vào thức ăn đang đun sôi vài muỗng canh nước tương ngon, đậy kín lại. Ðộ 5 phút sau thì mùi hôi khói sẽ mất đi.

 

Mẹo chữa hóc xương cá

   Hóc xương cá là "tai nạn" rất thường gặp khi ăn uống bất cẩn. Không chỉ gây ra cảm giác khó chịu mà nó còn ảnh hưởng đến thực quản của bạn.

Những điều không được làm khi bị hóc xương cá
   - Bình tĩnh để giải quyết vấn đề.
   - Tuyệt đối không dùng tay móc họng để lấy xương. Vì hành động này rất nguy hiểm. Có thể bạn không thể lấy xương ra được nhưng lại đẩy nó vào sâu hơn nữa.
   Đồng thời việc làm này còn có thể gây tổn thương thực quản, xước, rách, thậm chí là thủng thực quản rất nguy hiểm.
   - Tuyệt đối không uống nước hay ăn cơm thành miếng to để mong xương chạy theo cơm hay nước vào trong. Vì làm như vậy sẽ làm tăng nguy cơ tử vong nếu xương cá lớn đâm thủng mạch máu.
   - Tuyệt đối không khạc nhổ nhiều làm tăng cảm giác đau rát khó chịu và ảnh hưởng đến thực quản của bạn.
Mẹo chữa hóc xương cá hiệu quả
   Khi bị hóc xương cá đừng nên nóng vội để móc xương ra mà hãy thử làm một trong số các mẹo dưới đây xem sao nhé! Cực đơn giản mà hiệu quả vô cùng.
   Gia vị luôn sẵn có trong bếp nhà bạn, rất dễ kiếm mà không mất nhiều thời gia.
   Khi bị hóc xương cá hãy xác định xem mình bị hóc bên nào. Nếu là hóc bên phải thì hãy dùng một nhánh tỏi bóc vỏ và nhét vào lỗ mũi bên trái sau đó hãy bịt lỗ mũi bên phải lại và thở bằng mồm.
   Khoảng 1-2 phút sau bạn sẽ hắt hơi và nôn ra, khi đó xương cá sẽ theo đó mà ra ngoài. Bạn có thể làm điều ngược lại với lỗ mũi bên phải khi bị hóc xương bên trái.

Ngậm và nuốt vỏ cam
   Vỏ cam sẽ có hoạt chất khiến xương cá mềm và tan theo nước bọt. Do đó, khi bị hóc xương cá bạn chỉ cần lấy một miếng vỏ cam ngậm trong miệng một lúc, xương cá sẽ tự tan ra.

Dùng một viên vitamin C
   Vitamin C có tác dụng y như vỏ cam. Do đó, nếu không có vỏ cam bạn có thể thay thế bằng một viên vitamin C để ngậm.
   Sau vài phút sẽ “hủy” được xương cá. Ngoài ra, vitamin C còn có tác dụng giảm đau, kháng viêm rất tốt cho vùng thực quản bị hóc xương cá tránh được sự tổn thương.

Uống nước quả trám
   Dùng quả trám mài ra rồi hòa với nước uống để tiêu xương cá khi bị hóc xương.
   Tuy có tác dụng tiêu xương cá rất tốt nhưng chỉ nên dùng ở những trường hợp hóc xương nhỏ. Những trường hợp hóc xương lớn hơn sẽ phải cần đến sự trợ giúp của bác sĩ.

Cách lọc xương cá để không bị hóc xương
Chọn cá
   Chọn những con cá to, cân nặng ít nhất là 1kg để hạn chế lượng xương dăm trong cá. Những con cá lớn sẽ có lượng xương ít hơn, đồng thời xương to sẽ dễ phát hiện hơn.
   Nếu ăn với số lượng ít bạn có thể mua một khúc hay đoạn cá với lượng vừa đủ để chế biến.

Các bước lọc xương cá
Bước 1: Dùng sống dao to đập vào đầu cho cá chết rồi đánh sạch vảy.
Bước 2: Dùng kéo cắt bỏ các vây quanh mình cá cho sạch.
Bước 3: Chọc kéo vào ức cá và cắt dọc xuống đến rốn, phanh bụng lôi ruột ra ngoài, rửa sạch khoang bụng. Có thể lấy đi phần màng đen bên trong bụng cá (nếu có) để cá không còn mùi tanh.
Bước 4: Dùng dao cắt xương con hai bên xương sống.
Bước 5: Cắt bỏ hết phần xương sống bằng kéo.
Bước 6: Dùng dao lưỡi mỏng lạng bỏ 2 phần bên hông xương sống của cá.
   Cá hết xương, cắt khúc và chế biến theo sở thích của bạn. Ăn cá lọc xương không lo bị hóc!

07/05/2015

12 cách chọn ISO khi chụp ảnh

Độ nhạy sáng (ISO) là một con dao hai lưỡi. Khi ISO được điều chỉnh, độ nhạy của cảm biến ảnh sẽ thay đổi theo.
Với  ISO cao hơn, cần tăng tốc độ cửa trập và giảm khẩu độ nhằm hạn chế mức tiếp xúc của ánh sáng với cảm biến trên máy. Ngược lại, ISO càng thấp, độ nhạy của cảm biến ảnh càng thấp.Như vậy, ISO linh hoạt khiến cho việc chụp hình ở những điều kiện ánh sáng khác nhau dễ dàng hơn. Khi ánh sáng yếu và lo ngại đèn flash có thể làm hỏng thần thái bức ảnh, ISO cao sẽ là lựa chọn thích hợp. Tuy nhiên, ISO cao cũng đi kèm với nguy cơ “nhiễu” hay “hạt” cao. ISO càng tăng, ảnh chụp càng dễ sần, rạn. Do đó, bí quyết để có một nước ảnh thật mượt là chọn mức ISO thấp nhất có thể.
Sau đây là một số gợi ý giúp lựa chọn độ nhạy sáng thích hợp:
1. Nếu máy ảnh có chân cố định, hãy chọn tốc độ cửa trập nhỏ hơn, khi đó có thể hạ thấp ISO.
2. Khi không cần phải chụp xa, có thể tăng khẩu độ, để ánh sáng đi vào ống kính nhiều hơn và giảm bớt ISO
3. Có thể sử dụng đèn flash thay vì tăng độ nhạy sáng.
4. Khi chụp những bức hình có tính trừu tượng, nên tăng ISO để tạo một độ sần cần thiết, nhờ đó có thể khắc họa thần thái, cá tính của ảnh.
5. Đối với những ảnh chụp có kích cỡ vừa phải, không cần phải phóng to, người chụp có thể thoải mái lựa chọn ISO.
6. Chỉ nên điều chỉnh ISO khi chụp thủ công hay bán tự động. Đối với chế độ chụp tự động hay chế độ mặc định, độ nhạy sáng được thiết lập sẵn trong máy là thích hợp nhất và không cần điều chỉnh thêm.
7. Trong trường hợp đã vừa ý với thần thái của ảnh chụp, nhưng nhiều hạt quá mức, người chụp có thể khắc phục bằng phần mềm miễn phí có tên ND Noise hoặc các phần mềm khác – tìm trên Google với từ khóa “Noise Reduction Software.”
8. Để ISO ở mức 3.200 khi chụp pháo hoa.


 9. Đôi khi sau nhiều lần chụp và điều chỉnh ISO, người chụp thường quên thiết lập trở lại mặc định ban đầu của máy. Cách khắc phục kì quặc nhưng lại rất hữu hiệu là dán một mẩu giấy một ghi nhớ nhỏ dưới ống ngắm máy ảnh, giúp tự nhắc nhở sau mỗi lần chụp. Hoặc thay vì sử dụng các chế độ mặc định, có thể chụp hoàn toàn thủ công. Nhờ đó, người chụp có thể dễ dàng điều chỉnh ISO mỗi khi thay đổi khẩu độ và tốc độ cửa trập.
10. Một điều nên nhớ là luôn đặt ISO ở mức thấp nhất có thể. Bắt đầu với ISO 80 cho ánh sáng rực rỡ và 100 hoặc 200 khi ánh sáng yếu hơn. Người chụp có thể điều chỉnh ISO cao hơn nữa, nếu cần thiết, nhưng thường không quá 400 bởi độ nhiễu hạt tăng cao. Với điều kiện ánh sáng phức tạp, nên chọn chế độ chụp ưu tiên khẩu độ, sau đó điều chỉnh ISO theo khẩu độ.
11. Ngoài ra, khi chụp nên thử trước với nhiều thiết lập ISO khác nhau. Chụp nhiều bức hình với các độ nhạy sáng khác nhau, người chụp có thể chọn ra được bức hình ưng ý nhất. Đây cũng là một cách thực hành để cải thiện khả năng lựa chọn ISO thích hợp với những điều kiện ánh sáng nhất định.
12. Sau khi chụp, việc điều chỉnh tăng độ tương phản cho hình có thể phản tác dụng, khiến hình càng thêm sần, rạn. Để khắc phục, sử dụng các phần mềm giảm nhiễu đã để cập ở mục trên.